[Funland] Chiến tranh điện tử (từ eo Đối Mã đến Lebanon và quần đảo Falkland)

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


Một trang nhật ký ghi chép của Мasiaghutov E.G. Chuyến hành quân trên tàu hải dương học "Protraktor" tại Biển Đông năm 1964. Trang №3.

Một trong những sự cố đầu tiên, có thể quy cho hành động nguy hiểm như vậy, là sự biến mất vào tháng Tư năm 1950 một máy bay Privateer PB4Y2 Hải quân Hoa Kỳ. Chiếc máy bay lớn này, sáu trong mười thành viên phi hành đoàn là các chuyên gia trong ngành điện tử, ngày 08 Tháng 4 năm 1950 cất cánh từ Wiesbaden Tây Đức. Chính thức đường bay của nó là bay đến Copenhagen, tuy nhiên, rất có thể nhiệm vụ chính của nó là thực hiện ELINT ở biển Baltic. Lần cuối cùng nó lên sóng liên lạc hồi 14:40, trên bầu trời Bremerhaven Tây Đức.

Theo thông báo của người Nga, chiếc máy bay mà họ phân loại như máy bay ném bom B-29, bị phát hiện cự ly khoảng 560 km cách Copenhagen, trên bầu trời Leye (Latvia), nằm trong không phận Nga, chiều sâu thâm nhập 11 km, và đã bị chặn lại bởi các máy bay tiêm kích Liên Xô làm nhiệm vụ trực chiến, những chiếc tiêm kích này ra lệnh cho nó phải hạ cánh xuống sân bay Liên Xô. Người Nga cho rằng máy bay Mỹ đã nổ súng vào các máy bay tiêm kích, sau đó chiếc máy bay xâm nhập bị bắn rơi.

Tuy nhiên, các bằng chứng dường như chỉ ra rằng "máy bay ném bom B-29", trên thực tế, là Privateer, bởi vì phi hành đoàn hy sinh cuộc sống của họ khi thực hiện nghĩa vụ, đã được truy tặng phần thưởng quân sự của Chính phủ Hoa Kỳ.


Lionel Crabb năm 1944 tại Gibralta trong Thế chiến 2.

Loại sự cố như vậy xảy ra trên toàn thế giới, từ biển Baltic đến Đông Đức, từ Nga sang Tiệp Khắc, từ biển Đen tới biển Trung Hoa, từ Triều Tiên đến Siberia, nhưng nhiều chuyện trong số đó không bao giờ được đề cập đến.

Để có một ý tưởng về mức độ nghiêm khắc của việc im lặng điện đài vô tuyến và radar Nga, chỉ cần nhớ lại trường hợp xảy ra với chuyến Khruschev viếng thăm Vương quốc Anh vào tháng Tư năm 1956. Tổng bí thư **** Cộng sản Liên Xô Khrushev và Thủ tướng Bulganin của Liên Xô, ngày 16 tháng 4 năm 1956, đi trên tàu tuần dương "Ordzhonikidze", hộ tống có hai tàu khu trục : "Smotriasy" và "Soversenny" xuất phát từ một trong những bến cảng trên biển Baltic, đi tới thành phố Portsmouth của nước Anh. Dọc theo tuyến đường biển của các tàu Nga, một số tình báo NATO, với sự hỗ trợ của một phần hạm đội, các máy bay ELINT và trạm đánh chặn mặt đất, tổ chức một mạng lưới các máy thu. Tuy nhiên, trong suốt chuyến đi biển, kéo dài ba ngày, tàu của Nga không bao giờ bật thiết bị điện tử của mình.

Trong khi "Ordzhonikidze" và đội tàu hộ tống của nó neo ở cảng Portsmouth, trung tá hải quân "Buster" Crabbe, một cựu thuyền trưởng tàu tuần tra Anh, và cũng là một tay thợ lặn danh tiếng, đã biến mất trong vùng nước của cảng; thi thể không đầu, không tay của ông ta chỉ được tìm thấy vài ngày sau. Theo tin đồn, ông ta đã gặp nạn trong khi đang cố gắng thu thập thông tin về các sonar và các tần số làm việc của các hệ thống dưới nước của những con tàu Nga : tin đồn này cho đến nay chưa ai bác bỏ.

Một công cụ quan trọng để thu thập thông tin EW là mạng lưới các trạm mặt đất được bố trí phù hợp, có thể chặn thu một số lượng lớn các tín hiệu radio và radar và sử dụng phương pháp tam giác để xác định vị trí của các nguồn bức xạ. Do đó, tất cả các cường quốc thế giới, dù lớn hay nhỏ, đã bắt đầu xây dựng hoặc mở rộng mạng lưới các trạm tiếp nhận chuyên dụng.

Lẽ tự nhiên, hoạt động này có mức bí mật cao nhất. Tuy nhiên, mọi người cũng biết rằng, dọc theo biên giới giữa Đông và Tây Đức đã thiết lập các hệ thống chặn thu tín hiệu radar cực kỳ hiệu quả, một của NATO và một của các nước khối Hiệp ước Warsaw. Ngoài ra, không nghi ngờ gì, một mẫu mực tuyệt vời của việc đánh chặn là ở vùng Vịnh Ba Tư, khoảng giữa năm 1948 và năm 1950, khi một nhóm các điện đài viên Anh cải trang thành các nhà khảo cổ !


Tên lửa đạn đạo liên lục địa đầu tiên R-7. Trên trường bắn Tiura-Тam sau khi phóng «R-5» năm 1956. Tên lửa đạn đạo «R-7» ngày 15 tháng 5 năm 1957.

Tuy nhiên, trung tâm SIGINT (tình báo tín hiệu) quan trọng nhất được thành lập là ở Iran. Các nước phương Tây đặc biệt quan tâm mạnh mẽ đến khu vực này của Trung Cận Đông, vì người Nga đã xây dựng trường bắn tên lửa Tiura-Tam giữa các vùng biển Caspian và Aral. Để theo dõi tiến bộ của người Nga trong lĩnh vực vũ khí có điều khiển, đồng thời, để có được thông tin về các đặc tính và chế độ làm việc của các hệ thống radar dẫn đường tương ứng, người Mỹ quyết định xây dựng ở Iran, gần phạm vi trường bắn tên lửa Nga, một trạm thu nhận tin trinh sát đặc biệt.

Các trạm đó được trang bị các công cụ nhạy cảm nhất và chính xác nhất mà nền công nghiệp điện tử của họ có thể sản xuất, được xây dựng tại Kabkan, khoảng gần Meshkhed, trên vùng núi phía bắc gần biên giới với Liên Xô và tại Beshkhehr trên biển Caspian. Chúng làm việc liên tục và bất cứ khi nào người Nga bắt đầu thử nghiệm tên lửa mới, các khai thác viên người Mỹ đã có thể tính toán, bằng phương pháp tam giác, quỹ đạo của tên lửa và đo lường tất cả các tham số của hệ thống radar mới của họ. Sử dụng các phương pháp này, người Mỹ có thể tạo ra các công cụ và biện pháp đối kháng điện tử phù hợp để chế áp và tiến hành đánh lừa các hệ thống radar trong trường hợp có chiến tranh.

Trong Chiến tranh Lạnh, các hoạt động của Hoa Kỳ không chỉ giới hạn bởi việc đánh chặn dữ liệu về ICBM. Họ cũng quan tâm đến chiến lược và chiến thuật của Không quân Xô viết. Để có được thông tin liên quan đến lĩnh vực này, họ xây dựng các trạm nghe lén mới cực kỳ phức tạp ở Anh (Chiksendz), ở Đức (Darmstadt và Berlinhof), ở Ý (Brindisi), ở Thổ Nhĩ Kỳ (Karamushel và Trabzon), trên đảo Crete và vô số trên Thái Bình Dương. Nhiệm vụ chính của các trạm này là chặn thu và ghi lại toàn bộ các tín hiệu radio trao đổi giữa các máy bay và các sở chỉ huy của chúng. Mục đích là để nhận được thông tin liên quan đến hoạt động của các máy bay, tên lửa và radar của họ, các chiến thuật họ sử dụng. Một số trạm có những chảo ăng-ten khổng lồ, không gian quét 360 độ, có khả năng nhận được tín hiệu radio của các máy bay cách chúng hàng ngàn km.


Menwith Hill, một trung tâm SIGINT xây dựng từ năm 1954 gần Harrogate, North Yorkshire, Anh. Hoạt động trong thời Chiến tranh Lạnh cho đến ngày nay. Ảnh chụp năm 2005 thể hiện các bầu che radar.

Trong giai đoạn căng thẳng nhất của cuộc Chiến tranh Lạnh, máy bay cũng trở thành mục tiêu đánh lạc hướng điện tử, đôi khi dẫn đến hậu quả rất nghiêm trọng, mặc dù các sự cố như vậy không nhiều người biết đến. Tín hiệu dẫn đường vô tuyến giả được truyền đến máy bay bởi các trạm dẫn đường vô tuyến không thực. Chúng phát các tín hiệu giả hệ thống ADF (Automatic Direction Finder - hệ thống vô tuyến tầm phương tự động), hệ thống đèn hiệu vô tuyến (Electric beacon, Радиомаяк), hệ thống TACAN (hệ thống dẫn đường hàng không chiến thuật - hệ thống vô tuyến định vị quân sự, trong đó máy phát mặt đất sóng UKV phát ra tín hiệu yêu cầu thiết bị được cài đặt trên máy bay trả lời bằng tín hiệu có chứa thông tin về hướng bay và khoảng cách đến trạm) và các hệ thống định vị khác. Tại Thổ Nhĩ Kỳ và Tây Đức, ví dụ, đã có một số trường hợp máy bay chiến đấu của NATO bị đánh lạc hướng tới các hải đăng vô tuyến không đáng tin, nhằm mục đích đưa chúng hạ cánh xuống các sân bay phía sau Bức Màn Sắt. Khi làm việc trên cùng một tần số, hải đăng vô tuyến Liên Xô sử dụng mã gửi của các đài vô tuyến phương Tây ở các quân khu biên giới hay chỉ đơn giản là phát ra thông tin sai về quỹ đạo mà máy bay cần bay vào để hạ cánh. Có báo cáo rằng, một lần, tàu chiến của Nga đậu ở cảng Ai Cập Alexandria trên Địa Trung Hải, đã bắt chước tín hiệu mã của hệ thống TACAN (TactiCal Air Navigation system) của một tàu sân bay Mỹ, suýt nữa dẫn đến tai nạn của máy bay F-4 Phantom.

HẾT CHƯƠNG 13​
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 14. Do thám điện tử trong thời bình

14.1. Bí ẩn U-2


Đầu năm 1956 trên bầu trời Anh, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước NATO có thể thấy một chiếc máy bay lạ. Nó gây ra sự tò mò lớn trong số các công dân các nước này, một số thậm chí còn viết trên các tờ báo của họ để tìm hiểu đó là loại máy bay gì và làm việc gì. Trả lời phỏng vấn báo chí, đại diện lực lượng không quân luôn đưa ra một câu trả lời lảng tránh, hoặc thậm chí từ chối bất kỳ bình luận nào. Cuối cùng, lời giải thích chính thức được Hoa Kỳ đưa ra, cho biết đó là máy bay Lockheed U-2, được sử dụng để thu thập dữ liệu về các dòng xoáy không lưu, tia vũ trụ và nồng độ ozone và hơi nước trong khí quyển.

Người Mỹ đã làm mọi thứ có thể để giữ cho máy bay tránh xa các "cặp mắt tò mò", tuy nhiên, mặc dù tất cả các biện pháp phòng ngừa, một số người cũng nhìn vào nó và những ai nhìn thấy ở cự ly gần, ngay lập tức hiểu rằng đó phải là một máy bay thiết kế đặc biệt để thực hiện các nhiệm vụ tối mật. Ở nước Nga, nơi nhiều phi công đã nhìn thấy máy bay bay ở độ cao mà họ không thể tiếp cận, U-2 được mệnh danh là "mệnh phụ gián điệp áo đen" ("black lady espionage").

Máy bay, quả thật, hoàn toàn sơn màu đen, làm cho nó rất khó bị phát hiện trực quan ở độ cao rất lớn, còn nhiệm vụ thật sự của nó là bay vào Bức màn Sắt, chụp ảnh và thu thập dữ liệu liên quan đến tác chiến điện tử. Nó được phát triển vào năm 1950 để đảm bảo cho Chính phủ Hoa Kỳ và các cường quốc phương Tây khác thông tin về các hệ thống tên lửa Liên Xô và các đặc tính bức xạ của radar điều khiển các khí tài ấy.

Không quân Mỹ không hài lòng với các kết quả của rất nhiều chuyến bay của các máy bay thông thường chụp ảnh và trinh sát điện tử trên không phận Nga thời kỳ 1950-1955 ; trong thời gian này có đến mười lăm "tai nạn", mất tổng cộng mười máy bay Mỹ. Vì vậy, nhiệm vụ tổ chức trinh sát trên không phận nước Nga được giao cho CIA. Bước đầu tiên của CIA là đặt hàng Lockheed thiết kế và chế tạo một chiếc máy bay phù hợp cho loại hình hoạt động như thế.

Người ta đã tạo ra U-2 như vậy - đó là một viên ngọc thực sự trên vương miện của ngành hàng không. Đó là một cái gì đó ở giữa một máy bay tiêm kích phản lực và một chiếc tàu lượn, chỉ có một động cơ phản lực duy nhất và sải cánh lớn đến 30 mét. Nó có trần bay hơn 30 000 m, tầm hoạt động - hơn 7200 km, tốc độ tối đa - khoảng 800 km/h và thời gian chuyến bay - khoảng mười giờ. Để tạo thuận lợi cho nó, và bằng cách đó cho nó tầm hoạt động lớn hơn, sau khi cất cánh, nó thả sát-xi gầm và hạ cánh như một chiếc tàu lượn - trên hai ván trượt.


Clarence Leonard "Kelly" Johnson bên một phiên bản U-2 đời đầu

Các máy bay có khả năng đạt độ cao tuyệt vời như vậy đã được người Mỹ, Anh và Nga làm ra, và có lẽ cả các nước khác, nhưng tất cả chỉ là máy bay thử nghiệm được thiết kế cho mục đích ghi kỷ lục (Liên Xô đã tiếp nhận trang bị một phiên bản Yak- 25 để đánh chặn các máy bay U-2, nhưng trần bay của nó là 21.000 mét, thấp hơn so với trần U-2. Hơn nữa, cánh kéo dài lớn của Yak- 25 tỏ ra quá mỏng manh và không thích hợp để phóng vũ khí có điều khiển. Do đó, Yak- 25 tiếp tục được sử dụng để trinh sát, bay trên Trung Cận Đông, Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan và dọc theo biên giới các nước NATO. Trích từ báo cáo được giải mật gần đây: "CIA và chương trình U-2, các năm 1954-1972". Tiếp theo, trong chương này, sẽ đề cập tài liệu đó. Ghi chú của bản dịch tiếng Nga). Chúng chỉ có thể bay ở độ cao lớn như vậy chỉ một thời gian ngắn, và khả năng cơ động bị hạn chế nghiêm trọng bởi bầu không khí loãng và chiếc cánh hẹp. Ngoài ra, theo các chuyên gia CIA, không có tên lửa đất-đối-không hoặc không-đối-không hiện có nào thời đó, đạt được đến tầm cao đáng kinh ngạc như vậy. Bởi thế một chiếc U-2 có thể hành động mà không bị trừng phạt, bay cao trên bầu trời nước Nga nó không sợ bị tấn công từ phía máy bay và tên lửa.

Người Nga nhiều lần cố gắng vít cổ U-2 xuống với sự giúp đỡ của các máy bay tiêm kích và tên lửa, nhưng mọi nỗ lực của họ đều thất bại. Ngoài ra, U-2 hầu như không thể phát hiện bằng radar bởi vì nó được làm chủ yếu bằng nhựa và gỗ dán (Vị tất như vậy, nếu không Mỹ sẽ không chi tiêu nâng cấp U-2 nhằm giảm EPR của nó. Có hai phương pháp được sử dụng. Thứ nhất, phương pháp "hình thang", máy bay "được treo" bằng các thanh tre và sợi thủy tinh gắn kết bằng dây tiết diện nhỏ, trên đó xâu các hạt ferrite đường kính nhỏ. Loại đó cần để đảm bảo giảm EPR tại tần số 70 MHz. Cách thứ hai - phương pháp "dán giấy bồi", các tấm chất dẻo được dán vào máy bay, chúng chứa các tấm in đặc biệt để hấp thu bức xạ trong dải tần số 65 - 85 MHz. Cả hai phương pháp này không hiệu quả. Sau đó, sơn hấp thụ bức xạ vô tuyến và lớp phủ trên cơ sở chất độn-hạt ferrite trở thành tiêu chuẩn. Hơn nữa, trong những năm đó khó có thể chế tạo cánh có độ kéo dài lớn mà không sử dụng vật liệu kim loại. Chú thích của người dịch bản tiếng Nga.). Chỉ có động cơ phản xạ bức xạ radar, nhưng không đủ để phát hiện ra nó, trừ khi biết vị trí chính xác và tuyến đường bay của nó. Rất ít chuyến bay của U-2 bay qua lãnh thổ Nga bị phòng không Liên Xô phát hiện, vì tín hiệu phản xạ của nó trên màn hình radar hầu như không thể nhìn thấy ngay cả đối với các trắc thủ được đào tạo tốt nhất và có kinh nghiệm nhất. (Không giống như các radar Mỹ, các radar của Liên Xô P-30 và P-35 có hiệu quả hơn trong việc phát hiện mục tiêu ở độ cao lớn và phát hiện tất cả hoặc gần như tất cả các chuyến bay của U-2. Các trắc thủ radar của Liên Xô không gặp khó khăn gì lớn khi bám sát các máy bay này. Chú thích của người dịch bản tiếng Nga).

Các tính năng nói trên không chỉ là phép mầu duy nhất của U-2 ! Trên khoang máy bay có tám máy ảnh hoàn toàn tự động có thể chụp ảnh hầu hết các đối tượng trên biển hoặc trên mặt đất, trong ánh sáng ban ngày hoặc trong bóng tối, trong thời tiết tốt và xấu, từ các độ cao đáng kinh ngạc ; hình ảnh của các máy ảnh này có độ phân giải cao đến mức mà từ độ cao 24.500 mét có thể phân biệt người đi bộ vói người đi xe đạp hoặc người mặc quân phục với người mặc đồ dân sự; từ độ cao khoảng 15.000 mét có thể đọc được tiêu đề trên báo hoặc áp phích dán trên các bức tường; từ độ cao khoảng 10.000 mét có thể nhìn thấy ngay cả chiếc đinh nằm trên đường ! Không đến bốn giờ bay, một chiếc U-2 có thể chụp một khu vực kích thước 780 x 4.300 km; lãnh thổ của đất nước có kích thước như nước Nga có thể được chụp ảnh trọn vẹn trong một vài tuần !

CIA cũng dặt hàng phát triển các thiết bị điện tử cực kỳ tinh vi để do thám điện tử trên không phận Nga.Thiết bị thông thường của U-2 bao gồm máy thu đánh chặn, có khả năng tiếp nhận tất cả các tín hiệu phát ra từ các radar đang bức xạ của Nga, máy thu có khả năng tiếp nhận tất cả các tín hiệu liên lạc radio của hệ thống phòng không Nga, máy định vị vô tuyến để xác định hướng đến của các bức xạ bị chặn thu, máy ghi từ tính siêu đặc biệt để ghi các bức xạ điện từ bị chặn thu, tất nhiên còn có cả la bàn vô tuyến, máy lái tự động và điện đài băng UKV.

Tất cả mọi thứ liên quan đến U-2 được lưu trữ trong vòng cực kỳ bí mật, còn trong các tài liệu chính thức và tạp chí hàng không người ta nói về nó như một máy bay trinh sát khí tượng, và trên thực tế, trong năm 1957, đã công bố bức ảnh một cơn bão trong vùng biển Caribbean chụp từ U-2. Tuy nhiên, mặc dù tất cả các biện pháp giữ kín nhiệm vụ thật sự của U-2 trong vòng siêu bí mật, sau một số sự cố với máy bay, tấm màn che im lìm bắt đầu bị vén lên và nó làm người ta nghi ngờ mục đích thực sự của chiếc máy bay bí ẩn này.

Liên quan đến ba hoặc bốn sự cố đầu tiên xảy ra tại Hoa Kỳ và Đức, báo chí chỉ nói về những chiếc máy bay đang thực hiện các nhiệm vụ tối mật, nhưng khi U-2 một lần buộc phải hạ cánh khẩn cấp tại một sân bay tàu lượn ở Nhật Bản và một nhà báo địa phương may mắn có mặt tại chỗ có cơ hội trong 15 phút xem xét máy bay, cho đến khi những người lính tới nơi vây kín chiếc máy bay bị hư hỏng và chĩa súng đe dọa những người xung quanh, buộc họ phải rút đi. Nhà báo, cũng từng là một phi công, đã nhìn thấy viên phi công U-2 ra khỏi máy bay bị hư hỏng như thế nào và nhận thấy trên trang phục của anh ta không hề có phù hiệu nào, và anh ta có một khẩu súng lục. Nhà báo chỉ việc lấy hai cộng với hai và đi đến kết luận rằng chiếc máy bay được sử dụng không chỉ để trinh sát khí tượng mà còn cho mục đích gián điệp.


Kelly Johnson (ông tổ của U-2 và SR-71) và phi công Francis Gary Powers trước một chiếc U-2.

Máy bay Mỹ cất cánh từ căn cứ không quân Incirlik ở Thổ Nhĩ Kỳ lúc 06:26, ngày 26 Tháng 4 năm 1960, để chụp ảnh và trinh sát điện tử vùng trung tâm Liên Xô, cũng là một U-2. Phi công - Francis Gary Powers, 30 tuổi, một cựu đại úy phi công Không quân Mỹ, được nhất trí coi là một phi công xuất sắc và một hoa tiêu hoàn hảo. Power đã bay trên U-2 trên 500 giờ, chủ yếu là trên lãnh thổ Nga và các chuyến bay đã trở thành quen thuộc với anh ta, anh ta đùa gọi chúng là "các chiến dịch vắt sữa". CIA tiến hành các hoạt động này một cách thường xuyên, bởi vì đó là cách duy nhất để có thể có được một kết quả có ích và hiệu quả thực sự : trên thực tế, thực hiện chuyến bay và chụp ảnh một khu vực cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định, sau đó so sánh hình ảnh và bản ghi của chuyến bay trước đó, có thể có được thông tin quan trọng về việc xây dựng các công trình quân sự, các radar, bãi thử tên lửa, các căn cứ tàu ngầm và những điều tương tự.

Tuyến đường không, mà Powers cần phải bay theo, như sau: Adana - Peshawar (Pakistan) - Kabul (Afghanistan) - Sverdlovsk (Nga) - Bodo (Na Uy). Power mang theo một khẩu súng lục cỡ nòng 22, một đồng đô la bạc ở túi trong, một ống tiêm nhỏ với liều lượng gây chết người chứa chất độc chiết từ nhựa một loài cây độc trong trường hợp phải hạ cánh bắt buộc. Việc nhảy dù, theo hướng dẫn của CIA là "không bắt buộc" ; tiền lương phi công-gián điệp là 35 000 đô la mỗi năm biện minh cho một nguy cơ như vậy !

Nhánh đầu tiên của chuyến bay chỉ là bay chuyển từ Incirlik đến Peshawar, nơi anh ta ở lại bốn ngày để nghỉ ngơi và tiếp nhiên liệu trước khi có chuyến bay dài trên lãnh thổ Nga. Ngày 01 Tháng Năm, Power ngồi trong buồng lái của U-2 để thực hiện một "chuyến bay điên rồ", trong đó, ở độ cao 30.000 mét, nó sẽ bao phủ cự ly 5640 km, bay qua thành phố Ural, các thành phố Nga là Stalingrad, Aralsk, Kirov, Murmansk, Arkhangelsk và hai bãi thử tên lửa quan trọng : Tyura-Tam và Kapustin Yar, mà tình báo Mỹ phát hiện trong thời gian gần đây.

U-2 cất cánh chậm một giờ so với lịch trình, vì lệnh "cho phép" của Tổng thống Eisenhower - thủ tục thông thường cho tất cả các chuyến bay trên không phận nước Nga, đến trễ. Trong thời gian chờ, Powers vài lần kiểm tra hệ thống điện tử trên máy bay và không nghi ngờ gì nữa, anh ta cảm thấy điềm báo đen tối khi cặp mắt gặp phải nút đề chữ "tiêu hủy", nút cần nhấn vào thời điểm quan trọng, để ngăn chặn việc một số bộ phận thiết bị điện tử tối mật rơi vào tay người Nga. Theo bảng nhắc đặt gần nút, chất nổ sẽ chỉ phá hủy thiết bị, nhưng Powers biết rằng chất nổ được gắn vào bức vách bên trong của khoang thân kín, và với sự khác biệt khổng lồ về áp lực ở độ cao rất lớn, vụ nổ, chắc chắn, sẽ là dấu chấm hết của chính chiếc máy bay.

Sau khi cất cánh, U-2 bắt đầu leo cao nhanh chóng và tới lúc bay qua Kabul - thủ đô của Afghanistan, nó đã đạt đến độ cao 19.800 m; tại đây, Powers, bật máy thu và ghi tất cả các bức xạ điện từ trong thinh không, bao gồm cả các máy phát vô tuyến quân sự và tín hiệu radar ở tất cả tần số hoạt động. Thiết bị tự động ghi lại các thông số cơ bản của mỗi radar; tần số, độ dài mỗi xung, tần số xung lặp lại và thời gian quét ăng-ten. Các thông số đó cấu thành "chữ ký" hoặc "dấu vân tay" của radar và khi phân tích nó, có thể xác định loại radar chưa biết và đặc điểm ứng dụng cụ thể của nó. Dùng hai hoặc nhiều phương vị (đo hướng đến của bức xạ điện từ để đảm bảo phương pháp tam giác) nhằm xác định vị trí của radar và do đó xác định nơi bố trí các hệ thống vũ khí mà nó kiểm soát. Khi radar thuộc về một quốc gia thù địch tiềm tàng, thông tin này là rất hữu ích để phát triển các phương pháp đối kháng điện tử khi các phi công của mình, trong tương lai, có thể phải vượt qua không phận của đối phương.
...........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Việc sử dụng trước tiên các thông số ấy là cần phải lưu giữ hoặc "nhớ" chúng trong RWR, loại thiết bị mà sẽ cảnh báo phi công về sự hiện diện và hướng tới radar mặt đất hoặc đường không đang đe dọa. Cảnh báo về cuộc tấn công tên lửa hoặc pháo cao xạ sắp xảy ra rõ ràng là một yếu tố quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ một cách thành công và sự sống còn của chính phi công, do đó cho phép anh ta lập tức thực hiện thao tác cơ động lảng tránh hoặc bật thiết bị đối kháng điện tử thích hợp. Có rất nhiều phương pháp ECW khác nhau và lựa chọn sử dụng phương pháp ECW nào còn phụ thuộc vào tình huống cụ thể. Ví dụ, phi công có thể chế áp radar đối phương để vô hiệu hóa hiệu quả của nó hoặc sử dụng nhiễu mô phỏng để đánh lệch tên lửa ra khỏi hướng bay, khi phát về phía radar dẫn bắn tín hiệu đáp ứng giả. PRLO vốn được sử dụng rất thành công trong Thế chiến II, cũng có thể được dùng để lái tên lửa ra khỏi mục tiêu thực sự, tạo ra bên cạnh máy bay nhiều mồi nhử. Hiện nay, PRLO được làm bằng nhiều vật liệu khác nhau : nylon tráng bạc, nhôm pha chì, sợi thủy tinh phủ nhôm và các hợp chất khác. Ngày nay, nhờ các thiết bị phối lượng đa dạng, các dải nhiễu được ném ra từ máy bay một cách tự động, theo một quy luật nhất định và với số lượng xác định theo một mối đe dọa cụ thể.



Powers không phải là một chuyên gia tác chiến điện tử. Tuy nhiên, với tư cách phi công U-2, được CIA đào tạo, anh ta biết rằng nếu MiG-21 Nga bay ở độ cao 10.000 m thấp hơn anh ta, bắn tên lửa không-đối-không để cố gắng hạ anh ta, anh ta có thể tính đến việc dùng một thiết bị điện tử mới, cực kỳ tinh vi, được cài đặt trên máy bay của mình nhằm mục đích làm rối loạn radar của tên lửa Nga. Thực tế, thiết bị này là một trong những máy phát nhiễu mô phỏng đầu tiên. Ba nhà sản xuất phương tiện tác chiến điện tử của Mỹ phát triển nó một cách đặc biệt theo yêu cầu của CIA, và tất nhiên nó là "tối mật".

Powers cũng biết người Nga rất khó chịu với các chuyến bay của U-2, mặc dù họ vẫn giữ được bình tĩnh, vì họ không thể làm gì được nó. Không nghi ngờ gì nữa, các radar Nga chờ đợi và cố gắng phát hiện nó ngay khi U-2 có mặt trong không phận Liên Xô. Tuy nhiên, Powers tự an ủi với ý nghĩ máy bay của mình có thể bay ở độ cao lớn đến mưc không có máy bay tiêm kích nào của Liên Xô có thể với đến.

Các radar Mỹ tại Pakistan và Afghanistan có thể bám sát Powers miễn là anh ta chưa vượt qua biên giới Liên Xô, chưa biến mất khỏi màn hình radar họ. Từ thời điểm này phương tiện duy nhất theo dõi anh ta là trạm nghe lén của CIA, làm nhiệm vụ đánh chặn tín hiệu vô tuyến của hệ thống phòng không Nga; không có tiếp xúc trực tiếp nào với Powers là khả dĩ, vì anh ta giữ sự im lặng vô tuyến hoàn toàn.

Rất nhanh sau khi Powers bay đến Afghanistan, một trong những radar Liên Xô phát tín hiệu cho một radar khác rằng đã phát hiện một chiếc máy bay không rõ lai lịch, và vì U-2 bay vào vùng trung tâm Liên Xô, thông tin về việc phát hiện được truyền từ radar này đến radar khác. Đột nhiên, hiệu thính viên của CIA nghe tiếng kêu vui mừng, lặp đi lặp lại nhiều lần : "Mục tiêu bị diệt! Mục tiêu đã bị diệt!". Và cùng thời điểm này Powers cảm thấy thân mình bị ném về phía trước và từ bên ngoài một vầng đỏ lòa chiếu sáng thân máy bay U-2 của mình, như thể đằng sau máy bay có một vụ nổ lớn. Máy bay ngừng nghe theo cần lái và bắt đầu vừa quay chậm vừa mất độ cao. Powers mở đèn để bung ra, anh ta bị ném ra khỏi máy bay bởi lực ly tâm. Dù của Powers mở tại độ cao khoảng 10.000 m và anh ta từ từ hạ xuống lãnh thổ Liên Xô.

Powers đã bị bắt. Trong khi thẩm vấn, anh ta khẳng định mình làm việc cho công ty Lockheed và thử nghiệm máy bay trinh sát để tiến hành hoạt động gián điệp trên bầu trời nước Nga.

Tất cả xảy ra ngay trước Hội nghị thượng đỉnh ở Thụy Sĩ giữa Tổng thống Mỹ Eisenhower và Thủ tướng Liên Xô Khrushchev để thảo luận các vấn đề của thế giới. Khrushchev đã lợi dụng trường hợp may mắn cho mình để hạ nhục Hoa Kỳ trước toàn thế giới.


Báo Mỹ đưa tin về vụ Tòa án Liên Xô xét xử F.G. Powers.

Powers, tất nhiên, đã xuất hiện tại Moscow trước Tòa quân sự của Tòa án tối cao, nơi anh ta được mô tả là một người Mỹ trẻ vô nguyên tắc điển hình, do lòng tham lam không cưỡng nổi của mình với tiền bạc, mà không ngần ngại phạm tội ác có thể gây ra cuộc chiến tranh hạt nhân. Các công tố viên đã trình với tòa án các bằng chứng dưới dạng các băng từ được tìm thấy trong đống xác U-2. Chúng chứa các thông số tín hiệu radar của hệ thống phòng không Liên Xô. Các hình ảnh thiết bị điện tử của chiếc U-2 cũng được trình ra.

Bản án khắc nghiệt, mặc dù, như đã nêu trong kết luận bản án, chỉ hạn chế ở mức mười năm tù, ba năm trong đó anh ta phải ở trong xà lim. Tuy vậy Powers đã được phóng thích sau mười bảy tháng để đổi lấy một trung tá KGB siêu điệp viên Rudolph I. Abel, người đã bị bắt và bị giam cầm trong một nhà tù Mỹ từ trước.

Ngay sau khi đặt chân lên đất Mỹ, Powers bị cách ly và bị CIA thẩm vấn liên tục trong hơn hai mươi ngày; trong trường hợp này có rất nhiều vấn đề mơ hồ mà CIA muốn làm rõ. Họ quan tâm hơn hết đến nguyên nhân thất bại của chuyến bay U-2, cho dù nó xảy ra do sự hiện diện các tên lửa PK mới của người Nga hoặc do hành vi phản quốc mà Powers thực hiện, và đặc biệt người Nga liệu có hay không phương tiện ngăn chặn sự đột phá của các máy bay ném bom Mỹ, được trang bị các phương tiện điện tử đối kháng trên không phận Liên Xô, trong trường hợp chiến tranh.

Tại phiên tòa ở Moscow, Powers tuyên bố máy bay của anh ta bị bắn rơi ở độ cao khoảng từ 13 700 đến 22 250 mét, thấp hơn nhiều so với độ cao 30.500 mét, mà người ta khuyến cáo anh ta khi thực hiện loại nhiệm vụ như vậy. Powers giải thích rằng do việc nhiên liệu ngừng cấp, động cơ phản lực của chiếc U-2 bị dừng, vì vậy anh ta đã mất độ cao đáng kể khi cố gắng khởi động lại nó một lần nữa.

Những bí ẩn khác mà CIA muốn làm rõ liên quan đến việc các radar Nga phát hiện và bắn hạ chiếc U-2 thế nào. Làm sao mà người Nga có thể nhanh chóng phát hiện ra máy bay nếu như máy bay được làm bằng vật liệu hấp thụ bức xạ radar ? Và nếu nó bị tên lửa bắn trúng, làm thế nào mà ảnh của nó chụp được và thiết bị điện tử lại vẫn nguyên vẹn ? Như Khrushchev đã nói, tất cả chỉ có một quả đạn tên lửa được phóng vào chiếc U-2, đạn bắn trúng máy bay ở độ cao khoảng 22.750 mét. Nếu điều đó đúng sự thật, CIA tự hỏi, tại sao RWR và máy tạo nhiễu mô phỏng không làm việc ?

Nguồn thông tin bí mật của Mỹ ở Nga báo cáo rằng, ngay sau khi Powers bay gần vào phạm vi bãi thử tên lửa ở Sverdlovsk, người Nga cho hai chiếc MiG cất cánh lên để đánh chặn máy bay Mỹ, và ngay sau đó họ phóng ba tên lửa SAM. Có vẻ như hai tên lửa đã tấn công các máy bay tiêm kích MiG và bắn hạ một trong số đó, còn quả đạn thứ ba phát nổ gần đuôi chiếc U-2.

Thông tin này chưa bao giờ và chưa được bất cứ ai khẳng định, nhưng nếu mọi chuyện xảy ra theo cách đó, khi ấy một lời giải thích khả dĩ sẽ là thiết bị ECW của máy bay U-2 có thể đã làm lệch hướng hai đạn tên lửa, nhưng bận đối phó với hai quả đạn đầu tiên, nó đã không thể nhận được tín hiệu và đối phó thành công với quả đạn tên lửa thứ ba đang đến gần, quả đạn đó vẫn tiếp tục bay theo hướng tới chiếc U-2. Tuy nhiên, khi tính đến chuyện chiếc U-2 không bị trúng đạn trực tiếp, một số người ngạc nhiên vì tại sao Powers không sử dụng ghế phóng của anh ta, vốn được thiết kế để sau khi phóng phi công ra sẽ kích hoạt cơ chế tự hủy máy bay, mà lại tự mình rời khỏi máy bay, làm mất đi thời gian quý báu. Và, nếu anh ta có nhiều thời gian tự do như vậy, tại sao không ấn nút tự hủy và bằng cách đó đã không phá hủy các thiết bị điện tử tối mật trên khoang máy bay ?

Sau cuộc thẩm vấn của CIA, Powers cũng xuất hiện trước các ủy ban chính phủ khác nhau và thậm chí ra làm chứng trước Quốc hội, nhưng không có câu trả lời thỏa đáng nào cho những câu hỏi trên được đưa ra.

CIA thậm chí còn phái tới bám sát anh ta một trong những điệp viên nữ quyến rũ nhất của mình để cố gắng nói chuyện với Powers, khi sử dụng không chỉ những phương pháp chính thống ! Tuy nhiên, kết quả là, Powers chỉ đơn giản là ly dị người vợ xinh đẹp Barbara của mình và kết hôn với người phụ nữ, mà như CIA hy vọng, đã đưa anh ta ra một tòa án đặc biệt.

Một vài năm về sau, người ta nhận thấy có một mối liên hệ nào đó giữa các chuyến bay bằng máy bay U-2 và Lee Harvey Oswald - kẻ đã giết Tổng thống Mỹ John Fitzgerald Kennedy. Có lẽ khi phục vụ trong Quân đoàn Thủy quân lục chiến Mỹ, Oswald đã phục vụ với tư cách một điều phối viên radar tại trạm kiểm soát không lưu của căn cứ không quân Mỹ ở Atsugi Nhật Bản. Trong tư cách đó, anh ta có cơ hội không chỉ quan sát các máy bay U-2 cất cánh và hạ cánh, mà còn có thể được tiếp cận cả với thông tin tối mật về hoạt động do thám đường không chống lại Liên Xô và Trung Quốc. Bởi vì các cuộc điện đàm vô tuyến giữa phi công U-2 và các điều phối viên căn cứ không quân trước khi cất cánh là thủ tục bình thường, Oswald có thể nghe và yêu cầu báo cáo tình hình khí tượng trên các tuyến đường không nhất định và độ cao đường bay của U-2 trong các chuyến bay đặc biệt của chúng. Sau này, Oswald chạy trốn sang Nga, nơi anh ta ở lại một thời gian cho đến khi KGB phái anh ta trở lại Mỹ, nơi anh ta sẽ hữu ích cho họ hơn.


Lee Harvey Oswald khi là lính thủy đánh bộ Mỹ

Giả thuyết về việc chính Oswald đã cung cấp cho người Nga thông tin về các tuyến bay và độ cao chuyến bay U-2, đưa ra câu trả lời khá chính đáng cho những câu hỏi đặt ra ở trên; có nghĩa là, làm thế nào radar Nga phát hiện được và bám sát chuyến bay của chiếc máy bay được làm bằng vật liệu hấp thụ bức xạ radar, và thứ hai, làm thế nào người Nga có thể bắn trúng U-2 bằng các quả đạn tên lửa, mà tầm của nó nhỏ hơn độ cao chuyến bay U-2 ?
Giả thuyết này cũng làm nặng ký thêm cho tin đồn rằng U-2 là nạn nhân của một vụ phá hoại. Theo một số báo cáo, các điệp viên làm việc cho KGB, đã cài đặt được ở phía đuôi U-2 một lượng thuốc nổ nhỏ kích nổ bằng vô tuyến, trước khi máy bay cất cánh, hoặc một lượng thuốc nổ hẹn giờ, làm cho máy bay mất độ cao sau khi nó phát nổ (phiên bản tư biện, phổ biến ở phương Tây. Ví dụ, như đã nêu trong chính bản báo cáo đó, Trung Quốc, sau khi phát triển được chiến thuật thích hợp sử dụng MiG-21 và TLPK S-75, đã bắn rơi được năm máy bay Mỹ U-2. Ghi chú của người dịch bản tiếng Nga).

Ngày 01 Tháng Tám năm 1977, Francis Gary Powers, ở tuổi bốn mươi tám, đã chết thảm trong một vụ tai nạn máy bay trực thăng. Chiếc trực thăng, thuộc sở hữu một công ty truyền hình ở Los Angeles và do viên cựu phi công U-2 điều khiển, đang quay cảnh cháy rừng, thì bị rơi xuống giữa đám rừng đang cháy. Cơ thể cháy thành than của ông ta mang đi theo nó mọi cơ hội tiết lộ nhiều bí mật của chuyến bay, từng gây ra một vụ bê bối quốc tế chưa từng có thời ấy và vẫn còn là một bí ẩn ngay cả đối với CIA.
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

14.2. Sự cố với B-47 Stratojet


B-47E thử nghiệm hệ thống cất cánh có rocket trợ lực.

Ngay sau sự cố với chiếc U -2 của Powers, xảy ra ngày 01 tháng 5 năm 1960, Tổng thống Mỹ Eisenhower cho dừng tất cả các chuyến bay U-2 trên lãnh thổ Liên Xô và ra lệnh cho bộ chỉ huy quân đội phát triển các phương pháp khác để thu thập thông tin điện tử và chụp ảnh lãnh thổ Liên Xô. Không nghi ngờ gì nữa, chính trong các điều kiện ấy đã phát sinh ý tưởng sử dụng các vệ tinh nhân tạo cho các mục đich tình báo; chúng có thể hoạt động trong chế độ bay không người lái, và ở bên ngoài tầm bắn trúng của bất kỳ hệ thống vũ khí nào có vào thời đó.

Tuy vậy một đề án hiếu thắng như thế cần có thời gian, mà đợi đến lúc đó thì mất thông tin về các radar Nga, vấn đề quan trọng sống còn đối với quốc phòng và thậm chí cho cả sự sống còn của Mỹ Quốc, CIA tự mình không thể cho phép điều đó. Giám đốc CIA Allen Dulles vẫn giữ ý kiến cho rằng, nhiệm vụ hiện tại của tình báo Mỹ trong lúc này là tiến hành các hoạt động gián điệp sau "Bức Màn Sắt" và các phương tiện truyền thống không còn phù hợp. Ông ta viện dẫn rằng, KGB có thể mua với 5 cent - giá một tờ báo "New York Times", các thông tin mà CIA không thể mua ngay cả với 10 000 dollars ! Tại Hoa Kỳ, tất cả các đề án của các nhà phát triển tên lửa-mang, tên lửa và những thứ tương tự phải được Quốc hội phê chuẩn, do đó sẽ được thảo luận công khai. Tất cả các căn cứ không quân được đánh dấu trên các atlas thông thường của đường ô tô, còn tin tức về tất cả các vụ nổ nguyên tử trong sa mạc Nevada, được xuất bản trong mỗi tờ báo. Người Nga, đến lượt mình, giữ im lặng hoàn toàn về những chuyện như vậy. Những mẩu thông tin nhỏ nhất và không đáng kể nhất mà Bộ Quốc phòng chất vấn, có thể là cái chết của một điệp viên Mỹ, mà người ta yêu cầu anh ta khai thác loại thông tin như vậy. Thực chất luận điểm của Dulles, được ông ta nhắc đi nhắc lại, nằm ở chỗ người Mỹ cho phép người Nga biết quá nhiều, trong khi đó người Nga không cho phép họ biết gì cả!

Để khắc phục những thiếu sót của mình, người Mỹ đã phải đẩy nhanh tiến bộ trong công nghệ, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử. Ở các quốc gia đồng minh và thân thiện giáp giới Nga, các trung tâm nghe lén mới được dựng lên. Các máy thu vô tuyến cực kỳ hoàn thiện của họ có thể chặn thu hai triệu từ một ngày, chúng được chuyển giao ngay lập tức về Washington để giải mã.

Như vậy, người Mỹ đã truy cập được vào đường thông tin của người Nga mà họ quan tâm. Ví dụ, năm 1958, họ nghe được cuộc điện đàm giữa các phi công tiêm kích Nga, những người tấn công chiếc máy bay Lockheed C-130 Hercules, đang thực hiện nhiệm vụ "đánh hơi". Vào tháng Tư năm 1967, họ đã theo dõi được các sự kiện kịch tính xảy ra với con tàu vũ trụ Nga "Soyuz", do phi hành gia Komarov điều khiển. Tại thời điểm khi bộ phận hạ cánh của tàu vũ trụ lao về phía Trái đất, Komarov kinh hãi hiểu rằng việc bộ phận kiểm soát, phải tác động đến sự làm việc của các dù hãm đã không hoạt động. Trên mặt đất, vợ ông và Thủ tướng Kosygin của Liên Xô cố gắng động viên tinh thần ông và thông báo rằng ông đã được trao giải thưởng cao nhất của đất nước, nhưng Komarov tiếp tục la hét : "Tôi không muốn chết! Hãy làm một cái gì đó đi chứ !", cho đến tận khi thiết bị hạ cánh, cuối cùng, còn chưa vỡ tan.

Mặc dù Nga là chủ đề chính cần quan tâm, người Mỹ cũng đánh chặn và giải mã tất cả các diiẹn vô tuyến quân sự, ngoại giao và thương mại của các quốc gia chủ chốt khác, đặc biệt là trong thời gian có các cuộc khủng hoảng quốc tế. Loại hoạt động này thuộc phạm vi Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA). Đồng thời người Mỹ có thể chặn thu bức xạ radar của các nước đối thủ tiềm tàng trong bất cứ phần nào của địa cầu. Sau khi xác định các đặc tính cơ bản của radar, các chuyên gia ngành điện tử của cơ quan NSA sao chép lại các radar cần quan tâm để phân tích chi tiết và nghiên cứu học hỏi.

Tại nhiều căn cứ bao quanh nước Nga, các trạm radar tầm xa mới được dựng lên. Chúng có khu vực quét sâu khoảng 1600 km vào lãnh thổ Nga và có thể theo dõi các vụ phóng tên lửa thử nghiệm tại Tyura-Tam và thậm chí cả những vụ phóng thử nghiệm tại Kapustin Yar, nằm cách biên giới Thổ Nhĩ Kỳ đến 1200 km. Radar có thể bám sát tên lửa tới tận nơi nó rơi trong sa mạc Kyzyl - Kum, gần biên giới Nga với Afghanistan. Hơn nữa, các trạm đánh chặn, bổ sung và mới, đã ghi lại và phân tích bức xạ của các radar của Liên Xô bố trí tại tất cả các nước thân thiện, cho phép lắp đặt chúng trên lãnh thổ của họ.

Tuy nhiên, bất chấp tất cả các biện pháp trên, nhiều bức xạ từ các radar Nga có thể không bị đánh chặn do thực tế lãnh thổ Liên Xô quá rộng lớn, và bức xạ của các radar đóng ở miền trung tâm nước Nga và Siberia nằm ngoài giới hạn với tới. Vì vậy, để xác định hoặc xác nhận tọa độ các radar mới của Nga trong các khu vực cách xa các trạm đánh chặn của Mỹ, cần phải dùng đến máy bay. Vì tính cơ động và độ cao bay của chúng, máy bay đã mở rộng rất nhiều khu vực chặn thu được tín hiệu, thậm chí bất chấp thực tế sau sự cố với U-2, máy bay không còn bay trên lãnh thổ Liên Xô nữa, và U-2 không còn được sử dụng cho loại nhiệm vụ như vậy.

Ngày 01 Tháng Bảy năm 1960, máy bay ERB-47 – biến thể của máy bay ném bom chiến lược Boeing B-47 Stratojet (ER có nghĩa là trinh sát điện tử), cất cánh từ căn cứ không quân Anh Brize Norton để thực hiện một phi vụ ELINT dọc theo bờ biển miền Bắc Liên Xô. Chiếc ERB-47 có trần bay 13.100 m, tầm hoạt động - 5120 km và tốc độ tối đa - 1160 km/h. Nó phải thực hiện chuyến bay trên một không trình hình tam giác có điểm khởi đầu cách 160 km về phía tây đảo Novaya Zemlya, sau đó bay song song với bờ biển của hòn đảo này đến khi gặp mũi cực-đông bắc, từ đó bắt đầu đường bay trở về trên biển Barents. Phiên liên lạc vô tuyến cuối cùng với máy bay là khi nó ở vị trí 480 km về phía tây Novaya Zemlya, nơi người Nga trong những tháng mùa hè thường thử nghiệm ICBM của họ.

Chiếc ERB-47 bị hệ thống radar phòng không của Nga phát hiện và ngay lập tức các máy bay tiêm kích bay lên đánh chặn nó. Năm giờ sau khi cất cánh, phi hành đoàn sáu người của máy bay Mỹ, bay ở độ cao khoảng 9750 mét, thấy phía trên đầu họ chiếc MiG đầu tiên của người Nga bay tới. Ngay sau đó, thêm một chiếc MiG tiếp cận họ ở bên phải và nổ súng. Chiếc ERB-47 khai hỏa cỗ pháo đuôi đáp trả, nhưng nó không thể đọ với hỏa lực của máy bay tiêm kích Liên Xô, không gặp nhiều khó khăn gì khi bắn hạ máy bay Mỹ.

Như trong trường hợp U-2, thông tin về sự kiện này được báo cáo Thủ tướng Chính phủ Liên Xô Khrushchev, người một lần nữa cáo buộc Mỹ vi phạm không phận Liên Xô. Nga khẳng định họ đánh chặn máy bay tại vị trí 22 km về phía bắc mũi Sviatoy trên bán đảo Kola, và họ bắn hạ nó vì nó bay về hướng hải cảng lớn của Nga - Arkhangelsk. Người Mỹ, đến lượt mình, tuyên bố rằng chiếc máy bay bị bắn rơi ở vị trí 80 dặm trên không phận phía bắc của mũi này.


Đường bay trinh sát tiêu biểu từ căn cứ không quân Thule tới Liên Xô của các kíp bay RB-47H.

Một vài giờ sau khi máy bay Mỹ bị bắn rơi, các tàu của Liên Xô ở Biển Barents bắt đầu tìm kiếm những người sống sót. Một trong những tàu đánh cá vớt lên được hai người sống sót – những người đầu tiên là các trung úy John McCown và Freeman B.Olmsted và xác của một trong những phi công; dấu vết của các thành viên phi hành đoàn còn lại không tìm thấy.

Cả hai viên sĩ quan còn sống sót bị buộc tội làm gián điệp, bị bắt và bỏ tù. Sau đó, ngày 25 tháng 5 năm 1962, họ được phóng thích theo yêu cầu của đích thân Tổng thống mới của nước Mỹ - John F. Kennedy.
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

14.3. Thảm kịch của con tàu do thám "Pueblo"



Sơ đồ của Bắc Triều Tiên cho thấy nơi họ tuyên bố bắt giữ USS Pueblo, tháng 1 năm 1968.

Năm 1963, người Mỹ bắt tay vào hoạt động do thám điện tử ở châu Á. Mười sáu chiến dịch như thế được các tàu chiến Mỹ thực hiện dọc theo bờ biển phía đông Siberia, Trung Quốc và Triều Tiên, nhưng sự cố duy nhất xứng đáng đề cập là trường hợp của "Banner" - tàu gián điệp đang hoạt động ở Thái Bình Dương cùng với tàu "Winnebago". Khi đang tiến hành nhiệm vụ cuối cùng của mình, các tàu chiến của Nga tiếp cận con tàu, và một trong số đó chĩa pháo vào "Banner" rồi đánh tín hiệu hàng hải quốc tế : "Dừng lại nếu không sẽ nổ súng". Một trong những tàu phóng ngư lôi của Nga tiến rất gần, nhưng không có chuyện gì xảy ra. Trong một trường hợp khác, các tàu đánh cá Trung Quốc bao vây "Banner" và chĩa pháo vào nó. Thuyền trưởng "Banner" đối phó với tình hình rất xuất sắc bằng cách mở hết tốc độ, tách khỏi các tàu đánh cá và chấm dứt sự truy đuổi của chúng.

Ngày 01 tháng 12 năm 1967, tàu Hải quân Mỹ "Pueblo" đến cảng Nhật Bản Yokosuka, nơi đặt căn cứ của các tàu do thám Mỹ. Nó vừa đại tu xong tại Mỹ, tại đó nó được hiện đại hóa triệt để chuyển từ tàu cung ứng sang tàu tiến hành " nghiên cứu cơ bản bổ sung về môi trường", từ đó mà ra các chữ AGER 2 trên cả hai mạn tàu. Đó là ý nghĩa chính thức của "Pueblo", và để chính danh, trước khi rời Hoa Kỳ, thủy thủ đoàn được bổ sung hai nhà vật lý dân sự và trên tàu có bố trí thiết bị đặc biệt nhằm nghiên cứu hải dương học. Tuy nhiên, mục đích thực sự của "Pueblo" là trinh sát tín hiệu (SIGINT), nói cách khác, nó thu thập dữ liệu liên quan đến EW. Tám ăng-ten có bầu che bao phủ, nhô lên trên cấu trúc thượng tầng của tàu, và trong cabin lớn, dưới cầu điều hướng hành trình, lắp đặt 2 máy thu cỡ lớn, có khả năng đánh chặn tín hiệu điện từ của các thiết bị thông tin vô tuyến và radar ngay cả ở những khoảng cách lớn. Tất cả các sóng điện tín được ghi lại tự động và chính xác trên một loại băng đặc biệt với các thiết bị kỹ thuật số mới nhất. Sau đó, các cuộn băng được chuyển cho các trung tâm phân tích và đánh giá của CIA.

Độ choán nước của "Pueblo" là 900 tấn, chiều dài - 53,2 m, chiều rộng - 9,75 m, tốc độ tối đa - 9 hải lý. Thuyền trưởng Lloyd M.Bacher 39 tuổi, chưa tốt nghiệp Học viện Hải quân đầy uy tín ở Annapolis, và trên thực tế, ông ta học ở "Boys Town" - một trường nội trú tại bang Nebraska, từ đó gia nhập Hải quân Hoa Kỳ, sau khi học xong Đại học Nebraska thì trở thành sĩ quan hải quân. Sĩ quan an ninh 21 tuổi Timothy L. Harris, người chịu trách nhiệm đánh chặn bức xạ và các tài liệu bí mật liên quan đến hoạt động này. Thủy thủ đoàn gồm tám mươi mốt người và bao gồm sáu sĩ quan, hai mươi chín trắc thủ ELINT, hai nhà vật lí đề cập ở trên, cùng bốn mươi bốn thủy thủ.

Cuối tháng 12 năm 1967 "Pueblo" nhận lệnh của Tư lệnh Hải quân Mỹ tại Nhật Bản, ra khơi thực hiện chuyến đi biển - do thám điện tử đầu tiên của nó; điều đó có nghĩa là đánh chặn sóng điện đài và bức xạ radar của Bắc Triều Tiên và giám sát cuộc tập trận hải quân Liên Xô ở eo biển Triều Tiên.



Ngày 5 tháng 1, tàu rời Yokosuka theo hướng đi qua đảo Kyushu, ngày 9 tháng 1 đến cảng Nhật Bản Sasebo. Ở đây, Bucher nhận được hướng dẫn chi tiết về chiến dịch và thông tin về các tàu Nga mà ông ta có thể chạm trán.

Ngày 11 tháng 1, trước bình minh, nhằm tránh bị phát hiện, "Pueblo" rời cảng Sasebo và hướng về eo biển Triều Tiên và Biển Nhật Bản, nơi nó thực hiện nhiệm vụ của mình. Theo hướng dẫn, nó phải ghi lại bức xạ radar của các hệ thống phòng thủ bờ biển của Bắc Triều Tiên, để Mỹ có thể tìm cách để vô hiệu hóa các hệ thống radar trên trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Thuyền trưởng lên kế hoạch đầu tiên là thu thập thông tin điện tử về các radar của Bắc Triều Tiên, sau đó trên đường trở về Sasebo, theo dõi cuộc tập trận hải quân của người Nga. Nó được quyền tiếp cận "không quá 200 mét" với các tàu chiến Nga để chụp ảnh cận cảnh chúng. Khu vực đi biển của nó giới hạn trong các vĩ độ 39 và 42 độ vĩ bắc. Nó được lệnh phải duy trì sự im lặng radio và radar hoàn toàn; chỉ được phép sử dụng liên lạc radio trong trường hợp khẩn cấp. Lý do của điều này, tất nhiên, để tránh bị phát hiện bởi các tàu chiến Nga hay tàu tuần tra của các nước thù địch tiềm tàng khác.

Sau một vài giờ chạy tàu, "Pueblo" đi tiếp theo hướng về phía bắc - đến đảo Ullyndo (đánh dấu 1 trên bản đồ), nhưng rơi vào vùng một cơn bão rất mạnh nên buộc phải giảm tốc độ và thay đổi hướng để tránh bị phát hiện. Khi cơn bão kết thúc, thuyền trưởng Bucher cho tàu hướng đến mục tiêu đầu tiên của mình - vùng biển gần cảng Chongjin của Bắc Triều Tiên (được đánh dấu số 2 trên bản đồ). Tàu đến đó vào ngày 16 và ở lại khu vực hai ngày, lựa hướng hoặc thả trôi ngược gió ở tốc độ thấp nhất, đồng thời chặn thu và ghi lại các bức xạ điện từ. Ban ngày, "Pueblo" thường ở cự ly 22-28 km cách bờ biển, nhưng vào ban đêm lui ra cự ly 32 - 40 km do những khó khăn trong việc xác định vị trí chính xác của mình trong bóng tối. Sau những khoảng thời gian đều đặn, động cơ tàu được dừng để hai nhà khoa học có thể tiến hành nghiên cứu hải dương học, đo nhiệt độ của nước biển và lấy mẫu kiểm tra. Các dữ liệu từ những nghiên cứu này rất quan trọng cho cuộc chiến tranh chống tàu ngầm, bởi vì chúng có thể được sử dụng để xác định nhiệt độ, độ mặn và các đặc tính vật lý khác của nước biển trong một khu vực cụ thể, ảnh hưởng đến sự làm việc của các sonar, được sử dụng để phát hiện dưới nước.

Sau khi rời vùng nước Chongjin, "Pueblo" hướng mũi về phía nam, đến 18 tháng 1 tàu tới Kim Chhek (điểm 3), nơi nó ở lại khoảng hai ngày, nhưng không tìm thấy gì đặc biệt quan trọng.

Sau đó, tàu chuyển hướng tới Honvon (được đánh dấu trên bản đồ, điểm số 4), nó ở lại đây đến ngày 21 tháng 1; vào buổi tối hôm đó, ngay sau khi mặt trời bắt đầu lặn, Bucher nhận thấy một tàu chống ngầm của Bắc Triều Tiên chạy ở tốc độ 25 hải lý. Cho rằng con tàu đó có lẽ không nhận thấy "Pueblo", ông ta quyết định không báo cáo điều này với bộ chỉ huy của mình ở Nhật Bản, vì việc truyền bức điện có thể làm cho Bắc Triều Tiên nhận ra sự hiện diện của "Pueblo". Chắc chắn Bucher đã lập tức ra lệnh rời khỏi khu vực và chuyển hướng về cảng Wonsan quan trọng của Bắc Triều Tiên (được đánh dấu trên bản đồ, điểm số 5). Điều kiện thời tiết rất xấu, gió mạnh và tuyết rơi liên tục, tuy nhiên, nhiệm vụ lúc này vẫn diễn ra đúng kế hoạch. "Pueblo" đến Wonsan vào buổi sáng ngày 22 tháng Giêng và như thường lệ, tiến hành đánh chặn và ghi lại bức xạ của radar phòng thủ bờ biển, cẩn thận tránh đi vào khu vực 12 dặm lãnh hải của Bắc Triều Tiên, ít nhất là viên sĩ quan hoa tiêu của tàu đã nói như vậy.

Khoảng 13:30 phía trước thủy thủ quan sát báo hiệu rằng hai tàu đánh cá từ cảng đi ra tiến về phía tàu "Pueblo". Sau khi tới gần tàu gián điệp ở cự ly khoảng 50 mét, chúng bắt đầu chậm chạp chạy xung quanh nó. Trên tàu không có vũ khí, nhưng cuộc viếng thăm khó chịu là hệ quả tất yếu của cuộc chạm trán ngày hôm trước với tàu chống ngầm Bắc Triều Tiên.

Bucher ra lệnh cho tất cả tự do đi lại trên boong và cho Bắc Triều Tiên thấy số lượng người trên tàu, mà tất nhiên, là không bình thường, nếu xét theo ý định và mục tiêu của nó. Giả thiết là phải vận chuyển hàng hóa ! Đồng thời, ông ta ra lệnh chuyển một bức điện về trạm liên lạc của Hải quân Mỹ tại Kamosei Nhật Bản, rằng "Pueblo" bị người Bắc Triều Tiên phát hiện.

Trong vòng vài giờ, các hiệu thính viên cố gắng truyền bức điện từ máy phát sóng WL-7 "Pueblo", nhưng không hiểu vì lý do gì mà họ không thành công. Trong khi đó, theo sau hai tàu đánh cá, tàu "Pueblo" tiếp tục di chuyển chậm trong khu vực 24 km cách lối vào cảng Wonsan. Lúc 9:00 sáng ngày 23 Tháng 1, sau khoảng mười sáu giờ, bức điện từ "Pueblo" cuối cùng đã được phát đi !
..........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)


USS Pueblo (AGER-2), tàu trinh sát ELINT và SIGINT của Mỹ (Banner-class technical research ship) thuộc cơ quan tình báo hải quân (Navy intelligence). Ảnh chụp năm 1967, khi rời San Diego, California, ngày 19 tháng 10 năm 1967.

Khoảng giữa trưa, tàu săn ngầm Bắc Triều Tiên SO-1 đi hết tốc độ tiếp cận nó, các pháo đội của con tàu đó đã đứng bên các cỗ pháo của họ, sẵn sàng nổ súng vào "Pueblo". Người Bắc Triều Tiên một lần nữa đi vòng quanh con tàu để kiểm tra nó chặt chẽ hơn và sau đó yêu cầu nó thông báo quốc tịch của mình. Trong khi đó, từ Wonsan bốn tàu phóng ngư lôi Bắc Triều Tiên đi ra và đang tiếp cận ở tốc độ cao. Khi trả lời yêu cầu khai báo quốc tịch, tàu "Pueblo" kéo lên lá cờ lớn của nước Mỹ, chiếc tàu săn ngầm đánh tín hiệu mã quốc tế: "Dừng lại nếu không tôi bắn".

Người Mỹ tiếp tục di chuyển chậm trong vùng biển mở, đồng thời trả lời bằng tín hiệu rằng "Pueblo" - tàu hải dương học. Tuy nhiên, tàu săn ngầm Bắc Triều Tiên, mà bây giờ có thêm sự tham gia của các tàu phóng lôi ra lệnh cho "Pueblo" theo mình. Thuyền trưởng Bucher thông báo rằng ông đang ở trong vùng biển quốc tế và cố gắng thoát ra khơi. Đáp lại điều này, người Bắc Triều Tiên bắn một loạt đạn vào "Pueblo", làm bị thương, mặc dù không nghiêm trọng, hai thủy thủ và chính thuyền trưởng Bucher.

Đó là lúc 14:20. Tại thời điểm này, Bucher ra lệnh cho người lái tàu quay đầu về hướng cảng Wonsan, còn sĩ quan an ninh tiêu hủy thiết bị điện tử và các tài liệu mật. Ông ta tổ chức một cuộc họp với một số sĩ quan của mình về những gì có thể thực hiện trong tình huống phức tạp này, và yêu cầu báo cáo các tọa độ chính xác của con tàu của mình. Vào thời điểm đó tàu đang ở cách đảo Ulyndo 25 km, gần lối vào cảng Wonsan. Bucher đánh tín hiệu cho người Bắc Triều Tiên rằng họ cản trở quyền hàng hải của mình trong vùng biển quốc tế, nhưng tàu săn ngầm đã có câu trả lời và bây giờ đi song song "Pueblo", còn bốn tàu phóng ngư lôi bao quanh tàu Mỹ ở tất cả các bên, với hai tàu phía đuôi và hai tàu phía mũi. Sĩ quan phụ trách vũ khí của "Pueblo", gồm có hai khẩu súng 40-mm, báo cáo Bucher rằng chúng đã bị che phủ bởi một lớp băng và vẫn còn che bạt, để khai hỏa chúng là vô cùng khó khăn. Thật vậy, nhiệt độ rất thấp, và Bucher nhận ra rằng nếu ông ta đánh chìm tàu bằng cách mở van kingstone, thủy thủ đoàn sẽ không tồn tại nổi năm phút trong làn nước băng giá này.

Cơ hội duy nhất của "Pueblo" là hy vọng có được sự giúp đỡ của lực lượng không quân hay hải quân Mỹ đóng quân tại Đông Nam Á. Thế nên nó phát đi một bức điện yêu cầu giúp đỡ. Trong khi đó , con tàu vẫn đi càng chậm càng tốt để tạo cơ hội cho thủy thủ đoàn có đủ thời gian tiêu hủy thiết bị điện tử và các tài kiệu mật, tuy nhiên, chiến dịch này diễn ra không phải là hoàn toàn tốt, bởi vì trên tàu có một số lượng tài liệu lớn và chỉ có một số lượng nhỏ các thiết bị để tiêu hủy chúng. Cuối cùng, câu trả lời đến từ Hải quân Mỹ tại Nhật Bản, trong đó nói: "Đã nhận điện của các anh. Hãy gắng tồn tại càng lâu càng tốt. Chúng tôi đã ra lệnh cho bộ chỉ huy tại Nam Triều Tiên phái máy bay tiêm kích-bom F-105 Thunderchief đến. Chúc may mắn !". Một vài phút sau, như thể chứng tỏ sự nhạo báng của số phận, hai chiếc tiêm kích Bắc Triều Tiên MiG-21 bay qua đầu "Pueblo" rồi biến mất trên đường chân trời.

Bucher quyết định quay hướng tàu để cho thủy thủ đoàn có thêm thời gian tiêu hủy các tài liệu mật, mà trong mọi trường hợp không được để rơi vào tay kẻ thù. Người Bắc Triều Tiên từ trên tàu săn ngầm trả lời bằng một loạt pháo tự động 57, làm bị thương một số thành viên thủy thủ đoàn, còn các tàu phóng ngư lôi của họ chĩa các ống phóng ngư lôi về phía "Pueblo". Sau một thời gian, một trong những tàu phóng ngư lôi tiếp cận "Pueblo", và khoảng một chục binh lính trang bị súng tự động và lưỡi lê tốt trần, đổ bộ lên boong tàu Mỹ. Viên sĩ quan chỉ huy họ, với khẩu súng lục trong tay, bắt đầu ra các mệnh lệnh trước sự ngạc nhiên của các thủy thủ Mỹ.

Tàu hải quân Hoa Kỳ USS "Pueblo" đã đầu hàng mà không chiến đấu như vậy đấy. Ngoài sự nhục nhã, cuộc đầu hàng này gây ra cho Hoa Kỳ thiệt hại không thể tưởng tượng bởi vì cùng với con tàu, rơi vào tay những người cộng sản Bắc Triều Tiên lần này có cả các thiết bị công nghệ tác chiến điện tử tiên tiến nhất và hầu hết các tài liệu siêu bí mật.

Ngay sau khi tin tức về việc bắt giữ "Pueblo" bay đến Washington, Tổng thống Hoa Kỳ, Lyndon B. Johnson, đang ngủ vào thời điểm đó, đã được đánh thức và ông đã được thông báo về sự cố trong vùng biển Nhật Bản. Theo thói quen của mình, Johnson trả lời: " Cảm ơn", và đi ngủ trở lại.

Tư lệnh Tập đoàn Không quân 5 được báo cáo sự việc qua điện thoại, và lúc 15:55, ông ta ngay lập tức ra lệnh cho bộ chỉ huy của mình trên đảo Okinawa chuẩn bị tất cả mọi máy bay phù hợp cho chuyến bay đến Wonsan; nhưng vì chúng chỉ có thể mang vũ khí hạt nhân, nên không thể cất cánh lên không trung.

Tư lệnh khu vực Thái Bình Dương ra lệnh cho bộ chỉ huy phái một tàu khu trục đến giải thoát cho "Pueblo", nhưng chỉ đến được đó lúc 12:00 sáng hôm sau.

Ngay khi Tư lệnh Hải quân Mỹ tại Nhật Bản, Phó Đô đốc Frank L.Johnson, cấp trên trực tiếp của Bucher, nhận được tin, ông ta chạy đến bộ tham mưu tại Tokyo, và theo sáng kiến riêng của ông, ra lệnh cho tàu sân bay hạt nhân "Enterprise", lúc đó ở cách Triều Tiên 1536 km, đi về hướng Wonsan. Các máy bay chiến đấu đóng quân tại Nhật Bản, không thể được phái đi vì vướng thỏa thuận ký kết với chính phủ của nước này, cấm máy bay quân sự Mỹ thực hiện nhiệm vụ chiến đấu từ lãnh thổ Nhật Bản. Phó Đô đốc Johnson tin rằng việc phái ngay cả máy bay tìm kiếm cứu nạn đi cũng là vô ích, bởi không có bằng chứng cho thấy "Pueblo" có nguy cơ bị đánh chìm.

Ngày 23 tháng 1 tại Wonsan mặt trời lặn lúc 17:41, còn hoàng hôn kéo dài đến 17:53, sau đó đã quá muộn để phái máy bay và tàu đi trợ giúp "Pueblo".

Cũng không có bất kỳ sự hỗ trợ cụ thể nào từ Washington. Mặc dù áp lực của công luận chống lại Bắc Triều Tiên, không có hành động quân sự nào diễn ra chống lại Bắc Triều Tiên. Chỉ có sự phản đối hình thức được thể hiện với Bắc Triều Tiên và lời kêu gọi tại Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc yêu cầu thả ngay lập tức con tàu và thủy thủ đoàn, Chính phủ Hoa Kỳ coi việc bắt giữ đó như một hành động cướp biển công khai vì tàu "Pueblo" đang ở trong vùng biển quốc tế.


Thủy thủ đoàn USS Pueblo khi đến trại của LHQ, khu phi quân sự Nam Triều Tiên, ngày 23 tháng 12 năm 1968, tiếp theo việc họ được phóng thích bởi chính quyền Bắc Triều Tiên.

Như vậy, vì một lý do nào đó, "Pueblo" đã bị bỏ mặc cho số phận ! Các thành viên của thủy thủ đoàn bị bắt giữ gần một năm. Ngày 22 Tháng 12 năm 1968, họ được phóng thích và được phép trở về nhà, ngoại trừ một thành viên thủy thủ đoàn đã chết vì vết thương trong thời gian bắt giữ tàu.

Hai ngày sau cuộc trở về Mỹ của thủy thủ đoàn, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương ra lệnh thành lập một Ủy ban Điều tra để nghiên cứu hoàn cảnh liên quan đến vụ bắt giữ "Pueblo". Ủy ban bao gồm các sĩ quan cao cấp ba quân chủng lực lượng vũ trang Mỹ, được giao nhiệm vụ thực hiện kết luận sơ bộ về tác động đối với an ninh quốc gia do sự mất mát các tài liệu nhạy cảm trên tàu.
..........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

14.4. Vụ tổn thất EC-121



Chiếc EC-121 số 135749

Trong thời gian các buổi điều trần, ngày 14 tháng 4 năm 1969, Lầu Năm Góc đột ngột thông báo rằng vào lúc nửa đêm, các lực lượng vũ trang CHDCND Triều Tiên đã bắn rơi một chiếc máy bay EC- 121 của Hải quân Mỹ, đang thực hiện nhiệm vụ trinh sát điện tử, cách bờ biển Bắc Triều Tiên khoảng 80 km. Tính đến sự giống nhau của sự cố này với trường hợp "Pueblo", theo quan điểm của tiểu ban an ninh quốc gia, phân ban ba quân chủng quyết định mở rộng cuộc điều trần của mình liên quan đến vụ mất EC-121. Thật vậy, giữa hai sự kiện này có nhiều điểm tương đồng và cả hai phát lộ những lỗ hổng nghiêm trọng trong hệ thống các bộ chỉ huy.

Chiếc EC- 121 thuộc 1 phi đoàn trinh sát, trục thuộc Tư lệnh và BCH Hạm đội 7 Thái Bình Dương. Tuy nhiên, trách nhiệm đảm bảo máy bay bảo vệ cho EC-121, nếu cần thiết, thuộc Tư lệnh Tập đoàn không quân 5. Khi chiếc máy bay gián điệp, lúc 17:00 ngày 14 tháng 4 năm 1969, cất cánh từ căn cứ không quân Atsugi tại Nhật Bản, nó cũng ra khỏi quyền kiểm soát hoạt động của ban chỉ huy phi đoàn và không có ban chỉ huy nào khác chịu trách nhiệm quản lý nó, mặc dù các trung tâm kiểm soát radar khác nhau của không quân Mỹ, Hải quân và quân đội Mỹ đều theo dõi chuyến bay của nó trên các màn hình radar và bản đồ tình hình chiến thuật đường không của mình.

Dấu hiệu đầu tiên cho thấy chiếc EC-121 đang gặp nguy hiểm đến từ chính phi đoàn, sĩ quan trực chiến của ban chỉ huy báo cáo rằng đài vô tuyến của BCH nhận được bức điện từ một đài vô tuyến khác của Mỹ cảnh báo chiếc EC-121, rằng một máy bay của đối phương đang tiếp cận nó trên không phận vùng biển Nhật Bản. Khi đó, người chỉ huy phi đoàn yêu cầu trạm vô tuyến chính của Mỹ ở vùng Viễn Đông tại Fushu, chuyển bản sao tất cả các thông báo đã được truyền cho EC-121 và sử dụng tất cả các nguồn thông tin có được, giải thích lý do tại sao chuyến bay bị đứt quãng. Trong hơn một giờ rưỡi chỉ huy phi đoàn gọi trạm vô tuyến ở Fushu, nhưng không có lời giải thích về vấn đề trên. Vì vậy, ông ta quyết định truyền một bức điện khẩn, có độ ưu tiên cao hơn tất cả các loại điện báo vô tuyến khác, truy vấn tất cả các đài vô tuyến Mỹ của BCH về chiếc EC-121.

Ngay lập tức sau đó, BCH phi đoàn nhận được một thông báo nói rằng chiêc EC-121 có thể đã bị các máy bay chiến đấu Bắc Triều Tiên bắn rơi trên vùng biển Nhật Bản. Tại thời điểm này, chỉ huy phi đoàn yêu cầu Tập đoàn KQ 5 ngay lập tức tổ chức hoạt động cứu hộ, và nhận được lời xác nhận một máy bay C-130 Hercules đã sẵn sàng. Giờ địa phương là 1:09, đó là ngày 15 tháng 4, và có lẽ vì đêm tối, không có dấu vết nào của chiếc EC-121 và mười hai thành viên phi hành đoàn của nó được tìm thấy.

Trong UB Điều tra của Hải quân, điều tra vụ bắt giữ tàu "Pueblo", có 5 vị đô đốc, đứng đầu là đô đốc Harold G.Bowen. Thủy thủ đoàn "Pueblo" và tất cả những người trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt động này, đều bị thẩm vấn trong hai tháng. Tất cả năm đô đốc đã tham gia chiến tranh Triều Tiên - một trong những cuộc chiến tranh tàn bạo nhất mà Hoa Kỳ đã tham gia chiến đấu. Họ được chọn chính vì lý do này, và tất nhiên, không tha thứ cho Bucher. Bucher giao nộp con tàu của mình cho đối phương mà không kháng cự, và theo ý kiến của họ, tội đó không thể tha thứ ; thuyền trưởng không bao giờ được giao nộp con tàu của mình, bất kể trường hợp nào. Và như niềm hy vọng cuối cùng, nếu nó thực sự bị bao vây bởi một kẻ thù có số lượng vượt trội, con tàu phải được đánh đắm. Lời kết án rất khắc nghiệt; cơ quan xét xử yêu cầu thuyền trưởng Bucher phải ra trước Tòa án và ông ta bị buộc 5 tội : cho phép lục soát con tàu của mình, khi vẫn còn khả năng kháng cự; từ chối phản ứng ngay lập tức khi bị tấn công bởi những người Bắc Triều Tiên; cho phép BCH Bắc Triều Tiên chỉ huy mình theo yêu cầu của họ đi về cảng Wonsan; không có khả năng chứng thực trước khi đi biển, rằng các sĩ quan và thủy thủ đoàn của ông đã được huấn luyện và thực tập việc tiêu huỷ tài liệu bí mật và thiết bị điện tử trên tàu; không có khả năng phá hủy các tài liệu và thiết bị gây ra bởi sự sơ suất, do đó dẫn đến việc chúng rơi vào tay người Bắc Triều Tiên.


Thuyền trưởng "Pueblo" Lloyd Pete Bucher.

Tòa cũng yêu cầu Phó Đô đốc Frank L. Johnson, Tư lệnh lực lượng Hải quân ở Nhật Bản, phải bị khiển trách vì ông ta không thấy rõ "Pueblo" đã được chuẩn bị đúng cách và được bảo vệ hay chưa, tương tự, đại úy Everett B.Glending, trưởng ban an ninh BCH Hạm đội Thái Bình Dương, bị khiển trách vì ông ta không kiểm tra xem hiệu quả của phân khúc thu thập dữ liệu của tàu "Pueblo" đủ nghiêm ngặt theo yêu cầu hay chưa.

Tuy nhiên, trong cùng ngày Tòa án công bố khuyến nghị của mình, Bộ trưởng Hải quân đã ban hành thông cáo chính thức, trong đó nói rằng đối với thủy thủ đoàn của "Pueblo", sẽ không có bất kỳ biện pháp trừng phạt nào, bởi vì họ đã phải chịu đựng quá đủ trong thời gian bị giam giữ, và rằng không có bản án nào hết - không có sự công nhận vô tội cũng không có sự buộc tội nào có thể đưa ra chống lại các sĩ quan và thuyền trưởng, vì tiền đề mà hoạt động của những con tàu kiểu "Pueblo" dựa vào - là tự do hàng hải trong vùng biển quốc tế - đã bị phá vỡ bởi cuộc tấn công của người Bắc Triều Tiên bên ngoài lãnh hải của họ.

Ủy ban ba quân chủng LLVT đã xem xét lại nhiều khía cạnh của việc tiến hành giám sát điện tử mà Ủy ban Điều tra Hải quân đã điều tra, cuối cùng họ phát hành một báo cáo có chứa một số khám phá rất thú vị, các kết luận và kiến nghị.

Chiến dịch "Pueblo" và EC-121 Warning Star là một phần trong kế hoạch đắt tiền của hệ thống an ninh quốc gia để nhận được thông tin quân sự về các nước thù địch tiềm tàng. Theo các chuyên gia về chiến tranh hiện đại, an ninh quốc gia được dựa trên sự hiểu biết về sức mạnh quân sự của kẻ thù tiềm năng và để thu thập, phân tích, đánh giá và sử dụng thông tin cần phải sử dụng các phương tiện kỹ thuật hoàn hảo nhất. Nhằm mục đích này, Hoa Kỳ bắt đầu tiến hành giám sát trên quy mô lớn và thu thập các thông tin về mặt kỹ thuật và về mặt hoạt động cần thiết, cả thông tin công khai và bí mật, sử dụng tàu và máy bay trang bị đặc biệt.

Bị đánh bại bởi người Bắc Triều Tiên, các chiến dịch "Pueblo" và EC-121, được sử dụng chính là cho các mục đích ấy, và cả hai đều có ưu và nhược điểm. Tuy nhiên, về tổng thể, cả tàu và máy bay đều tỏ ra cực kỳ hữu ích cho loại hình hoạt động này, bất kể cùng phối hợp hoặc hành động riêng rẽ.

Trong giai đoạn đầu Chiến tranh Lạnh, để thu thập thông tin về EW, Hải quân Mỹ sử dụng các tàu chiến thông thường, tàu tuần dương, các tàu phóng ngư lôi, v.v. Tuy nhiên, sau nhiều năm sử dụng, thực tế đã từ chối điều đó, vì nó có một số hạn chế nghiêm trọng : đầu tiên, các tàu chiến phải tách khỏi việc thực hiện mục tiêu chính của chúng; thứ hai, sự hiện diện của các tàu quân sự Mỹ trong khu vực căng thẳng có thể được coi là một hành động khiêu khích quốc gia mà nó đang ở gần bờ, do đó hạn chế khả năng của các tàu chiến khi tiến hành các hoạt động do thám điện tử; và thứ ba, theo các điều ước khác nhau và các thỏa thuận quốc tế, tàu chiến có vô số hạn chế không áp dụng đối với các tàu khác; và cuối cùng, tàu chiến không phải lúc nào cũng có đủ không gian để chứa tất cả các thiết bị điện tử và các chuyên gia thiết cho hoạt động của mình. Vì vậy, Hoa Kỳ, quyết định sử dụng tàu buôn để do thám điện tử. Trong một số trường hợp, chúng được thiết kế và chế tạo đặc biệt để thực hiện chỉ các nhiệm vụ như vậy, còn trong các trường hợp khác, chúng được hoán cải theo cách phù hợp để thực hiện vai trò mới.

Con tàu đầu tiên - thiết kế đặc biệt để giám sát điện tử được đặt hàng ở nhà máy đóng tàu New York tháng Bảy năm 1961. Nó được gọi là "Oxford" và mang số mạn AGER-1. Nó rất giống con tàu nổi tiếng từ thời Thế chiến II "Tự do", đặc biệt bởi thân tàu. Sau này, có thêm sáu tàu lớp này được đặt hàng. "Georgetown", "Jackstein", "Belmont", "Liberty", "Valdez" và "Muller".

Tuy nhiên, vào năm 1965, có vẻ như các tàu đó đáp ứng được quá ít yêu cầu của cơ quan an ninh quốc gia trong việc thu thập thông tin tình báo điện tử, do đó, chính phủ Mỹ giao nhiệm vụ tân trang lại thành tàu gián điệp kiểu "Pueblo" một số lượng lớn các tàu phụ trợ. Được đóng trong Thế chiến II để vận tải hàng đường biển phục vụ quân đội Mỹ, chúng được giải nhiệm năm 1944 và chuyển sang lực lượng trù bị. Hai tàu đầu tiên được lên kế hoạch chuyển đổi, đã trở thành các tàu "Banner" và "Pueblo", sau chúng là tàu "Palm Beach". Hải quân Mỹ rất hài lòng với loại tàu gián điệp này, vì thế đã phê duyệt kế hoạch triển khai mười lăm tàu khác trên các vùng biển toàn thế giới. Nhiệt tình của Hải quân Hoa Kỳ với các tàu như vậy cũng được thúc đẩy bởi yếu tố chi phí hoạt động của chúng thấp hơn nhiều so với các loại tàu khác.
.......
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

14.5. Do thám hiện đại

Nhân viên của các cơ quan mật vụ ngày hôm nay có hơi khác với những điều mà các cuốn sách về gián điệp vẫn kể. Hiện nay, phi công máy bay-do thám chỉ trong một chuyến bay đã có thể thu thập nhiều thông tin hơn hàng trăm trinh sát viên bình thường, tương tự như những người từng hoạt động trong Thế chiến thứ Nhất và những người cần cả năm để thu thập nó ! Những câu chuyện nổi tiếng về những phụ nữ xinh đẹp giấu trong bộ ngực tuyệt trần của họ những thứ quý giá, các bản đồ sao chép chớp nhoáng, lấy từ phòng ngủ của một viên đại úy đa cảm hoặc một viên tướng phóng đãng, bây giờ đã thuộc về quá khứ.

Nhưng không nên nói rằng các hình thức truyền thống của hoạt động gián điệp không còn cần thiết. Ngược lại ! Có thể cho một ví dụ về một trong các trường hợp được biết đến của hoạt động gián điệp kinh điển, xảy ra sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, khi các điệp viên Nga biết cách có được những bí mật nguyên tử của người Anh từ nhà khoa học Anh Klaus Fuchs, người sau này được đặt tên là "gián điệp của thế kỷ". Nhưng có lẽ đây là một trường hợp đặc biệt vì kẻ phản bội nước Anh đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tư tưởng cộng sản.


Nhà vật lý người Đức Klaus Fuchs, ảnh chụp của cảnh sát.

Loại gián điệp như vậy được gọi là "thâm nhập", vì sự xâm nhập vào các trung tâm hoạt động của đất nước thù địch tiềm tàng thông qua việc sử dụng các điệp viên bên trong chúng hoặc gần gũi với chúng, sau đó có thể ăn cắp tài liệu quan trọng hoặc nghe trộm được các cuộc trò chuyện liên quan đến an ninh quốc gia. Hình thức gián điệp đó cực kỳ khó thực hiện vì sự kiểm tra nghiêm ngặt hiện hành và các biện pháp an ninh nhằm ngăn chặn việc cài cắm điệp viên từ ngoài vào. Khó khăn này trên mức độ lớn có thể khắc phục bằng cách sử dụng các điệp viên nội bộ - những người chiếm một vị trí cao trong các tổ chức trên, và vì lý do ý thức hệ hay vì tiền mà có xu hướng làm việc cho các cơ quan tình báo của các quốc gia thù địch.

Tuy nhiên, ngoài các tài liệu và kế hoạch rất quan trọng, hầu hết các thông tin mong muốn có thể thu được bằng cách chặn và giải mã thông tin vô tuyến của đối phương, chủ yếu bằng cách tiến hành trinh sát điện tử và trinh sát ảnh. Với sự ra đời của thiết bị chụp ảnh và điện tử vô cùng hoàn hảo để giám sát từ khoảng cách rất xa các vụ thử hạt nhân và phóng tên lửa, hoạt động gián điệp đã trở thành bộ môn có tính kỹ thuật công nghệ và khoa học hơn nhiều.

Khi trong những năm 50, khả năng 1 cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ, đầy thảm họa đã trở thành một mối đe dọa thực sự, phương tiện duy nhất thấy trước vấn đề này là hoạt động gián điệp. Dự đoán một cuộc tấn công như vậy là vô cùng khó khăn bởi vì, không giống như các hình thức chiến tranh truyền thống, trong đó hành động tấn công được đi trước bằng việc huy động quân đội, xe tăng, tàu chiến, v.v, thì việc chuẩn bị cho một cuộc tấn công hạt nhân có thể được thực hiện trong bí mật.

Do đó, các cơ quan bí mật của thời đại nguyên tử cần phải có các thông tin hiện tại về sức mạnh tấn công của các nước khác, và đặc biệt trước hết là thông tin liên quan đến vũ khí hạt nhân của họ và hệ thống cung cấp của họ. Nó là sự thông tin về việc triển khai các căn cứ của tên lửa có điều khiển và tiến bộ kỹ thuật trong các hệ thống dẫn đường cho tên lửa. Hơn nữa, vì cách duy nhất để giữ cho kẻ thù khỏi đòn tấn công bất ngờ là mối đe dọa một sự trả đũa trên quy mô lớn, điều cũng rất quan trọng là phải biết cả khả năng phòng thủ của nó để tìm ra và lập kế hoạch làm thế nào xâm nhập qua hệ thống phòng thủ của nó và có những cơ hội đủ để thành công và giữ được sự tồn tại cho lực lượng của bản thân.

Mặc dù khả năng hiện có giấu thiết bị phóng tên lửa trong các hầm ngầm dưới lòng đất, ngụy trang radar dẫn đường tên lửa và sử dụng nhiều thủ đoạn khôn khéo khác để đánh lừa đối phương về những hành động và ý định của mình, chưa ai tìm thấy cách nào có thể giấu bức xạ điện từ radar của họ, gần như luôn gắn với các hệ thống vũ khí hiện đại. Sớm hay muộn, trong thời gian triển khai các hệ thống vũ khí, đào tạo các trắc thủ radar, hoặc trước hết trong các lần phóng thử, radar cần phải mở máy; mà sau đó chúng không thể tránh khỏi việc bị phát hiện và các tọa độ của chúng được xác định bởi trinh sát điện tử. Điều đó gợi đến việc radar để lại "chữ ký" hoặc "dấu vân tay" của chúng trong bầu không khí cho bất cứ ai muốn thu được chúng, như xảy ra trong các ví dụ cổ điển về việc phát hiện kẻ giết người. Sau khi radar vừa bị phát hiện, vị trí của nó bị xác định, bức xạ được phân tích, biện pháp đối kháng điện tử tương ứng có thể được phát triển để vô hiệu hóa hoặc giảm tác dụng vào đúng thời điểm làm việc hiệu quả của radar.

HẾT CHƯƠNG 14​
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 15. Các cuộc khủng hoảng quốc tế

15.1. Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba



Một bức ảnh trinh sát của máy bay U-2 chụp lãnh thổ Cuba, cho thấy các tên lửa Soviet, các xe vận chuyển chúng và các lều dã chiến tiếp nhiên liệu và bảo dưỡng.


Sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai, đã xảy ra nhiều cuộc khủng hoảng quốc tế lớn - các cuộc khủng hoảng mà trong đó EW đóng một vai trò quyết định. Cuộc khủng hoảng có khả năng bùng nổ nguy hiểm nhất bắt đầu vào cuối mùa hè năm 1962, khi tàu do thám của Hải quân Mỹ "Muller", tuần tra và nghe lén trên biển Caribbean, chặn thu được tín hiệu radar bất thường đến từ phía lân cận hòn đảo Cuba. Các băng từ chứa tín hiệu ghi nhận ngay lập tức được gửi về Washington để phân tích và nỗ lực định danh. Người Mỹ tỏ ra hoảng hốt khi họ đi đến kết luận rằng chúng chính là tín hiệu radar của Liên Xô thường được sử dụng để dẫn đường cho tên lửa đạn đạo mang đầu đạn hạt nhân.

Để xác nhận phát hiện của mình, các máy bay tuần tra được phái đến vùng biển Caribbean, thực hiện nhiệm vụ ELINT, còn một vài ngày sau đó, dọc theo bờ biển phía nam Florida, đã thiết lập những máy thu đặc biệt nhạy cảm với các ăng-ten định hướng chĩa về Cuba. Tất cả các tín hiệu vô tuyến phát đi và truyền đến đều bị đánh chặn.

Ngay sau đó, vào ngày 14 tháng 10, máy bay U-2 được phái đến trinh sát hòn đảo. Các bức ảnh chụp từ độ cao 30.500 mét, trong đêm đó ngay lập tức được xử lý và phân tích bởi các chuyên gia của CIA. Họ do sánh chúng với các hình ảnh khác thực hiện trên bầu trời Cuba hai năm trước trong tháng 1 năm 1960 bởi một máy trinh sát U-2 khác sử dụng máy ảnh hồng ngoại. Chuyến bay này may mắn ở chỗ đã chụp được ảnh từng cm lãnh thổ Cuba mà không gây ra dù chỉ những nghi ngờ nhỏ nhất của lực lượng phòng không của Fidel Castro.

Các bức ảnh trở thành chủ đề của một cuộc phân tích cẩn thận và buổi tối hôm sau, đã tìm thấy có dấu hiệu của căn cứ tên lửa chiến dịch-chiến thuật (ОТР - оперативно-тактическая ракета) ở San Cristobal. Các chuyến bay trinh sát tiếp theo trên bầu trời Cuba xác nhận rằng người Nga, quả thật, đã triển khai một số tên lửa loại này và đang chuẩn bị các trận địa phóng cho loại tên lửa tầm hoạt động lớn hơn. Tầm bay xa của chúng đến khoảng 1600 km, điều đó có nghĩa là người Cuba có thể bắn trúng và tiêu diệt các mục tiêu trên lãnh thổ Mỹ, bao gồm cả Washington, kênh đào Panama và một loạt căn cứ của Bộ Tư lệnh Không quân Chiến lược.

Sáng ngày 16, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã được thông báo điều này, ông ta ngay lập tức tổ chức cuộc họp với các cố vấn thân cận nhất của mình, yêu cầu họ phân tích sâu sắc những mối nguy hiểm đối với Mỹ bởi sự triển khai trên, và sau đó có thể thực hiện những hành động trả đũa nào.


USNS Joseph E. Muller (T-AG-171), tàu trinh sát SIGINT, đã phát hiện ra tín hiệu radar điều khiển tên lửa Liên Xô tại Cuba năm 1962.

Nhóm công tác nghiên cứu và thảo luận tất cả các đề xuất trong năm ngày, còn trong khi đó, cường độ các chuyến bay do thám U- 2 được tăng lên. Một vài ngày sau Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô đảm bảo với Tổng thống Kennedy rằng nước Nga chỉ đưa cho Fidel Castro các "vũ khí phòng thủ".

Ngày 27 tháng 10, một U-2 đang bay do thám trên không phận Cuba, bị trúng TLPK Nga S-75 và phi công của nó, thiếu tá Rudolf Anders, tử nạn. Ngay lập tức các chuyến bay U-2 bị dừng, còn nhiệm vụ của chúng, bắt đầu được thực hiện bởi các máy bay McDonnell RF-101 Voodoo có căn cứ tại Florida, thuộc Bộ Chỉ huy Không quân chiến thuật. Chúng có thể bay với tốc độ gấp hai lần tốc độ âm thanh, từ độ cao 15.000 mét cho đến độ cao trên ngọn cây. Chúng được trang bị máy ảnh điều khiển điện tử và đạn pháo sáng để chụp ảnh vào ban đêm.

Sau một loạt chuyến bay ngắn nhưng cường độ cao cả ngày lẫn đêm ở độ cao thấp của RF-101, người Mỹ thu được sự xác nhận không chỉ thực hiện bằng các bức ảnh, mà còn bởi thực tế là các phi công đã thấy tận mắt : 42 trận địa phóng tên lửa tầm trung (RSD, РСД - ракеты средней дальности, ở đây là tên lửa R-12) đã chuẩn bị xong cùng với các radar dẫn đường của chúng. Đã có được sự xác nhận Cuba có 42 máy bay ném bom phản lực Il-28, 144 trận địa TPK S-75, 42 máy bay MiG- 21 và một số tàu tên lửa do Liên Xô chế tạo, cũng như trên đất Cuba đang có 20.000 cố vấn quân sự và chuyên gia Liên Xô. Các trạm mặt đất đánh chặn khẳng định rằng tần số hoạt động trước đó do các máy bay và tàu quân sự chặn thu được, thực sự thuộc về những khí tài liên quan đến tên lửa đạn đạo. Chưa có xác nhận sự hiện diện của các đầu đạn hạt nhân; và chúng, cùng với các tên lửa, có lẽ vẫn còn trên đường đi, được nhiều tàu buôn từ Nga chuyên chở, đang đi đến vùng biển Caribbean.

Trên cơ sở các thông tin không thể chối cãi này Tổng thống Kennedy quyết định áp dụng các hành động trả đũa và thông báo cho dân chúng Mỹ và các đồng minh của Mỹ về những gì đã xảy ra và những gì có thể xảy ra.

Trong một số giải pháp hiện có sẵn để làm cho tình hình thuận lợi thuộc thẩm quyền mình, Kennedy quyết định chọn phương án phong tỏa đường biển hòn đảo. Tất cả các tàu có mang vũ khí trên tàu, bất kể quốc tịch, đều không được phép tới Cuba. Để cho phép người Nga giữ thể diện, những hành động này được gọi là "cách ly kiểm dịch".

Đồng thời trong lúc đó, 18 tàu buôn Liên Xô, chất đầy đạn tên lửa và trang thiết bị cho chúng, đang tiến về phía hòn đảo của Castro. Cuộc đụng độ giữa người Nga và người Mỹ trên Đại Tây Dương dường như sắp xảy ra, thế giới nín thở chờ đợi những gì có thể đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh Thế giới III.


Bố trí các trận địa hình sao tại một điểm triển khai SA-2 trên đất Cuba tháng 11 năm 1962, ảnh chụp của máy bay trinh sát Mỹ. Sau những thành công của các phi vụ Wild Weasel đầu tiên, người Bắc Việt Nam bắt đầu bố trí trận địa theo cách khác để làm cho nó khó bị phát hiện hơn.

Các tàu Nga, được các tàu ngầm của họ hộ tống, ở dưới sự giám sát liên tục của người Mỹ. Khi những tàu đầu tiên bị dừng lại, bị lục soát kiểm tra và người ta yêu cầu chúng lập tức đổi hướng, Chính phủ Xô Viết đã ra lệnh cho chúng quay trở lại.

Chưa bao giờ, kể từ năm 1945, thế giới quá gần với một thảm họa hạt nhân như trong tháng 10 năm 1962. Nếu Hải quân Mỹ không thu thập được và phân tích thông tin điện tử về các radar Liên Xô một cách nhanh chóng như vậy, và như thế sẽ cho người Nga thời gian lắp đặt thêm tên lửa ở Cuba, thì sau khi lắp đặt chúng xong, hậu quả đối với hòa bình thế giới sẽ nghiêm trọng hơn nhiều và sẽ rất khó khăn trong tác động để rút chúng đi.

Sau hành động nhượng bộ nhục nhã này ở vùng biển Caribê, người Nga bắt tay thực hiện một chương trình rộng lớn tăng cường hạm đội của mình. Chịu trách nhiệm về chương trình này là Đô đốc Sergei Gorshkov, Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô. Mỗi năm, nhiều tàu mới thuộc các lớp khác nhau được đặt hàng, chúng trang bị các tên lửa diện-đối-diện và diện-đối không. Hạm đội Liên Xô tăng nhanh như thổi, trở thành hạm đội lớn thứ hai trên thế giới. Thông thường, trên các tàu mới của người Nga, các thiết bị điện tử được lắp đặt có phổ rất rộng, người ta có thể nói là một rừng ăng-ten dày đặc trên giá treo, rất ấn tượng cả về số lượng và chất lượng. Với mục đích tránh ECM của kẻ thù, người Nga tăng dần tần số hoạt động và cải thiện thiết kế radar của mình.

Song song với việc tăng cường Hải quân Liên Xô và sự gia tăng ảnh hưởng chiến lược của Moscow, cũng bắt đầu các công việc gia tăng số lượng hạm đội tàu thương mại bằng cách bổ sung các tàu chở hàng và tàu phụ trợ, bao gồm cả các tàu hải dương học lớn và các tàu đánh cá lớn. Nhiều tàu trong số các tàu phụ trợ, nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Hải quân Liên Xô, theo lời Gorshkov, chúng được coi là một phần cơ hữu của lực lượng hải quân Liên Xô, có khả năng tiến hành hoạt động do thám điện tử. Được gọi theo NATO là các tàu phụ trợ, trinh sát và thu thập tin tình báo (AGI), chúng là tai mắt của ngành trinh sát hải quân Nga và chúng thu thập cho Hải quân Nga thông tin liên quan đến việc triển khai và các phương pháp ứng dụng radar, các hệ thống thông tin vô tuyến và định vị dẫn đường, v.v của kẻ thù tiềm năng, bắt đầu từ các nước NATO.

Do các nước NATO sử dụng nhiều loại radar khác nhau và các hệ thống vô tuyến điện tử khác, khu vực giám sát được mở rộng, số lượng AGI tăng từ 4 năm 1962 lên hơn 160 vào năm 1979. Chúng được phân chia giữa các hạm đội khác nhau của Liên Xô : Thái Bình Dương, Biển Bắc, Baltic, Biển Đen, Địa Trung Hải và liên tục hoạt động ở bất cứ nơi nào có thể đánh chặn bức xạ điện từ. Chúng hầu như luôn luôn hiện diện trong khu vực tiến hành tập trận không quân và hải quân, trong vùng gần bãi thử tên lửa khi phóng tên lửa và dọc theo tất cả các bờ biển nơi bố trí các radar của các nước NATO.

AGI khá ấn tượng về trọng tải, tầm hoạt động và độ dài thời gian đi biển, v.v. Ví dụ, tàu lớp "Primorye" có lượng rẽ nước 5.000 tấn, một số lượng lớn các ăng-ten trên các cột buồm và cấu trúc thượng tầng, còn dưới boong tàu có hai khoang lớn, trong đó có thể bố trí các thiết bị điện tử để phân tích các tín hiệu chặn thu được. Chúng cũng sở hữu một số lượng lớn các máy phát và máy thu để đánh chặn tất cả các thông tin liên lạc vô tuyến giữa các tàu của NATO và BCH NATO; bản thân chúng có thể liên lạc với Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô, hoặc một cách trực tiếp hoặc thông qua vệ tinh. Các lớp tàu khác gây ấn tượng không chỉ về số lượng mà còn là chất lượng của các thiết bị điện tử, đó là tàu thuộc các lớp "Hải đăng" và "Đại dương".


15.2. Cuộc xâm lược Tiệp Khắc



Prague ngày 21 tháng 8 năm 1968

Một ví dụ cổ điển của hoạt động ứng dụng rộng rãi đối kháng điện tử trong các chiến dịch thời bình là cuộc xâm lược Tiệp Khắc của các nước cộng sản khối Hiệp ước Warsaw, chủ yếu là Liên Xô, vào đêm từ 20 sang ngày 21 tháng 8 năm 1968.

Một thời gian ngắn trước cuộc xâm lược, để che giấu sự tập trung xe bọc thép dọc theo biên giới Tiệp Khắc, người Nga tổ chức gây nhiễu rất mạnh ở tất cả các tần số hoạt động của các radar giám sát của Tiệp Khắc và khối NATO tại Trung Âu. Họ sử dụng cho mục đích này một số lượng lớn thiết bị gây nhiễu : Mound Brick, Tube Brick и Cheese Brick theo phân loại của NATO. Chúng được đặt trên các xe ô tô và chế áp toàn bộ phổ tần số hoạt động của các loại radar nói trên. Máy phát nhiễu phương tiện thông tin liên lạc R-118 cũng được dùng vào mục đích đó, chúng được gắn trên các xe bánh xích, và không cho phép các khí tài thông tin liên lạc của Tiệp Khắc và khối NATO làm việc, hoặc ít nhất là cản trở sự hoạt động của các phương tiện ấy.

Ngoài thiết bị gây nhiễu đó ra, trong đêm xâm lược, người Nga sử dụng một số lượng lớn PRLO để làm mù hoàn toàn màn hình radar Tiệp Khắc và NATO. Kết quả là, không ai biết gì về các xe tăng đang tiến công và các máy bay vận tải khổng lồ đang đổ bộ binh sĩ xuống các sân bay tại Prague và các thành phố khác ở Tiệp Khắc. Người Nga đã thành công trong việc che dấu tất cả các radar lân cận về sự hiện diện một khối lượng lớn xe máy kỹ thuật của đội quân xâm lược đang triển khai, và như vậy họ đã tối đa hóa yếu tố bất ngờ và sự an toàn của mình ở tất cả các giai đoạn của chiến dịch. Tóm lại, chiến dịch gây nhiễu đã hoàn toàn làm tê liệt mọi nỗ lực kháng cự, vì người Tiệp đơn giản là không biết những gì đang xảy ra.

Thế giới được đặt trước sự việc đã rồi. Các nước Tây Âu và Hoa Kỳ chẳng thể làm gì hơn là tuân theo một chính sách thận trọng không can thiệp và thể hiện một loạt các lời phản đối và buộc tội. Chính phủ Mỹ cũng ra tuyên bố phản đối, rằng Liên Xô đã gây khó dễ bằng cách gây nhiễu đài "Voice of America" phát vào các nước khối Đông Âu.

Tuy nhiên, cuộc xâm lược Tiệp Khắc bắt người Mỹ và các đồng minh của họ hiểu rằng, kiến thức của họ về khả năng tác chiến điện tử của người Nga còn nhiều thiếu sót. Do đó, họ ngay lập tức tăng cường các hoạt động tình báo dọc theo biên giới của khối Hiệp ước Warsaw.
.........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

15.3. Sự gia tăng mạnh mẽ khả năng tác chiến điện tử của Liên Xô



Một tốp quân nhân Liên Xô bên xe R-118

Việc sử dụng gần như hoàn hảo đối kháng điện tử (ECW) của người Nga trong cuộc xâm lược Tiệp Khắc là một bất ngờ thực sự cho phương Tây, nó cho thấy tầm quan trọng mà người Nga dành cho EW và mức tiến bộ mà họ đã đạt được trong lĩnh vực này.

Tuy nhiên, những người đã đọc cuốn sách "Chiến lược quân sự của Liên Xô" của Nguyên soái V.D.Sokolovsky xuất bản một vài năm trước đó, sẽ không quá ngạc nhiên. Trong cuốn sách này, cựu thứ trưởng quốc phòng Liên Xô xác định rõ ràng vai trò EW trong chiến lược của Liên Xô. Ông xác định các nhiệm vụ cơ bản của EW như cản trở việc sử dụng hiệu quả quang phổ điện từ của kẻ thù để bảo vệ khí tài của mình trước ECM của đối phương. Ông viết rằng, bây giờ, việc sử dụng ECW và phản ECW đã trở thành phổ biến, ứng dụng của chúng rất quan trọng, và những phát triển trong lĩnh vực thiết bị điện tử hiện nay là ngang bằng về tầm quan trọng với các phát triển trong lĩnh vực tên lửa và vũ khí hạt nhân, mà tự nó sẽ ít có ý nghĩa nếu không có thiết bị điện tử.

Cơ cấu tổ chức tác chiến điện tử ở Liên Xô rất phức tạp và trách nhiệm về nó thuộc hai cơ quan lớn : KGB và GRU.

KGB là cơ quan cấp cao nhất trong số đó, nó nằm dưới sự giám sát trực tiếp của Chính phủ. Nó thu thập tất cả các loại thông tin liên quan đến an ninh quốc gia bằng tất cả các phương tiện sẵn có, từ các điệp viên thông thường đến các vệ tinh nhân tạo, từ các trạm chặn thu mặt đất tới các trạm thiết lập trong các đại sứ quán và lãnh sự quán ở nước ngoài. Nó bao gồm bốn Tổng cục, bảy Cục độc lập và sáu ban đặc biệt. KGB có một lượng nhân lực dồi dào và nguồn vật lực rất lớn.

GRU, đến lượt nó, trực thuộc Tổng tư lệnh các quân binh chủng và hoạt động gần như độc quyền trong lĩnh vực quân sự. Tương tự các cơ quan tình báo phương Tây, nó thu thập thông tin hoạt động quân sự và thông tin kỹ thuật liên quan đến các hệ thống vũ khí, chiến thuật sử dụng và trường vô tuyến điện tử của các quốc gia thù địch tiềm tàng.

Phục vụ cho các hoạt động EW của mình, người Nga sử dụng rộng rãi các radar lắp đặt trên máy bay, vì lý do dễ hiểu là tầm hoạt động xa của chúng. Rất nhiều kiểu loại và số lượng các máy bay khác nhau được sửa đổi để tiến hành chiến tranh điện tử. Đầu tiên người ta sử dụng các máy bay dân sự, chẳng hạn như chiếc máy bay hai động cơ Il- 14 đi vào phục vụ năm 1954 với tư cách một loại máy bay chở khách và máy bay tuabin cánh quạt An-12 đi vào phục vụ với tư cách máy bay vận tải năm 1959. An-12 đã được sử dụng một thời gian tại Ai Cập để thu nhận thông tin về các hệ thống điện tử của Israel.

Ngoài ra, để tiến hành tác chiến điện tử, người ta cũng cải tạo một số loại máy bay tiêm kích-ném bom. Một trong những máy bay đầu tiên là MiG- 21, mang một container chứa các thiết bị điện tử treo dưới thân máy bay.

Một máy bay tiêm kích-ném bom khác được sử dụng để tiến hành chiến tranh điện tử là MiG-25. Đặc tính hiệu suất cao của máy bay là một bất ngờ khó chịu cho người Mỹ và Tây Âu, khi nó bắt đầu vượt qua các thử nghiệm bay vào giữa thập niên 60. Nó có thể bay ở độ cao lớn trong một thời gian ngắn với tốc độ 3,2 M (hơn 3 lần tốc độ âm thanh), mặc dù tốc độ cận âm trên mực nước biển, nó có trần bay 24.400 m và dường như tất cả các tham số đều trội hơn toàn bộ các loại máy bay tương tự của phương Tây. Phiên bản của nó làm nhiệm vụ trinh sát ảnh / giám sát điện tử ra đời năm 1971. Thiết bị chụp ảnh hoàn hảo của nó, camera hồng ngoại với đường quét khai triển theo dòng, radar quét cạnh và các trang thiết bị điện tử khác gây cho các cơ quan tình báo phương Tây rất nhiều sự tò mò và quan tâm.

MiG-25 thường xuyên thực hiện các chuyến bay trên bầu trời Trung Quốc và Trung Cận Đông. Trong cuộc chiến tranh Yom Kippur năm 1973, Israel đã cố gắng nhiều lần đánh chặn chúng bằng cách sử dụng các máy bay đánh chặn F-4 Phantom trang bị tên lửa tầm trung của AIM- 7 Sparrow, nhưng không thể đến đủ gần để có thể bắn rơi MiG-25. Hơn nữa, nỗ lực của các cơ quan tình báo phương Tây nhằm có được thông tin về loại máy bay này đều kết thúc không thành công vì các sân bay căn cứ của chúng là đối tượng an ninh chiến lược. Máy bay loại này là "điều cấm kỵ" ngay cả với bản thân người Nga, còn trong các tài liệu chính thức nó được gọi là "Sản phẩm 84".

Tuy nhiên, chính phi công Nga có tên Viktor Belenko lại là người thỏa mãn sự thèm muốn của tình báo phương Tây trong việc tìm hiểu nhiều hơn về chiếc máy bay này. Vào buổi sáng ngày 6 tháng 9 năm 1976, Belenko đã hạ cánh xuống sân bay Nhật Bản Hakodate chiếc máy bay MiG-25 của mình, trước đó cất cánh từ căn cứ không quân một Sakazovka, cách Vladivostok thuộc Siberia190 km về phía bắc. Đã có nhiều phi công Liên Xô trốn sang phương Tây trên máy bay của họ, nhưng chiếc máy bay mà trên đó Belenko bay đi trốn là một trường hợp rất đặc biệt! Các chuyên gia vội vàng từ Mỹ bay sang Hakodate, để nghiên cứu trang thiết bị của máy bay. Họ tháo dỡ radar của nó (tên NATO phân loại là Fay Bird, hoạt động ở tần số từ 12,88 và 13,2 GHz), RWR (tên phân loại của NATO Sirena III), thiết bị ECW và các panel cách điện phần mũi để hấp thụ bức xạ radar. Tất cả những thứ đó trở thành đối tượng của các nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng nhất.


MiG-25 RBT - phiên bản trinh sát điện tử (1979).

Vào cuối năm 1976, các thông tin về đặc tính của trang thiết bị trên MiG-25 đã được tất cả các BCH của khối NATO biết rõ, và máy bay Liên Xô đã không còn là mối de dọa với các phi công phương Tây nữa.

Tuy nhiên, việc so sánh MiG-25 với các máy bay tương tự của Mỹ và châu Âu đã chỉ ra rằng công nghệ của Nga trong lĩnh vực này, cả trong các thiết kế cơ bản lẫn thiết bị điện tử, còn kém nhiều so với phương Tây.

Loại máy bay mà đất nước Xô Viết thường xuyên sử dụng nhất cho công tác trinh sát điện tử là các máy bay ném bom nổi tiếng M-4 KB Myasishchev và Tupolev Tu-16. Loại sau, có các biến thể F và H theo phân loại của NATO, hiện vẫn đang được sử dụng để thu thập thông tin. Nó mang được một tải trọng rất ấn tượng các thiết bị điện tử và quang điện tử, như ta có thể đánh giá qua số lượng lớn các ăng-ten (khoảng một chục) được giấu sau các bầu che nhô từ mọi phía trên thân máy bay. Phiên bản mới nhất, Badger-H, còn mang thêm RWR Sirena III và thiết bị trinh sát điện tử thụ động (ESM), cũng được trang bị máy phát nhiễu cho hoạt động đối kháng điện tử, và do đó có thể được sử dụng để đảm bảo gây nhiễu cho các cuộc không kích của máy bay ném bom.

Một gương mặt thực thụ nữa trong cuộc chiến tranh điện tử giữa Nga và NATO là phiên bản máy bay ném bom hạng nặng Tu-95 dành cho trinh sát điện tử và trinh sát ven biển - Tu-95RT (NATO phân loại Bear-D). Máy bay này có bốn động cơ và phạm vi hoạt động không cần tiếp nhiên liệu là 13.500 km. Trong các cuộc khủng hoảng quốc tế, người ta thường thấy nó bay trên các "điểm nóng" của thế giới để theo dõi tình hình. Chính phủ Mỹ thường hay phàn nàn về sự hiện diện của nó trên vùng biển Caribbean. Rõ ràng chúng có mặt ở đó là để đánh chặn bức xạ điện từ các radar hải quân mới trên tàu chiến Mỹ, và đôi khi thậm chí nó còn chế áp các radar gần đó của Bộ Chỉ huy Không lực Mỹ.

HẾT CHƯƠNG 15​
..........
 

Mini Bus

Xe hơi
Biển số
OF-205225
Ngày cấp bằng
7/8/13
Số km
136
Động cơ
320,510 Mã lực
Kính cụ 1 ly, em ngồi hóng thôi.
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Chương 16. Việt Nam. Tác chiến điện tử bùng nổ


RF-4C trúng đạn TLPK có điều khiển trên bầu trời Hà Nội ngày 12 tháng 8 năm 1967

Ngày 24 tháng 7 năm 1965, trong thời gian một cuộc không kích miền Bắc Việt Nam, máy bay chiến đấu F-4 Phantom của Mỹ đã bị bắn hạ bởi tổ hợp tên lửa PK SA-75 do Liên Xô chế tạo. Đó không phải là tổn thất đầu tiên của máy bay Mỹ trên bầu trời Bắc Việt Nam, không phải lần đầu tiên máy bay Mỹ bị đạn TLPK có điều khiển bắn rơi, năm năm trước đó, chiếc U-2 do Francis Gary Powers lái đã bị tên lửa PK bắn rơi trên không phận nước Nga. Tuy nhiên, tổn thất chiếc F-4 trên mang tính chất rất quan trọng, nó đánh dấu sự xuất trận lần đầu của tên lửa Nga tại không gian chiến trường Đông Nam Á. Cùng với tên lửa, Liên Xô đã đưa đến hỗ trợ Bắc Việt Nam một đội ngũ các cố vấn giàu kinh nghiệm của mình.

Tổn thất F-4 cho thấy mối đe dọa nghiêm trọng từ tổ hợp TLPK S-75 Nga đối với Không quân Mỹ, cho đến thời điểm đó đang giành ưu thế hoàn toàn trên không trước miền Bắc Việt Nam. Cho đến lúc đó, hệ thống phòng không nhiều hạn chế của người Việt Nam đang chỉ có MiG- 17, MiG-21, pháo PK và radar-dẫn đường. Bây giờ, sau khi triển khai SAM, năng lực hệ thống PK VNDCCH đã tăng lên rất đáng kể.

Tính đến lúc này, tổn thất của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ là chấp nhận được, nhưng bây giờ tình hình đã hoàn toàn thay đổi. Máy bay Mỹ không còn được bảo vệ đầy đủ, và tổn thất bắt đầu tăng theo mỗi ngày. Bắt buộc phải tìm ra phương cách hiệu quả đối phó với hệ thống mới.

Tại Hoa Kỳ, để nghiên cứu vấn đề, người ta đã tổ chức các cuộc họp ở cấp cao nhất. Tất cả nhất trí đi đến ý kiến chung, rằng cách duy nhất đối phó với mối đe dọa mới là phát triển các hệ thống chiến tranh điện tử dặt trên máy bay để vô hiệu hóa radar dẫn đường tên lửa SAM. Nhiệm vụ phát triển các hệ thống như vậy được giao cho các công ty hàng đầu của Mỹ, chuyên nghiên cứu ứng dụng trong lĩnh vực này. Vì tổn thất máy bay trên bầu trời Bắc Việt Nam tiếp tục phát triển, nhiệm vụ này được xếp mức ưu tiên cao nhất.

Đồng thời, những nỗ lực rất lớn được tập trung vào việc thực hiện thu thập thông tin kỹ thuật và thông tin khai thác hoạt động của S-75, trên cơ sở đó sẽ tìm thấy liều thuốc giải độc chấp nhận được.

Thành phần cơ bản của tổ hợp S-75 Liên Xô là tên lửa có điều khiển và radar dẫn bắn FanSong. Từ buổi xuất hiện khởi đầu của hệ thống SAM này năm 1958, nó liên tục được hiện đại hóa, đặc biệt là radar dẫn bắn của nó. Năm 1965, trong thành phần tổ hợp S-75 có 6 bệ phóng đạn TL có điều khiển và một radar có khả năng đồng thời dẫn bắn ba đạn tên lửa. Toàn bộ hệ thống được kéo bởi các xe đầu kéo và có thể được triển khai trong 6 giờ.



Tên lửa có tầm diệt mục tiêu 23 km, tốc độ 3,5 M và một đầu đạn nặng khoảng 80 kg. Nó có tập lệnh dẫn đường - đó là một hệ thống mà trong đó các thông tin cần thiết để dẫn đường tên lửa truyền đến từ nguồn bên ngoài, trong trường hợp này là từ radar. Trong tổ hợp TLPK S-75 dữ liệu chỉ thị mục tiêu được radar hỏa lực đảm bảo, radar đó khóa mục tiêu và bám sát quả đạn, nó làm việc ở dải tần số 2.94 đến 3.06 GHz, truyền tin cho đạn TLPK có điều khiển nhờ máy phát lệnh điều khiển băng UKV. Radar điều khiển hỏa lực cũng có chế độ bám sát trên đường bay, sử dụng hai chùm tia định hướng hình rẻ quạt, và di chuyển lên-xuống tương tự như các cánh chim. Các chùm tia này phát ra từ hai ăng-ten định hướng đặt vuông góc với nhau và quét bầu trời từ cao độ mặt đất đến độ cao rất lớn, từ phải sang trái theo vòng cung có chiều rộng mỗi cung 10 độ. Hệ thống này cho phép theo dõi đồng thời trong khu vực 3-4 km chiều rộng và 3 km chiều sâu tính từ mục tiêu. Tổ hợp TLPK cũng có một ăng-ten phẳng để truyền tín hiệu điều khiển tới thân đạn TLPK có điều khiển.

Trong khi ngành công nghiệp Mỹ đang phát triển các hệ thống ECW thích hợp, cách duy nhất để sống sót với các phi công máy bay tiêm kích-ném bom là cố gắng thực hiện thao tác cơ động gấp để né tránh các quả đạn tên lửa phóng lên hướng về phía họ!

Thông tin SIGINT thu thập được phát lộ một số điểm yếu của S-75, có thể lợi dụng. Ví dụ, đạn SAM cần đến 6 giây sau khi phóng để radar bám sát khóa được nó và sau đó dẫn đường đưa nó gặp mục tiêu. Một hạn chế khác của SAM là nó tiếp nhận không tốt các lệnh điều khiển vô tuyến phát lên từ mặt đất và xử lý nó khá chậm.

Sử dụng các điểm yếu của S-75, các phi công Mỹ bắt đầu thực hiện các động tác cơ động mạnh mẽ, và nó ngay lập tức mang lại kết quả. Các động tác cơ động này gồm bổ nhào về phía khẩu đội SAM ngay lập tức sau khi phi công nhìn thấy quả tên lửa phóng lên. Sau giai đoạn bay ban đầu, gần như phóng thẳng đứng, đạn tên lửa thay đổi hướng bay xuống dưới - nhằm mục tiêu. Tại thời điểm này, phi công Mỹ đột ngột vít cần lái về phía mình sao cho máy bay có thể kéo cao theo phương thẳng đứng càng dốc càng tốt, bay vào bên trong quỹ đạo tên lửa. Do đạn tên lửa không có khả năng thực hiện cơ động gấp đủ để "khóa" mục tiêu, máy bay Mỹ thường trốn thoát thành công. Tuy nhiên, chiến thuật tránh đạn này không phải luôn làm việc tốt, bởi vì đôi khi những đám mây bao phủ sẽ ngăn phi công quan sát được đạn tên lửa.


Một chiếc F-105 cơ động tránh TLPK Bắc Việt Nam

Đến cuối năm 1965, người Mỹ đã bị sa lầy nhiều hơn ở Việt Nam, họ mất khoảng 160 máy bay, hầu hết trong số đó đã bị SAM S-75 bắn rơi.

Cuộc chiến tranh trên mặt đất tại Việt Nam đối với người Mỹ cũng rất khó khăn, vì nó hoàn toàn không phù hợp với các quy tắc được chấp nhận rộng rãi, và là một cuộc chiến tranh du kích, các nguyên tắc của nó được nhà lãnh đạo Trung Quốc, Mao Trạch Đông, giải thích rõ ràng :
• Khi địch tiến, ta lùi.
• Khi địch dừng, ta quấy rối.
• Khi địch tránh giao chiến, ta sẽ tấn công.
• Khi địch chạy, ta truy kích.

Việt Nam là nơi lý tưởng cho loại hình tác chiến tương tự và người Mỹ, những người vì nhiều lý do không thể sử dụng vũ khí hạt nhân của họ, lâm vào một tình thế rất khó khăn. Tại đó chưa có sư đoàn và trung đoàn nào chiến đấu trong trận chiến công khai như trước đây, và sự có mặt của một quân đội vô hình, có khả năng lẩn trốn trong đám dân thường, ở các ngôi nhà, trên các cánh đồng, và chủ yếu ở các khu rừng rậm vô tận.

Không tìm ra các mục tiêu quân sự và công nghiệp xứng đáng, người Mỹ bắt đầu thực hiện những cuộc không kích xuống các tuyến đường hậu cần của đối phương - phổ biến nhất là đường mòn Hồ Chí Minh nổi tiếng, một con đường bí mật trong rừng và trên các rặng núi phía Đông nước Lào, được sử dụng để chuyển hàng từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam.

Việt Cộng đã đào nhiều đường hầm, đặc biệt là xung quanh các thành phố, tạo ra một mạng lưới hầm trú ẩn đầy đủ tiện nghi. Nhiều đường hầm trong số đó được gia cố bằng kết cấu bê tông cốt thép, các trung tâm sơ cứu ban đầu, các kho tàng, các sở chỉ huy, v.v; thậm chí chúng có cả hệ thống điện, nước, thông gió tự nhiên thông qua các lỗ chuột đào thỏ moi. Lối vào và lối ra các đường hầm được ngụy trang tốt, và sau các cuộc tấn công du kích, Việt Cộng đã biến mất vào trong hệ thống đường hầm đó như những chú thỏ.

Đường hầm có các điểm quan sát và các vọng gác để theo dõi những gì đang xảy ra bên ngoài. Khi người Mỹ thực hiện không kích ở độ cao thấp, Việt Cộng chuẩn bị sẵn lực lượng của mình, và ngay khi một hoặc một số máy bay vòng ngoặt ra sau khi vào công kích xong, họ nhảy lên và bắn vào những chiếc máy bay đang bay đi, và thường là bắn hạ được chúng.

Trong các giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh, để lùa Việt Cộng ra khỏi hang, người Mỹ sử dụng hơi cay, và có thể, các loại khí độc khác nguy hiểm hơn, nhưng khi những tin tức này lọt về Hoa Kỳ và các nước khác trên thế giới, một làn sóng phản đối dâng lên buộc họ phải ngừng việc đó lại.

Sau đó, người Mỹ chuyển sang các phương pháp phát hiện Việt Cộng khác. Một trong những phương pháp đó là sử dụng những con côn trùng thông thường "cảm được" máu người, tức là thứ hấp dẫn chúng. Để nhận và truyền "bức xạ", mà các loài côn trùng phát ra khi cảm thấy sự hiện diện của con người, các thiết bị điện tử đã được sử dụng; sau đó các tín hiệu được khuếch đại đến một mức độ sao cho người ta nghe thấy chúng trong tai nghe của các hiệu thính viên. Một công cụ khác được sử dụng để phát hiện VC, là thiết bị cảm được nhịp tim và các âm thanh sinh lý khác tạo ra bởi các cơ quan nội tạng trong cơ thể con người; sau đó chúng được truyền trực tiếp lên khoang máy bay.


Đường mòn Hồ Chí Minh, ảnh chụp từ máy bay C-130.

Người Mỹ cũng phát triển thiết bị điện tử có khả năng phát hiện chấn động địa chấn gây ra bởi đoàn quân hoặc đoàn xe máy di chuyển. Các thiết bị này được thả từ máy bay xuống, còn ăng-ten của chúng, dài khoảng một mét, được ngụy trang hòa vào thảm thực vật xung quanh.

Một loại cảm biến địa chấn khác, dụng cụ gọi là "phản xâm nhập", do các phân đội nhỏ sử dụng khi tuần tra bộ, để cảnh báo một cuộc phục kích chuẩn bị trước. Thiết bị này bao gồm các địa chấn kích thước nhỏ và thiết bị thu nhận tín hiệu của chúng. Các phân đội tự cài đặt và gỡ bỏ các thiết bị đó. Nếu có ai đã thâm nhập vào khu vực, chỉ một rung động nhỏ nhất của đất, gây ra bởi các bước chân sẽ bị phát hiện, do đó cảnh báo người Mỹ về sự hiện diện của kẻ thù.

Để phát hiện sự hiện diện của quân du kích Việt Cộng trong đêm hoặc trong rừng rậm, người Mỹ sử dụng tất cả các phương tiện kỹ thuật và khoa học có sẵn của họ. Trong số đó có : công cụ có khả năng phát hiện bức xạ điện từ của hệ thống đánh lửa động cơ, do đó chỉ ra sự hiện diện của đoàn xe có động cơ; cũng như các cảm biến từ tính phát hiện sự thay đổi trong từ trường gây ra bởi sự hiện diện của các khối kim loại lớn và có khả năng cảnh báo sự hiện diện của vũ khí hoặc xe máy.

Một phương pháp khéo léo khác là thực hiện phân tích hóa học không khí để xác định thành phần cấu tạo của nó trên cơ sở con người tiêu thụ oxy và thở ra khí carbon dioxide và nitrogen. Nếu tại một địa điểm nào đó có một số lượng lớn VC, trong không khí lượng oxy giảm một chút và các nguyên tố khác sẽ tăng hơn một chút.

Nhưng có lẽ các thiết bị kỳ dị nhất để phát hiện du kích Việt Cộng là thiết bị phát ra sóng điện từ khi bị chạm vào hoặc đi ngang qua chúng sẽ lui lại. Bức xạ của chúng được thu nhận bởi các máy đáp vô tuyến nhỏ bố trí một cách thích hợp, chúng khuếch đại và tái phát ra sóng âm thanh. Các tín hiệu đã khuếch đại được máy tính thu nhận, máy tính xử lý các số liệu đó rồi chuyển cho BCH.

Do đặc điểm tần số hoạt động của các thiết bị này, hầu như lúc nào cũng cần cài đặt các trạm chuyển tiếp để chuyển tiếp tín hiệu của chúng về trung tâm xử lý. Thông thường, để làm các trạm chuyển tiếp, người ta sử dụng các máy bay được trang bị đặc biệt. Máy bay đầu tiên thực hiện nhiệm vụ này là Lockheed EC- 121R Super Constellation - một máy bay vận tải lớn trên khoang lắp đặt tất cả các thiết bị cần thiết để xử lý dữ liệu của các thiết bị gián điệp nhỏ thả rải rác khắp các khu rừng rậm. Máy bay bay ở độ cao lớn, quần vòng các khu vực rộng lớn, và trên cơ sở các dữ liệu nhận được, có thể gọi máy bay chiến đấu tới mục tiêu.


EC-121R tại căn cứ KQ Mỹ ở bang Arizona

Tuy nhiên, EC- 121R Super Constellation quá tốn kém và không được trang bị vũ khí, là con mồi ngon cho các máy bay MiG của đối phương. Vì vậy, chúng được thay thế bằng các biến thể máy bay một động cơ trang bị một cách thích hợp thuộc hàng không thông dụng (General aviation, авиации общего назначения). Theo mức độ kéo dài của cuộc chiến, người ta bắt đầu sử dụng các " máy bay-mini" - UAV. Ngoài ra, các UAV còn thực hiện trinh sát và các hoạt động ELINT.

Thông thường, các cuộc ném bom chiến thuật của lực lượng máy bay xung kích Mỹ chống lại sự xâm nhập của Việt Cộng qua rừng rậm nhiệt đới, được đi trước bởi hoạt động của các máy bay đặc biệt, trang bị các bình chứa hóa chất làm rụng lá cây được rải xuống thảm thực vật. Những hành động này tạo thuận lợi cho công việc của các phi công máy bay tấn công, nhưng hầu như việc tiêu diệt thảm thực vật và động vật này là không thể sửa chữa được.

Xử lý dữ liệu thu được từ các loại cảm biến đóng một vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh chiến thuật và chiến tranh chiến lược tại Việt Nam. Trường đoạn tiếp theo, đã được đề cập trong báo cáo của BCH Mỹ, cung cấp sự hiểu biết về việc sử dụng chiến thuật của công đoạn xử lý như vậy.
.........
 
Chỉnh sửa cuối:

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Trong khu vực nằm ngay phía nam ranh giới giữa Nam và Bắc Việt Nam, một hệ thống cảm biến đã phát hiện sự có mặt của các đơn vị đối phương xâm nhập vùng này, hướng về khu vực rừng núi được các nhà quân sự gọi là "điểm cao 881". Thông tin về sự di chuyển của các đơn vị đó, cùng với hiểu biết về chiến thuật du kích, cho phép bộ chỉ huy Mỹ trong khu vực xác định tuyến hành trình của họ. Kết quả là, khi đối thủ đang chiếm lĩnh các vị trí xuất phát để tấn công, họ đã bị chìm trong một trận pháo kích dữ dội của người Mỹ, vừa được cấp tốc triển khai trên các trận địa tương ứng.

Tuy nhiên, đóng góp quan trọng nhất của các trung tâm xử lý số liệu là cuộc đối đầu chiến lược, chủ yếu là phương pháp tiến hành các chiến dịch cách ly để ngăn chặn dòng nhân lực và vật lực cung cấp qua Đường Mòn Hồ Chí Minh - động mạch có tầm quan trọng sống còn của Việt Cộng. Trái ngược với ý nghĩa của từ "đường mòn", nó không phải là một con đường mà là một mạng lưới đường đi qua biên giới Việt Nam-Lào trong một dải 100 km. Có hai đường mòn chính chiều dài gần 500 km mỗi tuyến, đi từ Bắc vào Nam và giao nhau 90 độ bởi các đường nối, cho phép chúng có thể sử dụng rất linh hoạt.

Để tránh mật độ tập trung xe máy kỹ thuật quá cao, có thể thu hút sự chú ý của máy bay Mỹ, đã phá hủy nhiều cây cầu, nút giao thông và các kho hậu cần, người Bắc Việt Nam quyết định chia các con đường theo cung đoạn, mỗi cung đoạn có một bộ chỉ huy binh trạm chịu trách nhiệm. Mỗi BCH binh trạm có xe và người lái riêng, những người biết rõ từng cm cung đoạn của mình và vì thế họ có thể nhanh chóng tránh xa tuyến đường khi có dấu hiệu nguy hiểm dù nhỏ nhất. Tuy nhiên, một bất lợi của hệ thống này là các xe phải giao hàng trung gian ở cuối mỗi cung đường, mà hàng thì được che giấu rất kỹ cho đến khi chúng được bốc sang xe của binh trạm khác. Đương nhiên, các hoạt động này luôn được thực hiện vào ban đêm. Để thực hiện công tác vận chuyển như vậy người ta đã xây dụng một cơ sở hạ tầng cần thiết, bao gồm cả các trạm nghỉ và điểm chuyển tải, mỗi trạm trung chuyển được các tổ hợp TLPK và PPK bảo vệ.

Những nỗ lực đầu tiên để cắt đường tiếp máu sống còn kết nối với miền Bắc Việt Nam này bằng cách ném bom "rải thảm" toàn bộ những con đường mòn tỏ ra không mấy hiệu quả. Vì vậy, người Mỹ quay sang chiến thuật "ném bom chọn lọc", mà điêu cần thiết đầu tiên là xác định tọa độ mục tiêu và nhận dạng nó. Điều đó được thực hiện ngay ở giai đoạn này của cuộc chiến, khi người Mỹ bắt đầu sử dụng mạnh mẽ các thiết bị phát hiện khác nhau như mô tả ở trên. Sau khi phát hiện đoàn xe di chuyển dọc theo đường mòn và xác định vị trí của nó, đoàn xe sẽ bị giám sát chặt chẽ, và người Mỹ tính toán thời gian đoàn xe có mặt tại điểm tấn công định trước. Dọc theo tuyến đường họ tạo ra một số điểm kiểm soát bằng các loại cảm biến : điện, từ, hồng ngoại, v.v. Bất cứ nơi nào có thể, các bộ cảm biến sẽ được các chuyên gia lắp đặt; trong các trường hợp khác chúng được máy bay thả xuống và được cố định xuống đất bằng các thanh kim loại.

Thông tin thu thập bởi các hệ thống Igloo White, truyền về trung tâm giám sát để xử lý trên máy tính bằng phần mềm đặc biệt và chỉnh lý lại trong mối tương quan với dữ liệu từ các nguồn khác - những kẻ đào ngũ và các điệp viên. Bằng cách này, việc dự đoán sự di chuyển của đoàn xe đã trở thành có thể, ước tính được tốc độ gần đúng, số lượng và kiểu loại xe trong thành phần. Nếu tại điểm nhất định, tốc độ đoàn xe tính toán quá khác với mức trung bình, có thể kết luận rằng ở nơi này có một điểm trung chuyển và nghỉ ngơi. Để xác định chính xác hơn tọa độ của nó, có thể thả cảm biến bổ sung, thường là loại âm thanh hoặc hồng ngoại, có khả năng phát hiện năng lượng hồng ngoại phát ra từ xe máy và các cơ thể con người của đối phương (xem thêm chương 18).


Chuẩn bị thả "cây nhiệt đới" xuống Đường mòn Hồ Chí Minh trong Trận Khe Sanh, năm 1967.

Một khi vị trí được xác lập, trung tâm giám sát sẽ truyền thông tin đã xử lý, hoặc trực tiếp hoặc thông qua máy bay-tiếp sức vô tuyến tới các máy bay tấn công. Thông tin này được đưa vào máy tính số trên máy bay (БЦВМ - Бортовая Цифровая Вычислительная Машина) để tính toán định vị dẫn đường cho các phi công bay tiếp đi tấn công đoàn xe.

Năm 1966, chiến tranh Việt Nam bắt đầu phát triển và ngoài các mục tiêu dọc theo "Đường mòn Hồ Chí Minh", người Mỹ bắt đầu tấn công các mục tiêu khác. Thông thường, các mục tiêu mới nằm khá xa về phía bắc, đôi khi chỉ cách thủ đô Hà Nội của Việt Nam DCCH 10 km. Vì khoảng cách mà máy bay Mỹ phải bay qua tăng lên, và tải trọng có ích mà chúng có khả năng mang, phải giảm xuống, các máy bay ném bom chiến lược B-52 bắt đầu được sử dụng vì mang được tải trọng bom lớn. Chúng được trang bị thiết bị điện tử rất hoàn hảo, và bay cao đến mưc Việt Cộng thậm chí không nghe thấy âm thanh các chuyến bay của chúng. Kết quả là, các vụ ném bom sẽ làm Việt Cộng kinh ngạc và gây ra sự phá hủy đáng kể các tuyến đường giao thông của họ.

Năm 1966 là năm khởi đầu những trận chiến dữ dội trên bầu trời Bắc Việt Nam giữa các máy bay MiG và F-4, giống như sự kiện xảy ra vào ngày 23 Tháng Tư giữa 16 máy bay MiG (14 MiG-17 và 2 MiG-21) và 14 chiếc F-4. Các máy bay chiến đấu F-4, trang bị tên lửa AIM-7 Sparrow có đầu tự dẫn radar thụ động, AIM- 9 Sidewinder có đầu tự dẫn hồng ngoại và các container treo dưới cánh lắp các khẩu pháo 20-mm, chúng nhanh hơn và điều quan trọng hơn là có khả năng cơ động tốt hơn so với MiG-21, chưa nói đến những chiếc MiG-17 lỗi thời. Nhưng kẻ thù khủng khiếp nhất của F-4 không phải ai trong số đó. Thực sự nguy hiểm chính là tổ hợp TLPK S-75.

Đầu năm 1966 ngành công nghiệp điện tử Mỹ đã xuất xưởng hệ thống thiết bị EW trang bị trên máy bay có khả năng phát hiện bức xạ xung của radar dẫn bắn và kịp thời cảnh báo các phi công rằng máy bay của mình đang bị nó bám sát, và trong vòng 4 giây, đạn TLPK có điều khiển có thể phóng lên nhằm vào nó. Thiết bị RWR được chế tạo dựa trên "phương pháp cảm biến" phát hiện tín hiệu và điều chỉnh vào băng tần số của radar đối phương. Ngay khi RWR phát hiện bức xạ của radar S-75, phi công nhận được cảnh báo ngay lập tức.

Đầu tiên, RWR được trang bị cho các phiên bản máy bay ném bom B-66. Trong thời gian các cuộc không kích, các máy bay B-66 trang bị RWR bay phía trước các nhóm công kích, cảnh báo nhóm đó khi phát hiện bức xạ radar, đồng thời đảm bảo cho nhóm công kích đủ thời gian cơ động chống PK thích hợp. Sự tiến bộ tiếp theo trong thiết bị điện tử dẫn đến việc chế tạo các bộ RWR kích thước nhỏ hơn, có thể gắn trực tiếp trên các máy bay tấn công, mặc dù việc cài đặt vẫn còn khó khăn do không gian bên trong các máy bay này còn hạn chế.

Khi ăng-ten RWR nhận được bức xạ điện từ của radar, máy thu của hệ thống ngay lập tức gửi tín hiệu đến máy tính, máy tính sẽ so sánh các đặc điểm chính của nó với các thông số lưu trữ thu được trong thời gian bay các phi vụ do thám. Nếu những đặc tính của tín hiệu thu được phù hợp với tín hiệu S-75, máy thu sẽ được điều chỉnh đến tín hiệu đó và đèn cảnh báo màu đỏ trên bảng điều khiển lóe sáng và các phi công nghe thấy trong tai nghe mũ bay tín hiệu âm thanh tương ứng với tần số lặp của xung thăm dò của radar. Khi radar dẫn bắn chuyển từ chế độ "sục sạo" sang chế độ "bám sát", tín hiệu âm thanh đột nhiên thay đổi và tăng lên bằng cách tăng tần số xung lặp. Đồng thời, RWR sẽ chỉ thị góc phần tư hướng đến của tín hiệu và do đó chính là hướng tới của quả đạn tên lửa.

Các phi công Mỹ, nghe các âm thanh mà họ có trong tai nghe của họ, gọi chúng là "bài hát của SAM" ("SAM song"). Sau khi nghe thấy nó, họ biết rằng đạn tên lửa đang bay tới máy bay và ngay lập tức phải thực hiện cơ động tránh đạn PK.

Trong một khoảng thời gian sau khi trang bị RWR mới, tổn thất của Không quân Hoa Kỳ tại Việt Nam giảm xuống. Tuy nhiên, một khi nước Nga chuyển đến các phiên bản hiện đại hóa S-75, tình hình một lần nữa trở nên không hay cho người Mỹ. Sự hiện diện trên máy bay thiết bị RWR không còn đáp ứng được phi công Mỹ, thiết bị cho phép họ vào giây phút cuối cùng thoát ra nhờ động tác cơ động tránh đạn PK - một thao tác cơ động ngày càng trở nên nguy hiểm hơn, vì VC sau khi phân tích chiến thuật, thường đưa người Mỹ vào khu vực hoạt động của khẩu đội TLPK khác, họ ngay lập tức phóng đạn của mình (bẫy tên lửa).

Một vài tháng sau, từ Hoa Kỳ bắt đầu chuyển đến các tên lửa có khả năng phá hủy toàn bộ một khẩu đội S-75, mà trong khi đó các phi công không phải chịu mối nguy hiểm lớn. Đó là tên lửa chống radar AGM-45 Shrike, nhờ thiết bị điện tử được đặt trong phần mũi, có thể bám theo chùm tia phát ra từ radar đối phương mà bắn trúng và tiêu diệt nó.


F-105G Wild Weasels và các F-4E đang tiếp dầu.

Chiến thuật mới của Mỹ đã tiêu diệt các khẩu đội S-75 nhờ sử dụng Shrike, nằm trong phi vụ của tốp 2 - 4 máy bay hai chỗ ngồi, thường là F- 105 Thunderchief và F-4 Phantom. Trên khoang mỗi máy bay có phi công EW, nhiệm vụ anh ta là phát hiện và xác định vị trí trận địa S-75 bằng cách sử dụng bộ RWR, xác lập hướng tới của bức xạ radar, dẫn đường phi công theo hướng đó cho đến khi máy bay vào vùng phóng Shrike. Tại thời điểm này, S- 75 không còn cơ hội, vì bức xạ radar của nó thu hút một cách không cưỡng nổi quả tên lửa chống radar, sau đó sẽ phá hủy nó.

Nhiệm vụ này được gọi là Wild Weasel và đạt được những thành công khá lớn. Kết quả việc ứng dụng có hiệu quả Shrike và RWR dẫn đến tỷ lệ thiệt hại của máy bay Mỹ bị bắn hạ bởi tên lửa SAM của Việt Cộng giảm đi đáng kể. Năm 1966, S-75 chỉ bắn rơi được 40 máy bay Mỹ cùng với một số lượng rất lớn các khẩu đội S-75 bị tiêu diệt, mặc dù các khẩu đội S-75 đã được tăng cường đáng kể. Theo thống kê của Mỹ, trong năm 1965, một chiếc máy bay bị bắn hạ tiêu tốn 10 đạn tên lửa, trong khi năm 1966 con số này tăng lên đến 70 (xem biểu đồ trang 163).

Trong năm 1967 và 1968, trên các máy bay tiêm kích-ném bom Mỹ đã bắt đầu lắp đặt các thiết bị phòng thủ nhỏ gọn hơn. Vấn đề chính của việc trang bị cho máy bay là thiếu không gian bên trong thân máy bay. Vấn đề đã được giải quyết bằng cách lắp đặt chúng trên các giá treo bên ngoài, trong các thùng chứa bằng kim loại treo dưới cánh hoặc thân máy bay.

Loại đầu tiên của một thiết bị như vậy được gắn theo cách trên, là một máy phát nhiễu thông thường. Trên các máy bay sau đó đã trang bị các máy phát cải tiến hơn; chúng có thể đánh giá mức độ của mối đe dọa thuộc các loại radar khác nhau, xác lập sự ưu tiên, và gây nhiễu phù hợp với mối đe dọa đó. Ngoài ra, trong các thùng chứa với các khả năng đánh giá tương tự, đã lắp đặt các máy rải tự động PRLO.

Các máy bay B-52 khổng lồ cũng sử dụng các khả năng của những phương tiện đối kháng điện tử mới, mặc dù không trực tiếp , vì chúng luôn luôn được hộ tống bởi các máy bay Wild Weasel, trong các cuộc không kích của chúng trên miền Bắc Việt Nam.
........
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
(tiếp)

Tuy nhiên, sự thống trị của Mỹ trong không trung, không biến thành sự thống trị trên mặt đất. Việt Cộng kiểm soát ngày càng nhiều và nhiều hơn nữa lãnh thổ miền Nam Việt Nam và các cố gắng làm suy yếu sự hỗ trợ Việt Cộng nhờ các phương pháp chiến tranh thông tin đã không thành công. Cuộc "chiến tranh tâm lý" này bao gồm ciệc thả hàng ngàn tờ rơi tuyên truyền; tới các ấp, các làng trò chuyện với người dân; sử dụng các thiết bị đặc biệt phát ra tiếng ồn khủng khiếp với hy vọng Việt Cộng sẽ nghĩ rằng đó là ma quỷ của núi rừng; đặt loa trên máy bay bay thấp trên đầu các thôn làng; kích động đầu hàng; sử dụng kẻ đào ngũ Việt Nam trong nỗ lực thuyết phục các đồng chí mình đào ngũ và trở về gia đình của họ.

Tuy nhiên, những hình thức chiến tranh tâm lý không đạt nhiều thành công. Việt Cộng, với những thành công lớn, thường xuyên nã súng cối xuống các căn cứ không quân Mỹ và phá hủy nhiều máy bay cánh cố định và trực thăng.

Năm 1967, khi cố gắng để ép Việt Cộng ra khỏi miền Nam Việt Nam, nơi họ ngày càng có ảnh hưởng lớn hơn, người Mỹ quyết định bắt đầu ném bom Hà Nội - thủ đô của miền Bắc Việt Nam, và Hải Phòng - cảng lớn nhất VNDCCH. Các căn cứ không quân, nơi bố trí MiG- 17 và MiG-21, cũng trở thành mục tiêu của những cuộc không kích, nhưng chính phủ VNDCCH nhanh chóng đưa những chiếc máy bay này tái triển khai ở các sân bay tại Trung Quốc, nơi từ đó họ có thể hoạt động tự do mà không sợ bị tấn công. Ngay sau đó, Bắc Việt Nam tăng cường hệ thống phòng không của mình bằng các vũ khí và trang thiết bị được Nga và Trung Quốc cung cấp. Hệ thống bao gồm tổ hợp TLPK S-75, pháo PK và các máy bay tiêm kích, hoạt động của chúng được điều phối bởii một SCH thống nhất.

Nhìn thấy sự thành công của các đòn tấn công Wild Weasel Mỹ vào S-75, Bắc Việt tăng số lượng pháo PK trang bị radar dẫn bắn, cho đến khi đạt 10.000 đơn vị. Nguyên nhân phần lớn các tổn thất máy bay vào năm 1967, thực sự có thể giải thích được bởi hỏa lực PPK trong thời gian các vụ ném bom cầu, căn cứ quân sự và các xí nghiệp từ các độ cao thấp.

Các trận địa S-75, chủ yếu tập trung xung quanh Hà Nội để bảo vệ nó chống các máy bay B-52 bay cao: đến lúc ấy còn lại 30 khẩu đội S-75 sẵn sàng chiến đấu. Nhìn chung, hệ thống phòng không Bắc Việt Nam rất toàn diện và được tổ chức tốt, bao phủ gần như toàn bộ lãnh thổ đất nước và hoạt động hiệu quả chưa từng có.



Cuộc đấu tranh khốc liệt giữa các máy bay Mỹ và hệ thống phòng không tạm dừng một lần rồi một lần nữa, khi Mỹ ngừng các cuộc không kích với hy vọng giải quyết cuộc xung đột bằng phương tiện chính trị, cho phép họ ra khỏi cuộc chiến bẩn thỉu, đang ngày càng trở nên bị chán ghét hơn bao giờ trên đất Mỹ.

Tuy nhiên, cuộc chiến vẫn tiếp tục, và các máy bay F-4 Phantom và A-4 Skyhawk từ các tàu sân bay USS "Kitty Hawk" và "Ticonderoga" vẫn liên tiếp bị ném vào các trận đánh trên bầu trời miền Bắc Việt Nam. Thông thường, những chiếc máy bay này được hộ tống bởi các máy bay ECW : EA-1A (AD- 5Q) "Queer SPAD" ( Skyrader ) và EA-3A (A3D - 1Q) Skywarrior, được trang bị các khí tài EW tiên tiến nhất, tạo rất nhiều thuận lợi cho việc đột phá hệ thống phòng không của đối phương.

Vì sự tàn phá gây ra bởi các cuộc tấn công sân bay Mỹ bằng súng côi ban đêm của Việt Cộng ở miền Nam Việt Nam tăng lên, máy bay Hải quân Mỹ bắt đầu phản ứng trả đũa. Trong vịnh Bắc Bộ tập trung 25 tàu hải quân Mỹ thuộc Hạm đội 7, bốn trong số đó là các tàu sân bay và mang theo trên tàu tổng cộng 600 máy bay tấn công / máy bay cường kích hiện đại nhất.

Tuy nhiên người ta nhanh chóng thấy rõ rằng, tác động của việc hộ tống bằng các máy bay EW, thường bay chậm hơn các máy bay tấn công, là không đáng kể và không tiếp tục làm giảm tổn thất. Để đạt điều đó, cần cải thiện hệ thống điện tử của chính máy bay tấn công.

Do đó, các thiết bị RWR được cải thiện, vì các phi công máy bay tấn công cần trong hệ thống một sự cảnh báo có khả năng đánh giá chính xác và ngay lập tức xác định bản chất mối đe dọa nằm sau bức xạ radar bị đánh chặn. Bất cứ nơi nào mà phi công không chọc thủng được không phận, anh ta biết rằng sớm hay muộn nó sẽ được "chiếu xạ" bởi radar điều khiển hỏa lực; trong tình huống căng thẳng của cuộc tấn công của máy bay trên tàu sân bay, nhiệm vụ diễn giải chỉ thị cảnh báo và các tín hiệu âm thanh không quen thuộc của thiết bị EW, cần phải thật nhanh và thật đơn giản. Thiết bị cũng cần phải đạt độ tin cậy tối đa, vì việc nó không làm việc trong tình huống chiến đấu sẽ có nghĩa là sự tổn thất của máy bay.

Vì vậy, người Mỹ bắt đầu sản xuất một thế hệ mới khí tài chiến tranh điện tử, trội hơn nhiều so với thế hệ trước. Đặc biệt, một loạt các thiết bị làm nhiễu lắp trên máy bay có công suất mạnh hơn nhiều, có khả năng chế áp hoàn toàn tất cả các loại radar, cũng như các máy thu đánh chặn tín hiệu đã được cải tiến. Các máy thu phân tích đổi tần được sử dụng kết hợp với các hệ thống tự động hóa tương quan thời gian / mối đe dọa trực quan, trên thực tế, đã tỏ ra rất hiệu quả.

Trong vài năm tiếp theo, đã có thay đổi bộ chỉ huy và chiến lược của Mỹ, nhưng tần suất và cường độ của các cuộc tấn công đêm và phục kích của Việt Cộng vẫn tăng lên. Các cuộc không kích của B-52 xuống Hà Nội và Hải Phòng trở nên thường xuyên hơn và dữ dội hơn, nhưng một lần nữa cũng thường bị đình chỉ.

Người Nga cung cấp cho Bắc Việt các khẩu đội S-75 mới, đặc điểm của chúng là radar mới FanSong (ít nhất có đến 7 phiên bản hệ SAM này). Các khác biệt chính giữa phiên bản thứ hai và phiên bản gốc là radar làm việc tại tần số cao hơn - 4,91-4,99 GHz và 5,01-5,09 GHz thay vì 2,965-2,99 và 3,025-3,06 GHz.

Người Nga cũng giới thiệu một loại phản-ECW mới, sử dụng kỹ thuật quét mới rất độc đáo và hiệu quả, trong đó chùm "không quét" được sử dụng để chiếu xạ mục tiêu, còn tín hiệu phản xạ được thu nhận bởi ăng-ten quét không bức xạ năng lượng. Phương pháp thông minh này được gọi là "Cánh sóng chỉ thu" (LORO), được chứng minh là rất hiệu quả và cho thấy người Nga đạt được tiến bộ như thế nào trong lĩnh vực ECM. Và một lần nữa, cuộc sống của các phi công Mỹ trở nên khó khăn. Trong khi đó, những cuộc không kích B-52 xuống Hà Nội và Hải Phòng ngày càng mạnh mẽ hơn.

Ngoài ra, Bắc Việt áp dụng phát minh của mình - rất đơn giản nhưng hiệu quả "cái bẫy" điện tử cho máy bay ném bom B-52. Những máy bay Mỹ này đóng căn cứ trên đảo Guam, ở giữa Thái Bình Dương, có rất ít cơ hội thay đổi tuyến đường bay đến Hà Nội hoặc Hải Phòng, do đó, khi biết đường bay của chúng, người Bắc Việt Nam đặt dọc theo nó các máy phát đơn giản mô phỏng sự hiện diện của radar FanSong. Chúng được bật khi máy bay Mỹ đến gần, buộc người Mỹ phải phóng tên lửa chống radar. Sự đánh lừa này làm việc rất hoàn hảo, và thường xuyên, người Mỹ tiêu tốn chống lại mồi nhử toàn bộ cơ số tên lửa chống radar, làm cho bản thân họ trở nên dễ tổn thương trước đối phương và trên các tuyến đường bay trở về trước các cuộc tấn công của S-75.

Người Mỹ ngay lập tức nhận ra những thiếu sót của thiết bị ECW trên B-52, đặc biệt là thiết bị gây nhiễu của nó, không thích hợp với chuyến bay ở độ cao cao lớn như vậy. Họ bắt đầu thay đổi thiết bị hiện có và lắp đặt máy phóng PRLO. Tuy nhiên, Bắc Việt phản ứng với sự đối kháng này bằng cách làm cho radar của họ có khả năng thay đổi tần số hoạt động khi chỉ có dấu hiệu nhỏ nhất của việc bị gây nhiễu; phương pháp phản-đối kháng điện tử này được gọi là tần số linh hoạt frequency agility (chuyển tần số nhanh hoặc быстрой перестройкой частоты - БПЧ).

Tuy nhiên, tổn thất của B-52 trong Chiến dịch Linebacker 2 - chiến dịch ném bom Hà Nội và Hải Phòng đã giảm đáng kể. Trong 700 phi vụ của chúng, hệ thống phòng không mạnh mẽ và hoàn hảo của miền Bắc Việt Nam đã phóng khoảng 1000 (?) quả đạn tên lửa, nhưng chỉ bắn rơi 15 máy bay ném bom, tỷ lệ tổn thất 1,5%. BCH Không quân ước tính rằng, nếu B-52 không được trang bị tất cả các phương tiện đối kháng điện tử hiện đại, số lượng máy bay bị bắn rơi trong chiến dịch này sẽ lên đến ít nhất là 75 chiếc. Sự dao động các giới hạn trên và dưới của tổn thất máy bay tiêm kích-ném bom có mối tương quan chính xác với sự xuất hiện các hệ thống vũ khí mới và trang bị đối kháng điện tử mới.

Ở giai đoạn này của chiến tranh, Không quân Mỹ là phương tiện duy nhất gây áp lực và buộc Chính phủ VNDCCH bắt đầu các cuộc đàm phán chấm dứt chiến tranh. Trên mặt đất thì người Mỹ phòng thủ, và cuộc chiến nhìn từ quan điểm chính trị, đã được chơi xong.

Tuy nhiên, năm 1968 và 1969 rất thành công đối với người Bắc Việt Nam không chỉ trên mặt đất mà còn trong không trung, chủ yếu là do sự tăng cường hệ thống phòng không quy mô lớn. Chỉ tính riêng trong một tháng, người Mỹ đã mất khoảng 90 máy bay, hầu hết trong số đó bị bắn rơi trong thời gian không kích vào Bắc Việt. Ngày 01 Tháng Năm năm 1968, tổn thất trong các cuộc không kích như vậy đạt đến đỉnh cao của nó - 400 máy bay cánh cố định.

Từ năm 1970 trở đi cho đến khi kết thúc chiến tranh, tổn thất máy bay dần dần giảm, chủ yếu nhờ các biện pháp thực hiện nhằm tạo thuận lợi cho việc đột phá qua hệ thống phòng không của đối phương. Tiến bộ công nghệ đã dẫn đến việc cải tiến hệ thống thiết bị điện tử trên máy bay để tác chiến điện tử, đặc biệt là các bộ cảnh báo sớm RWR, sử dụng các vi sơ đồ kỹ thuật số và lai ghép, các linh kiện chuyên ngành tần số siêu cao. Trong giai đoạn này, ngành công nghiệp đã xuất xưởng thiết bị RWR đầu tiên kiểm soát bằng máy tính, có khả năng phân tích đồng thời và cực nhanh các thông số của tín hiệu điện từ đánh chặn được.


EA-6B Prowler thuộc phi đoàn xung kích điện tử VAQ-131 (Electronic Attack Squadron 131), không đoàn máy bay trên tàu sân bay số 14 (Carrier Wir Wing 14 - CVW-14), đóng căn cứ trên tàu sân bay USS "Enterprise" (CVAN-65) là phi đoàn thứ 2 triển khai trong Chiến tranh Việt Nam (từ tháng 9 năm 1972 đến tháng 6 năm 1973).

Năm 1971, loại máy bay mới Grumman EA-6 Prowler được đưa vào phục vụ, máy bay được thiết kế đặc biệt cho nhiệm vụ chiến tranh điện tử. Ngoài RWR, nó còn được trang bị các máy phát nhiễu công suất lớn để chế áp radar giám sát vào thời điểm các máy bay tiêm kích-ném bom tấn công các khẩu đội hỏa lực phòng không. Trong các chiến dịch này, các máy bay gây nhiễu vẫn quần trong khu vực nằm ngoài tầm diệt mục tiêu của đạn TLPK, vì thế, phương pháp gây nhiễu trên được đặt tên là Stand-Off-Jamming (gây nhiễu từ khu vực quần vòng).

Và cuối cùng, người Mỹ trang bị cho máy bay của họ thiết bị thế hệ mới: các máy phát nhiễu "thông minh" hoặc máy phát nhiễu mô phỏng. Các khí tài này có thể đánh lạc hướng kẻ thù, khi tạo ra trên màn hình radar của địch các dấu vết hiển thị mục tiêu không tồn tại, nó cho thông tin sai lệch về cự ly, hướng và tốc độ của mục tiêu thực sự. Điều này dẫn đến việc đạn TLPK có điều khiển bị dẫn đến các mục tiêu không thực đó.

Tuy nhiên, bất chấp việc đã có một số lượng lớn các phát minh mới rất hoàn hảo trong công nghệ quân sự, người Mỹ sau khi trực tiếp hoặc gián tiếp nhúng chân vào kiểu "bán chiến tranh" với nước Việt Nam trong gần một thập kỷ, đã phải rút nhanh chóng và hoàn toàn quân đội của họ khỏi điểm nóng này ở Đông Nam Á.

Không nghi ngờ gì, việc ứng dụng đối kháng điện tử trong suốt cuộc chiến tranh đã dẫn đến việc giảm tổn thất. Vào đầu chiến tranh tỷ lệ tổn thất là 14%, còn trong giai đoạn cuối tỷ lệ đó giảm còn 1,4%. Tuy nhiên, sự giảm mức tổn thất như trên không xảy ra liên tục. Khi người Bắc Việt Nam chuyển sang loại radar mới điều khiển vũ khí, tổn thất của người Mỹ tăng lên, nhưng khi người Mỹ, đến lượt họ, lắp đặt các thiết bị tác chiến điện tử mới, tổn thất lại bắt đầu giảm xuống.

Như vậy, cuộc đối đầu giữa radar và ECM và giữa ECM và phản-ECM thể hiện rõ bản chất năng động của EW.

HẾT CHƯƠNG 16​
.........
 

gocart

Xe cút kít
Biển số
OF-59286
Ngày cấp bằng
17/3/10
Số km
17,024
Động cơ
605,841 Mã lực
Nơi ở
Trên mặt đất, dưới bầu trời
Người Mèo đếm tài lắm.
Đếm xác trên trận địa này. Đếm đạn SAM bắn lên này. Đếm cả số xe tải bị bắn ở Trường sơn nữa này :))
Lấy số liệu thống kê của Mẽo với số liệu thống kê của mềng. Sự thật nó nằm đâu đó ở khoảng giữa:))
 

Xe đạp ViHa

Xe tăng
Biển số
OF-159708
Ngày cấp bằng
7/10/12
Số km
1,004
Động cơ
360,454 Mã lực
Chém tý cho vui các cụ nhể !

Cứ theo thống kê của phi công Mẽo thì số máy bay của mình bị bắn rơi và số xe tải bị bắn cháy trên đường Trường sơn thì chắc mình cũng hết máy bay, hết xe từ lâu rồi ! :D
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top