Trong Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Thiển Thích, Hoà thượng Tuyên Hoá giảng tại Vạn Phật Thánh Thành, Talmage, California, Hoa Kỳ có nói rõ về các loại mộng:
Mộng" thì có rất nhiều loại:
1) Giấc mộng do tập khí vô minh (Vô minh tập khí mộng). Bởi vô minh nên có thói quen hồ đồ, rồi vì thế mà những việc thấy trong mộng cũng lộn xộn, không mạch lạc rõ ràng, đến khi ngủ dậy thì chẳng còn nhớ gì cả.
2) Giấc mộng báo trước việc lành hay dữ (Thiện ác tiên trưng mộng), cũng gọi là " giấc mộng dự đoán việc may hoặc rủi (kiết hung dự cáo mộng)" . Đây là loại mộng báo điềm, mách cho người nằm mộng biết trước là sẽ có chuyện tốt hay xấu, lành hay dữ, may hay rủi, sắp xảy ra.
Có lần, Hư Vân Lão Hòa Thượng mộng thấy Đức Lục Tổ dạy rằng: "Ông hãy trở về đi! Hãy về bên đó làm một vài công việc!" Lão Hòa Thượng nghe nói như thế thì cứ đinh ninh là mình sắp chết tới nơi rồi, cho nên Lục Tổ mới bảo "trở về"; về sau mới vỡ lẽ là Lục Tổ dặn Ngài đến Nam Hoa Tự để tu bổ chùa chiền! Đây là thuộc loại mộng báo điềm lành; sự việc chưa xảy ra song Ngài Hư Vân được Đức Lục Tổ báo mộng, mách bảo cho biết trước.
Có người mộng thấy được mách bảo rằng: "Anh cần phải cẩn thận một chút, coi chừng ngày mai bị đụng xe mà chết đấy!" Anh ta chẳng tin, thế nhưng ngày hôm sau quả nhiên anh ta bị đụng xe mà chết thật! Đây gọi là "kiết hung tiên trưng mộng," hoặc "thiện ác tiên trưng mộng," tức là giấc mộng báo trước việc may rủi, lành dữ sắp xảy ra.
3) Giấc mộng do Tứ Đại chênh lệch (Tứ Đại thiên tăng mộng). "Tứ Đại" là địa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa), phong (gió). Theo các sách y học của Trung Hoa thì có bốn trăm bốn mươi (440) chứng bệnh, và tám trăm tám mươi (880) phương thuốc để chữa trị. Kỳ thật, con người có tới tám vạn bốn ngàn (84.000) chứng bệnh, cho nên Đức Phật mới nói ra tám vạn bốn ngàn (84.000) pháp môn để đối trị tám vạn bốn ngàn chứng bệnh đó.
Khi Tứ Đại—địa, thủy, hỏa, phong—chênh lệch, tăng giảm không đồng nhau, thì cơ thể sẽ sanh bệnh. Chẳng hạn, nếu "địa" nhiều ("địa" thuộc về "thổ") thì xung khắc với "thủy," thế là sanh bệnh; "hỏa" nhiều thì khắc "thủy," thế là cũng sanh bệnh; "phong" nhiều thì khắc "địa," thế là cũng sanh bệnh. Những loại bệnh này được gọi là "Tứ Đại thiên tăng bệnh" (bệnh do Tứ Đại chênh lệch) hoặc "Tứ Đại bất điều bệnh" (bệnh do Tứ Đại không điều hòa). Người bị bệnh do Tứ Đại mất quân bình cũng có thể nằm mộng, và đó gọi là " Giấc mộng do Tứ Đại chênh lệch ".
4) Giấc mộng tìm gặp bạn cũ (Tầm hữu cựu thời mộng). Thế nào gọi là " Giấc mộng tìm gặp bạn cũ "? Thí dụ trước kia quý vị có quen một người nào đó song đã lâu rồi không gặp mặt, đến lúc chiêm bao thấy người đó tới chơi thì tay bắt mặt mừng, rất là vui vẻ; nhưng sau khi tỉnh giấc mới vỡ lẽ ra tất cả đều là giả—đó gọi là " Giấc mộng tìm gặp bạn cũ" vậy.
Trên đây là nói về một vài loại "mộng."
Như vậy, nếu có người nào trong mộng, trong mị, hoặc trong lúc mơ màng sắp ngủ, "trông thấy các quỷ thần cùng các hình bóng khác, hoặc buồn bã, hoặc khóc lóc, hoặc rầu rĩ, hoặc than thở, hoặc hãi hùng, hoặc sợ sệt..." Các quỷ thần này hiện ra với đủ thứ hình tướng kỳ dị—mặt xanh, tóc đỏ, miệng to, răng nanh dài như ngà voi chìa ra khỏi miệng... Ngoài ra, trong cơn mộng mị, người này còn trông thấy vô số hình bóng ma quái đáng sợ khác hiện ra, và khi vừa trông thấy người này thì các bóng ma ấy liền òa khóc tức tưởi, nước mắt nước mũi đầm đìa. Các bóng ma đó dáng điệu rất thiểu não, vừa nhìn là thấy ngay vẻ u ám ủ dột, rầu rĩ không vui, hoặc khiến cho người khác vô cùng kinh hãi. Có bóng ma lại cứ thở dài não nuột: "Ôi chao! Than ôi! Ôi!"
"Đây đều là cha mẹ, anh chị em, vợ chồng, quyến thuộc từ một đời, mười đời, trăm đời, hay ngàn đời trong quá khứ." Những quỷ thần hoặc hình bóng lạ mà quý vị thường gặp trong mộng hoặc trong mị có thể là cha mẹ của quý vị trong các đời trước. Cho nên, quý vị phải xem tất cả chúng sanh như là cha mẹ của mình trong đời quá khứ và là chư Phật trong đời vị lai. Và chính vì thế, quý vị cần phải chu toàn hiếu đạo, chớ nên quấy nhiễu, não loạn chúng sanh.
Như vậy, trong mộng hoặc trong mị quý vị có thể thấy vong linh của cha mẹ, anh em, chị em, vợ chồng, hoặc thân bằng quyến thuộc từ nhiều đời trước "còn đang bị đọa lạc trong ác đạo, chưa được ra khỏi." Vì đã trót gây ra tội lỗi nên họ bị đọa vào các ác đạo—địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh—và cho đến nay vẫn chưa được thoát ra. Thêm vào đó, họ "lại không trông mong vào phước lực nơi nào để cứu vớt." Các vong linh này lại chẳng có nơi nào để bám víu với hy vọng là sẽ có người lo tụng Kinh và làm việc công đức để giúp cho họ được siêu độ, "nên mới mách bảo với kẻ có tình cốt nhục trong đời trước, khiến làm phương tiện hầu mong được thoát khỏi ác đạo."
Theo Phật Giáo, tại sao lại có lệ tụng Kinh cho người đã quá vãng và ngay cả người còn sống? Bởi vì trong Kinh Địa Tạng đã dạy như thế! "Phước lực" ở đây tức là công đức tụng Kinh. Thế thì, vì những vong linh đó không có nơi nào để kỳ vọng là mình sẽ được cứu vớt, nên họ bèn báo mộng, nói cho những kẻ có tình cốt nhục với họ từ đời trước được biết; cầu mong rằng những người ấy sẽ vì họ mà dùng nhiều phương tiện để làm việc công đức, giúp họ thoát khỏi các ác đạo.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lại gọi: "Này Phổ Quảng! Ông nên dùng thần lực—sức thần thông—khiến hàng quyến thuộc đó đối trước tượng của chư Phật, Bồ Tát, chí tâm tự đọc Kinh này. Ông hãy làm cho thân nhân đời trước của các vong linh đó đem lòng chí thành khẩn thiết mà tự đọc tụng Kinh Địa Tạng, hoặc thỉnh người khác đọc."
Nếu hàng quyến thuộc vì lý do nào đó nên không thể tự đọc tụng được, thì họ có thể bỏ tiền ra nhờ người khác tụng Kinh Địa Tạng giúp cho vong linh. Bất luận là ai, người đó đều phải tụng "đủ số ba biến hoặc bảy biến ...
"Như vậy, kẻ quyến thuộc đang ở trong ác đạo kia, khi tiếng tụng Kinh đủ số mấy biến đó xong, sẽ được giải thoát, cho đến trong mộng trong mị không thấy hiện về nữa." Khi tụng xong Kinh Địa Tạng, đủ số ba biến hoặc bảy biến, tiếng tụng Kinh vừa dứt thì những vong linh quyến thuộc đang trầm luân trong ác đạo kia cũng đều được giải thoát, và trong mộng lẫn trong mị, quý vị đều vĩnh viễn không còn thấy họ hiện về như thế nữa.