Nhân việc Huế Đà em đợt nghỉ 30/4 có viết được 1 đoạn, gửi cùng các cụ đọc.
Miền Thuận Quảng
Tôi đến thành phố Huế năm mười sáu tuổi, vào cuối mùa hạ. Đúng như ông cố thi sĩ quê tôi đã cảm thán “Trời mưa ở Huế sao buồn lắm…”, mưa kéo dài lê thê liền bốn ngày. Đó là cảm nhận đầu tiên của tôi về Huế, như nhìn mưa cả ngày, thật bền bỉ và nhàm chán. Ở tuổi đó, tôi chỉ biết mỗi kinh thành Phú Xuân, chợ Đông Ba và luôn nghĩ thôn Vỹ Dạ ở đâu, khi đã đọc bài thơ trong sách giáo khoa được học. Ngày đó biết nó ở đâu đâu, chỉ biết mỗi hình ảnh hao hao như ngoại thành trong một sắc nắng nhẹ nhàng, một không gian trầm mặc. Thực ra Huế chỗ nào cũng trầm mặc, hoặc hơn cả thế. Sau lớn rồi, mỗi lần lượn qua hay ra cầu Đập Đá ăn bún bò ớt cay xé lưỡi, rồi chui rúc vào cồn Hến với những ô bàn cờ đường bé ti ti hơn cả phố cổ Hà Nội ăn món cơm hến, canh hến mà con hến nó nhỏ xíu đến độ dễ thương nhưng lại rất đều chặn chặn (vì là so với quê mình – Đồng bằng sông Hồng, quả thực nó bé hơn hẳn), tôi mới biết khu đó là thôn Vỹ Dạ đã biết trong thơ. Mỗi lần qua Huế, tôi thường tới quán Vỹ Dạ Xưa, với lối kiến trúc hài hòa, trang nhã, lưu giữ những nét rất xưa trên đường đi từ thành Huế ra cửa Thuận An, qua cầu Đập Đá tầm nửa cây số. Mặt sau của quán, nhìn ra cồn Hến, sát mép sông Hương. Với li nước có cái dù trang trí nhỏ xinh đặc trưng, nhìn ra mặt sông êm đềm, gió cây xào xạc. Trong một buổi chiều dần buông theo bóng nắng, thức uống gì cũng chẳng quan trọng, vì tâm trí rất bình yên, cảnh sông nước cố đô thật gây nhiều cảm xúc.
Quay lại tiểu đề: “Miền Thuận Quảng”, thực ra Huế chỉ là non một phần ba trong Thuận Quảng đang muốn nói tới. Nhưng nếu chỉ viết về kinh kỳ xứ Huế không, nó buồn quá, lắng quá. Cũng muốn viết cả một cặp tương phản gồm nửa kia là Đà Nẵng tươi mới và náo nhiệt đi cùng cho hết mạch vân du. Vì vậy, tuy là muốn nói Thuận Quảng, nhưng kỳ thực là chỉ muốn ghi lại cảm xúc ở Huế và Đà.
Cũng nhân đây mà cắt nghĩa giải thích thêm: Ngày xưa, thời công chúa Huyền Trân vì nước đổi hai châu Ô, Lý của nước Chăm pa. Vua Trần mới đổi châu Ô thành châu Thuận, còn châu Lý thành châu Hóa, ở đây lâu ngày đọc Hóa châu thành Huế mà văn bản Pháp lúc đầu ghi là Hué, tên gọi Huế là từ châu Hóa đọc chệch đi theo khẩu ngữ địa phương. Huế có lịch sử rất lâu đời, nó là kinh đô đầu tiên của hình thái nhà nước tiền Chăm pa, từ khoảng năm 200 sau công nguyên, xa lắc so với Đại Việt ta. Còn xứ Quảng, theo nghĩa ngày nay, nó tất nhiên được hiểu rất là rộng, bao gồm từ nam đèo Hải Vân cho tới hết Quảng Ngãi, Bình Định là vùng đất của vua Lê lấy từ Chăm pa. Ở phần này phải ghi chú thêm, Đà Nẵng hiện tại là một vùng đất rất mới. Khi xưa, thời năm 400 sau khi người Chăm pa bỏ thành Huế bây giờ, tức là kinh đô “Phật Thệ”, rút về sau đèo Hải Vân lập kinh đô mới quanh Duy Xuyên, Thăng Bình, Điện Bàn hiện tại của tỉnh Quảng Nam để tránh sự đánh cướp tượng vàng ở kinh đô của các thứ sử Giao châu. Khi đó chỉ quanh lưu vực sông Thu Bồn mới có dân cư, còn Đà Nẵng hiện tại tới năm 1500 nó vẫn là vùng đất toàn nước, có một số hòn Sơn Chà (hoặc Trà) nổi và hiện tại đã bồi thành bán đảo Sơn Trà. Cho tới năm 1700, người dân tộc Chăm pa với lối sinh hoạt ở đó được người Pháp hay qua lại ghi chép, là một bằng chứng cho thấy vùng đất cửa sông Hàn hiện tại, không có gì đáng nói, so với khu vực phố Hội, giao thương xuyên Đông Nam Á trong suốt những năm 1600. Hơn thế, bằng chứng cho thấy Đà Nẵng mới như nào chính là từ: Đà Nẵng, nó là phiên âm của tiếng châu Âu, Tourane. Tuy nhiên, Đà Nẵng sau này lại là một nơi vô cùng quan trọng trong thời kỳ mới, bằng chứng sống của việc đó chính là hai lần quân viễn chinh Pháp và Mỹ đều chọn nơi đổ bộ lần đầu vào Việt Nam, đều ở Đà Nẵng.
Tôi đặt chân tới Đà Nẵng sau khi thi đại học năm 1998, nói là vậy nhưng thực tế là sau khi tàu Bắc Nam dừng ở ga Đà Nẵng độ 15 phút, tôi có xuống sân ga đi lại dăm bước, rồi ……. quay lại tàu, đi tuốt vào thành phố Hồ Chí Minh. Cho tới tận sau năm 2010, tôi mới tới Đà Nẵng theo đúng nghĩa của khách du lịch. Đà Nẵng là một thành phố mến khách, thân thiện nhất trong các thành phố tôi đã từng tới ở Việt Nam. Có thể trong thời điểm đó, cũng do hiện tượng “thành phố đáng sống” dưới sự điều hành của một chính khách tên tuổi lừng lẫy gắn bó với mảnh đất này được truyền thông đẩy lên như một cách làm khác biệt. Mà Đà Nẵng khác biệt thật. Xưa nay, ở Việt Nam ra ngõ là gặp anh hùng, xới một tấc đất lên là gặp lịch sử, tầng tầng lớp lớp theo năm tháng. Vốn là người hay bị liên tưởng bởi vùng đất, không gian và các yếu tố lịch sử, nhưng thật kỳ lạ, hầu như chưa bao giờ ở Đà Nẵng tôi cảm giác thấy một liên hệ với quá khứ đáng kể, tức là nhớ ngay tới tới các sự kiện lịch sử như thường kỳ. Điểm xa nhất với mốc hiện tại, trong đầu tôi có thể nghĩ tới khi ở Đà Nẵng, chỉ là vụ tấn công đầu tiên của người Pháp vào cửa Hàn tầm năm 1860, người Pháp thất bại và người chỉ huy đối trọng của họ là ông Nguyễn Tri Phương, người mà sau này đã mất mạng tại thành Hà Nội, trước lúc đó, ông đã thoát được cuộc tấn công của người Pháp ở Nam kỳ trong trận Đại đồn Chí Hòa, xin giới thiệu vắn tắt như vậy. Còn điểm cuối, là sự tháo chạy của quân miền Nam di tản từ cảng Tiên Sa ra các tàu của hạm đội 7, trước ngày Việt Nam cộng hòa mất hoàn toàn vùng 1 chiến thuật. Đà Nẵng với tôi luôn luôn là sự ồn ào, náo nhiệt của các quán xá dọc đường ven biển Mỹ Khê, An Thượng thậm chí đi xa hơn tới Ngũ Hành Sơn. Ở đó, có khu phố toàn là tên An Thượng, từ số 1 tới tận số 35 36, được gọi là khu phố tây dành cho dân du lịch bụi. Bạn có thể dễ dàng bắt gặp các quán Italiano’s Pizza, Taco & Tequila…. Thoạt nghe ban đầu có vẻ lạ lẫm và không bình dân, nhưng khi trải nghiệm bạn sẽ thấy không ở nơi nào dễ chịu như ở đó, ở Đà Nẵng tới vậy. Buổi sáng, bạn có thể gọi một bát bún bò Huế hoặc mì Quảng, sau đó, bạn qua bất cứ một ngã ba, ngã tư nào có một quán nhỏ, thậm chí cực tạm bợ ở vỉa hè để thưởng thức một li cà phê sữa. Với mức giá khó tin 8.000 vnđ vào năm 2017 để tham chiếu, chất lượng của nó luôn làm bạn hài lòng. Thậm chí một li nước cam đá vắt nguyên chất, cũng chỉ có giá bằng già nửa ở Hà Nội. Ngay mới gần đây, vào dịp Tết, bọn tôi lên một roof top bar vừa phải trên đường Bạch Đằng, các li nước hoa quả cũng chỉ có giá 55.000 vnđ với không gian thoải mái, riêng biệt ngắm toàn cảnh sông Hàn và hai cây cầu danh tiếng của Đà Nẵng, là cầu Rồng và cầu quay sông Hàn. Thực ra tới Đà Nẵng, các món ăn rất đa dạng, vì nó nằm giữa không gian của Hội An Quảng Nam và Huế, cựu đô. Bạn có thể ăn bánh ram ít, bánh lọc, bánh bèo, mì Quảng, cao lầu,…. toàn các thương hiệu có chất lượng nhưng không gian ẩm thực không bị bó buộc như ở nơi chúng xuất phát. Ở Đà Nẵng, văn hóa hội tụ khắp vùng miền cả Âu, Á… đúng nghĩa của một thành phố du lịch và đa dạng. Hai món tôi không bao giờ bỏ qua khi tới đây là bánh tráng cuốn thịt heo Trần và chè Liên, có vẻ như đó là thương hiệu của Đà Nẵng. Tạm rời mục ăn uống, Đà Nẵng là thành phố của bãi biển sạch đẹp bậc nhất dải miền Trung Việt Nam, công tác quản lý, tổ chức mặt bằng, thu dọn rác được triển khai quá tốt, bãi biển vốn đã được thiên nhiên ưu đãi bằng những bờ cát trắng, dốc nhẹ thoai thoải. Bởi vậy nơi đây luôn là điểm đến hấp dẫn và vô cùng thoải mái cho người ưa thích du lịch biển. Một điểm nhấn vô cùng ấn tượng của Đà Nẵng mà ai cũng biết, là các cây cầu bắc qua sông Hàn. Ai cũng biết cầu Rồng phun lửa, phun nước và có thể cũng chưa biết nhiều lắm về sự trăn trở của kiến trúc sư, kỹ sư trong việc làm thế nào để đầu con rồng vươn cao nhất có thể. Hoặc về cây cầu Hàn, có một ô nhịp tự quay vuông góc, mở khoảng không cho tàu thuyền qua lại theo giờ. Hoặc cây cầu Trần Thị Lý, trong ánh sáng trình diễn, nó làm tôi liên tưởng tới một cây đàn lia vĩ đại của người nhạc công bỏ quên trên dòng sông Hàn.
Đà Nẵng còn có một bán đảo Sơn Trà mang đến một hệ sinh thái rừng – biển vô cùng khác biệt với loài động vật đặc hữu vọc chà vá và khỉ. Tôi không đi sâu vào chuyên ngành nhưng tôi cá rằng bạn sẽ cảm thấy mình ở một thế giới khác, khi di chuyển từ cung đường Hoàng Sa ven biển lên phía chùa Linh Ứng, resort Inter continental, đi cao hơn lên đỉnh của Sơn Trà. Một bên là rừng, suối một bên là biển với những đường cong cát trắng ở chân trời kèm theo skyline đô thị trung tâm. Không còn gì hùng vĩ và rung động hơn thế. Nếu có thể, bạn lên được đỉnh Sơn Trà nơi có bàn cờ tiên như ông Bill Gates vừa tới (Còn tôi thì chưa hiểu sao đã vài lần thất bại, chưa lên được lần nào), cái nhìn toàn cảnh của thành phố Đà Nẵng từ phía biển, chắc sẽ đẹp hơn nữa. Vì như logic của tôi, từ góc nhìn khác, như nhiều lần tôi đã thấy. Từ phía Tây, tức là sau khi rời ống hầm Hải Vân theo chiều từ Huế đi vào, hoặc đi đèo Hải Vân theo đường bộ, hoặc từ khi đổ đèo men theo sông Cu Đê nối về Hòa Liên theo đường cao tốc mới, khi phóng tầm mắt từ trên cao, tất cả ai cũng đều thấy “vành trăng khuyết” - bãi Liên Chiểu nối liền một dải từ rạn Nam Ô cho tới cầu Thuận Phước, quả thật là một khung cảnh mê hoặc lòng người.
Và bây giờ, tôi muốn nói về cái tên Sơn Trà.
Trước khi cùng tản mản về nội dung này cũng nên phân biệt rõ, hiện tại có bán đảo Sơn Trà ở quận Sơn Trà của thành phố Đà Nẵng và một hòn đảo nhỏ, có tên là Sơn Trà, còn có tên khác là Hòn Chảo, nhưng nó lại thuộc về địa giới của tỉnh Thừa Thiên Huế, gần sát đèo Hải Vân. Bán đảo Sơn Trà như đã biết, nó vốn là một hòn đảo lớn trước khi bồi cạn nối thành bán đảo như hiện tại. Xưa nay người ta thường nói về tên của nó theo nhiều giả thuyết khác nhau, xin tạm liệt kê những hướng khả dĩ để người đọc có thể tìm hiểu thêm:
- Hòn đảo xưa có hình dáng giống một cái chà bắt cá – dụng cụ của ngư dân địa phương, nhưng nó còn là ngọn núi, nên gọi là Sơn Chà.
- Đảo núi có nhiều vọc mà là cụ thể là vọc Chà vá (phiên âm của Java – địa danh ở Indonesia) nên gọi tắt là Sơn Chà, một nhánh khác là trong tiếng Chăm pa từ Ja (ông), Kra (khỉ), liên quan tới giới tính nam, khỉ, cũng là một khả năng có phiên âm tới tên Sơn Trà. Tức là đảo khỉ và núi Ông (Vì họ cũng có núi Bà – Bà Nà đối xứng)
- Ông Ma Trà Chế, là các họ lớn của quý tộc người Chăm, nên vì lí do gì đó, có tên núi (của) Trà, thì cũng bình thường, như quanh đó có Trà Kiệu, Trà Bồng, Trà My, Trà Khúc…
- Có một giống cây gọi là cây sơn tra, đảo này nhiều cây mọc nên tên như vậy. Một nhánh khác thì cho rằng đây có nhiều cây trà (cây trà như trà Thái Nguyên) và nhiều cây mọc thấp (từ cũ: chà/trà rào), nên gọi là Sơn Trà/Chà. (Giả thuyết này khá yếu)
Và dù cái tên của nó được hình thành như nào, thì một điều chắc chắn bán đảo Sơn Trà là một vị trí quan trọng bậc nhất của thành phố Đà Nẵng. Nó là điểm khởi đầu của hai cánh cung vịnh biển, một bên là vịnh Đà Nẵng với cửa Hàn, cảng Tiên Sa, bãi Liên Chiểu, bên còn lại là Mỹ Khê và là mặt biển chính của thành phố hướng ra biển Đông. Thật là nhàm chán cho thành phố nếu không có một “đỉnh núi” điểm nhấn với nhiều sự đa dạng sinh thái ở phía biển Đông như vậy. Tất nhiên là nếu thôi, vì không có nó, thì đã không có Tourane, không có Đà Nẵng của chúng ta rồi.
Rời khỏi Đà Nẵng để quay lại xứ Huế, vì Huế còn vô cùng nhiều điều để đọng lại trong tâm trí, chưa nói hết được. Có lan man đi đâu, có bàn về Đà Nẵng, bàn xa ra Quảng, bàn lên đến Thuận, lại nhớ ra Huế còn nhiều thứ chưa viết quá. Ngày xưa, sách Thủy kinh chú, một sách cực cổ của Trung Quốc nói về địa danh, địa giới, sông hồ (những năm 500 – tác giả Lịch Đạo Nguyên), có nói tới các cuộc xâm lược của các Giao châu thứ sử vào nước láng giềng, mô tả rất chi tiết kinh đô của người Chăm cổ, thành Điển Xung hay là Phật Thệ ở chính thành phố Huế bây giờ. Còn cương giới xa nhất phía bắc của người Chăm, là một cứ điểm quân sự tuyến đầu, thành Khu Túc, hiện giờ nó ở thôn Cao Lao Hạ, huyện bố Trạch, Quảng Bình. Một chi tiết khác, vô cùng quan trọng được nêu ra, họ đi tới đâu đều nói chuyện cũ (là chuyện ông thời năm 500 nói chuyện ông thời năm 45), Mã Viện (năm 43) sau khi dập tắt được khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cho quân đi sâu về phía Nam, mỗi vài trăm dặm, lại đóng một cột đồng. Còn cho người (lính Hán) ở lại sinh sống, coi cột đó, lâu thành làng, gọi là Mã lưu nhân. Ngày còn nhỏ, cứ nhớ chuyện cột đồng Mã Viện, cho quân trồng, rồi nói cột mà đổ, thì diệt nước. Sau lớn lên mới biết, không phải có duy nhất một cột mà theo vĩ độ và các vị trí hợp lý họ đều trồng cột, để đo bóng nắng theo lí thuyết thiên văn, xác định tính chất quay của các thiên thể chủ yếu là mặt trời. Các tên địa danh Việt Nam ở dưới Thanh Hóa thời nhà Hán bấy giờ như Cửu Chân (đường chân trời), Nhật Nam (mặt trời ở phía Nam), đều mang ý nghĩa thiên văn cả.
Mỗi năm, thường tôi có bốn lần qua dãy Bạch Mã, hai đi vào và hai đi ra và lần nào cầm lái vượt qua điểm phân định địa danh Huế - Đà cũng vẫn đầy cảm xúc như lần đầu. Với tôi, một cách phân biệt (không được tốt lắm) về không thời gian, về văn hóa, về một xứ xa lạ, lại chính là khu vực đèo Hải Vân, dãy Bạch Mã chứ không bao giờ là cương giới cũ theo chính sử như đèo Ngang, sông Gianh - Quảng Bình, vĩ tuyến 17 – Quảng Trị. Dãy Bạch Mã là điểm cuối cùng của gió mùa đông Bắc thổi tới, được chặn lại bởi dãy núi cao này. Và cũng vì vậy, ở trên vĩ tuyến này, xưa nay thường nhiều bão hơn từ Đà Nẵng đổ vào trong phía Nam. Và cũng vì dãy núi này sừng sững chắn ra tới biển Đông, như ta thấy hiện tại khi đứng ở Hải Vân quan, thì chắc chắn ngày xưa, nó phải gây cách trở Nam Bắc tới kiệt cùng. Cũng vì vậy, sau nhiều trăm năm tấn công người Chăm pa, các thứ sử Giao Châu cũng chỉ đạt mục đích được tới Huế. Có lẽ vì khí hậu, thời tiết, địa hình và bối cảnh lịch sử, nên phong tục hai miền cũng khác.
Nếu đi qua hầm Hải Vân, thì không có gì quá nhiều để nói, nhưng nếu cầm lái đi theo đường đèo qua Hải Vân quan, từ phía Nam ra, dưới chân đèo là một doi cát óng mượt, hiện ra trước mắt. Huế bắt đầu được cảm nhận từ cửa đầm Lập An, bãi Lăng Cô, những bức tranh tuyệt tác của tạo hóa được kết hợp giữa cát, cây, biển, núi rừng. Còn theo chiều ngược lại, sau khi dừng nghỉ ngắm đất trời, cảm nhận không khí của rừng xanh bạt ngàn tại Thiên hạ đệ nhất hùng quan, xuôi về phía Nam, góc nhìn vịnh Đà Nẵng, bãi Liên Chiểu hiện lên như một chỉ dấu của đô thị hiện đại nhưng vẻ đẹp tự nhiên của bãi biển cũng rất dễ làm xiêu lòng du khách. Vài năm gần đây, khi cao tốc La Sơn Túy Loan đi vào hoạt động, nếu có cơ hội bạn nên cầm lái trực tiếp trên cung đường xuyên qua cánh rừng Bạch Mã này, vì nó không thể diễn tả hết bằng câu chữ được. Và chắc chắn, tôi mong bạn có được hệ thần kinh tốt, vì cảm giác “say lòng người” rất thường trực, phần nào sẽ ảnh hưởng tới chân ga và độ quan sát trên một cung đường không kém phần mạo hiểm. Nhưng tôi đảm bảo sau đó bạn sẽ luôn háo hức muốn trải nghiệm lại nó nếu có cơ hội.
(Còn tiếp…)
"