Súng tiểu liên MAS-38 do nhà máy vũ khí St Etience của Pháp sản xuất từ năm 1935, chính thức đưa vào trang bị từ 1938. MAS-38 được quân đội viễn chinh Pháp sử dụng phổ biến với số lượng lớn trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương. Hàng ngàn khẩu bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu và được sử dụng trong chiến đấu dưới cái tên “tiểu liên Mát”. MAS-38 dùng cỡ đạn 7,62x20mm, tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 50-100m.
Tiểu liên MAT-49 do nhà máy vũ khí Tulle Pháp sản xuất từ sau Chiến tranh Thế giới thứ 2. MAT-49 bắt đầu được đưa sang Đông Dương trong giai đoạn cuối 1950, đầu 1951 và sau đó dần dần thay thế các loại tiểu liên khác của Anh, Mỹ, Đức để trở thành tiểu liên chủ lực trong quân viễn chinh Pháp. Trong chiến đấu hàng nghìn khẩu MAT-49 (thường được biết đến với tên “tiểu liên Tuyn (Tulle)”) đã bị quân dân Việt Nam tịch thu và cũng nhanh chóng trở thành một trong hai loại tiểu liên chính của bộ đội chủ lực lúc đó.
Tiểu liên Sten do nhà máy vũ khí Enfield (Anh) phát triển và sản xuất ngay trong chiến tranh thế giới 2. Trong giai đoạn đầu chiến tranh xâm lược Đông Dương, quân Pháp tiếp tục sử dụng khá nhiều tiểu liên Sten do Anh cung cấp. Về phía Việt Nam, một số ít Sten được tiếp nhận từ viện trợ của tổ chức tình báo OSS (Mỹ) vào năm 1945, nhưng chủ yếu là tịch thu được từ quân Anh, Pháp trong chiến đấu. Sten dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 viên), tốc độ bắn 550 phát/phút và tầm bắn hiệu quả 150-200m.
Tiểu liên Lanchester do công ty vũ khí Sterling (Anh) phát triển từ năm 1940 để trang bị cho Hải quân Hoàng gia Anh. Trong kháng chiến chống Pháp, Việt Nam sử dụng một số tiểu liên Lanchester, có lẽ xuất phát từ chiến lợi phẩm thu được hoặc mua qua con đường bí mật từ Thái Lan, Malaysia. Lanchester dùng cỡ đạn 9x19mm (hộp tiếp đạn 32 hoặc 50 viên), tốc độ bắn 600 phát/phút, tầm bắn hiệu quả 150-200m.