[Funland] Bà Thẩm Phán và phiên tòa công lý năm 76

Vinh Cẩm Tú

Xe buýt
Biển số
OF-370088
Ngày cấp bằng
11/6/15
Số km
559
Động cơ
255,689 Mã lực
Nơi ở
Sao Hỏa
Lần đầu tiên em biết vụ này :)
 

Vipduy999

Xe tải
Biển số
OF-175701
Ngày cấp bằng
8/1/13
Số km
357
Động cơ
343,600 Mã lực
hay quá tiếp đi các cụ ơi
 

Bình BK

Xe tăng
Biển số
OF-320132
Ngày cấp bằng
18/5/14
Số km
1,391
Động cơ
301,710 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
Nguồn cơn của vụ bắt giữ lần này không nói ai cũng đã rõ. Nhưng lạ lùng và đau thương thay, cái tội mà cơ quan an ninh điều tra chụp lên đầu cụ Đề mới là cái làm hầu hết những người biết tin cụ bị bắt ngỡ ngàng.

Ngày 16/9/1985, cơ quan an ninh điều tra đọc lệnh bắt, khám xét 104.BKX ký ngày 15/09/1985, bắt cụ Đề vì đã vi phạm tội tuyên truyền chống chế độ.

Các cán bộ điều tra đi khám xét từng phòng/tầng nhà cụ Đề . Tất cả mọi ngóc ngách đều bị lục soát xem xét, kể cả gường, tủ. Họ đặc biệt khám xét rất kỹ phòng ngủ của vợ chồng cụ Đề. Gần trưa, cuộc khám xét mới kết thúc, nhưng cuối cùng chỉ thu giữ được một số thứ như tài liệu nghiên cứu, tranh ảnh, một số giấy tờ lặt vặt của cụ Đề và gia đình.

Rất may. Những câu ca dao, hò vè như trích dẫn dưới đây không được tìm thấy. Vì cụ nhớ trong đầu, và cũng chỉ coi đó là một trò giao lưu giải trí những lúc ngồi với các cụ bạn nơi quán cóc vỉa hè.

Đây là những câu ca dao:
Tôn Đản là chợ vua quan
Nhà Thờ là chợ trung gian nịnh thần
Bắc Qua là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ nhân dân anh hùng.

Hay nạn bằng cấp:
Bây giờ chân giò quý hơn chân lý
Thực phẩm hơn nhân phẩm
Bằng gì cũng không bằng lòng.

Hoặc chính sách giá lương tiền:
Bù giá vào lương hay bù da vào xương, hay bù giá vào lưng...

Trong trại tạm giam, cán bộ điều tra hỏi cung cụ Đề, tập trung vào những câu ca dao hò vè trên. Cụ kể:
Nếu như lần bị bắt giam trước, cán bộ điều tra chỉ tập trung hỏi về những hành vi cố ý làm trái, tham ô, hối lộ thì lần bắt giam này họ chủ yếu hỏi về mục đích truyền khẩu các câu ca dao châm chọc cuộc sống thời bao cấp là nhằm mục đích gì. Rồi hỏi tôi về lịch sử bản thân và gia đình, quá trình hoạt động tình báo tại các địa bàn trong và ngoài nước.

Có thơ Bút Tre như sau:
Hoan hô anh Tạ Đình Đề
Trước là mật thám sau về với ta
Hoan hô anh Lê Quảng Ba*
Trước là thổ phỉ,sau ra hàng mình.

Chuyện Tạ Đình Đề học tại Trường quân sự Hoàng Phố là có thật, Học tình báo với người Mỹ cũng là có thật. Nhảy dù xuống Miền Trung thu thập tin tức tình báo của các căn cứ quân sự Nhật để Mỹ đánh bom cũng là có thật.

Lần thứ nhất học Trường quân sự Hoàng Phố .
Một hôm, vào đầu năm 1941, lúc đang làm nhiệm vụ bảo vệ đồng chí Lý Thụy và các đồng chí lãnh đạo thì tôi không ngờ được người của tổ chức gọi lên gặp gỡ, giao nhiệm vụ đi học quân sự. Lúc đầu tôi cũng thấy ngại. Nhưng sau đó được đồng chí Lý Thụy Thọ, nguời của tổ chức giải thích rằng: Hiện nay sự trỗi dậy của phát xít, nhất là phát xít Nhật hết sức nguy hiểm. Tổ chức đã nghiên cứu kỹ và thấy đồng chí có khả năng nên cử đi học trường tình báo. Chúng ta đang khẩn trương chuẩn bị cơ sở cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Nghe giải thích vậy tôi rất phấn khởi, vì dự khóa học này ngoài tôi ra còn có các đồng chí Lý Thụy Thọ là trưởng đoàn, Lê Gia Lộc (Tuấn Sinh), Trần Đức Xuân, Vũ Đình Đức, Lê Đức Thông. Lúc này tôi được tổ chức đặt cho bí danh là Lâm Giang. Từ đó, ngoài tên Tạ Đình Đề, tôi còn mang tên Lâm Giang.

Lần thứ hai học tình báo với người Mỹ.
“Đồng chí Phạm Viết Tư (một cán bộ trong tổ chức cách mạng ở Vân Nam, năm 1954 là Cục phó Cục Quân nhu) gọi tôi lên đả thông, hiện nay chủ trương của đoàn thể là tạm thời bắt tay với bọn Mỹ đứng về phe đồng minh chống phát xít. Vì thế, tổ chức chọn đồng chí làm việc này.
Đêm đó, tôi về suy nghĩ nhiều lắm. Tại sao lại đi làm cho tụi Mỹ, để làm gì?... Cách mạng, đoàn thể thiếu gì việc mà lại giao cho mình việc này. Ăn ở với tụi Mỹ ư? Làm sao cho nó khỏi khinh mình...
Đồng chí Lý Thụy Thọ cũng gặp tôi nói rằng: Làm như vậy cũng là mục đích tiêu diệt phát xít thôi. Diệt phát xít Nhật, mình mới dễ dàng đánh bại Pháp. Thêm nữa, ta cũng phải lợi dụng tụi này để họ giúp đỡ ta về vũ khí. Đồng chí có nhiệm vụ lấy tin tức cho nó chứ có phải ăn lương của nó đâu. Đồng chí cứ tin tưởng vào đoàn thể, yên tâm làm nhiệm vụ mới.
Bề ngoài tôi phục tùng nhưng trong tư tưởng thấy lo. Chỉ sợ như Gia Long cõng rắn cắn gà nhà. Lúc đó Ông Cụ (Bác Hồ) cũng có mặt ở đó. Ông Cụ ân cần nói đại ý rằng: Làm gì thì làm, miễn chú phải trung thành tuyệt đối với đoàn thể, với cách mạng.
Tôi thông nhưng vẫn lo. Lúc đó tôi vừa kính nể, khâm phục Ông Cụ nên nhận nhiệm vụ ngay. Nhưng nghĩ mình cũng tự hào, được đem kiến thức đã được học để thi thố với bọn giặc lùn kể cũng thú vị đấy...”
...
Tôi phục tùng tổ chức, đi dự khóa học tình báo của Mỹ. Sau khóa học, tôi và một người Mỹ lai Tàu Humbli Hô được giao nhiệm vụ nhảy dù xuống khu vực Huế để điều tra thu thập tình hình di biến động của quân đội phát xít Nhật trên đất Việt Nam. Chúng tôi báo tin về sở chỉ huy để phe đồng minh có kế hoạch tiêu diệt quân đội Nhật. Việc nhảy dù xuống Huế và sau đó bắt liên lạc, nắm tình hình tương đối thuận lợi. Nhóm của chúng tôi báo cáo về sở chỉ huy và rồi máy bay Mỹ đã oanh tạc tiêu diệt nhiều sinh lực của quân đội phát xít Nhật.

Sự thật là như vậy, làm thế nào qua thơ Bút Tre, rồi truyền khẩu, và bây giờ là cán bộ điều tra, cùng nghi ngờ/tin cụ "theo địch" để xét hỏi... thì ngay cả một nhà tình báo ngoại hạng như cụ Tạ Đình Đề của chúng ta cũng chỉ biết vừa khóc vừa mếu... rồi lắc đầu mà thôi.
 

lum..zzz

Xe điện
Biển số
OF-49224
Ngày cấp bằng
22/10/09
Số km
4,012
Động cơ
491,531 Mã lực
Tiếc quá, phải chi ông cụ còn sống kể chuyện cho bọn hậu sinh chúng ta nghe thì hay biết mấy nhỉ.
Mờ cái nhánh bà cụ nhà cụ bên VKS cũng hay lắm đó.
vâng, ông cụ em hàn cầu Long Biên những năm 67-68, rồi đc điều chuyển vào Cầu Hàm rồng, thợ hhà đường sắt bậc cao, sau chuyển sang quân ngũ làm sỹ quan đánh mỹ, đánh tàu nên cg nhiều chuyện. Ông cụ toàn kể chuyện cụ Đề nhận vào làm thế nào, bên nhà máy xe lửa Gia Lâm ra sao... Còn bên ngoại em là dòng họ Thang, chỉ vì mang họ đó mà ông ngoại em Thang Văn Phiệt năm 79 đang là thượng tá Công An vũ trang phải về hưu sớm, mẹ em cg các anh chị công việc Nhà nước cg khốn đốn. còn ông Khê như cụ nói thì chính xác là Thang Văn Khuê là người rất chính trực và hiền lành. Hiện nay ông vẫn còn sống minh mẫn, đạp xe đi lại dù đã tầm 90 tuổi.
 

Bình BK

Xe tăng
Biển số
OF-320132
Ngày cấp bằng
18/5/14
Số km
1,391
Động cơ
301,710 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
vâng, ông cụ em hàn cầu Long Biên những năm 67-68, rồi đc điều chuyển vào Cầu Hàm rồng, thợ hhà đường sắt bậc cao, sau chuyển sang quân ngũ làm sỹ quan đánh mỹ, đánh tàu nên cg nhiều chuyện. Ông cụ toàn kể chuyện cụ Đề nhận vào làm thế nào, bên nhà máy xe lửa Gia Lâm ra sao... Còn bên ngoại em là dòng họ Thang, chỉ vì mang họ đó mà ông ngoại em Thang Văn Phiệt năm 79 đang là thượng tá Công An vũ trang phải về hưu sớm, mẹ em cg các anh chị công việc Nhà nước cg khốn đốn. còn ông Khê như cụ nói thì chính xác là Thang Văn Khuê là người rất chính trực và hiền lành. Hiện nay ông vẫn còn sống minh mẫn, đạp xe đi lại dù đã tầm 90 tuổi.
Trời! Hay quá.
Cám ơn cụ đã cho em biết những thông tin chính xác trên.
Rảnh rỗi cụ lại vào cải chính hộ em cụ nhớ.
Lại cảm ơn cụ một lần nữa :)
 

Bình BK

Xe tăng
Biển số
OF-320132
Ngày cấp bằng
18/5/14
Số km
1,391
Động cơ
301,710 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
Ở còm #20, trang 1, em có nói:
Trong số những người phải đứng ngoài, có một người trẻ rất thần tượng cụ Tạ Đình Đề (giống cụ [@khongthuphi;137546] hì hì) dù có vé mời nhưng cũng không thể vào được tòa án. Nhưng không ngờ chính anh sau này lại có những quyết định thay đổi cuộc đời của cụ Tạ Đình Đề. Nhưng đó là việc của mười năm sau vụ án này cơ, chúng ta bàn sau các cụ nhớ.

Một bức ảnh của Tạ Đình Đề thời chống Pháp


Bây giờ chính là thời hạn chúng ta bàn về "người trẻ" em nhắc tới ở trên kia. Người đó là ai, sao lại có những quyết định làm thay đổi cuộc đời Tạ Đình Đề?

Trước hết, đó là người, mà từ thuở thơ ấu, rất hâm mộ và thần tượng Tạ Đình Đề.

Từ thủa chăn trâu, bạn bè cùng trang lứa chúng tôi thường xúm nhau lại dưới hàng tre râm mát trưa hè bên bờ sông Lam để nghe người lớn kể chuyện ông Đề. Có hôm, quên cả cái nóng của gió Lào rát bỏng, vẫn vểnh tai nghe chuyện một cách say sưa về ông Tạ Đình Đề. Chuyện ông Đề như cơn gió mát trưa hè, có thể được kể và nghe mọi lúc mọi nơi và đủ mọi lứa tuổi cùng nghe. Có thể đây là món ăn tinh thần đáng quý nhất của vùng quê nghèo bên dòng sông Lam năm xưa. Chúng tôi không biết ông Đề có quê hương, bản quán ở đâu nhưng biết chắc rằng ông là một người con đất Việt. Với ý chí sắt đá, trí thông minh và trình độ võ nghệ cao cường, ông đã làm cho quân thù phải bao phen khiếp vía, kinh hồn. Truyền thống yêu nước của dân vùng quê đã tưởng tượng và thần thánh hóa ông Đề. Còn ông Đề với câu chuyện về ông đã hun đúc lòng yêu nước của tuổi thơ chúng tôi.

Khi ấy nghe chuyện, lũ con nít chúng tôi cứ há hốc mồm nuốt từng lời kể, không bao giờ đặt câu hỏi chuyện ấy thực hư thế nào. Chỉ nghĩ rằng rất khoái, đó là câu chuyện thần kỳ của người anh hùng mà bọn trẻ chúng tôi mong muốn được làm như thế. Mong mình chóng lớn lên để trở thành Tạ Đình Đề, xung phong ra trận tuyến, chiến đấu chống quân thù, giải phóng quê hương. Thế rồi ước mơ đó trở thành hiện thực. Đang ngồi trên ghế nhà trường, ngọn lửa chiến tranh cháy nghi ngút khắp xóm làng quê hương, tôi cùng bạn bè trang lứa xung phong lên đường giết giặc, để lại đằng sau những tình yêu đẹp đẽ và niềm tự hào được ra trận bảo vệ quê hương hương, làng mạc, người thân. Những câu chuyện huyền thoại về Tạ Đình Đề cứ theo chúng tôi trên đường ra mặt trận. Hình ảnh người anh hùng Tạ Đình Đề đã góp thêm động lực to lớn giúp tôi có thêm sức mạnh, vượt qua mưa bom bão đạn, chiến thắng quân thù. Gần bảy năm trong đời quân ngũ, đôi chân tôi đã đi khắp chiến trường Quảng Trị ác liệt, Đường 9, Nam Lào anh hùng và Tây Nguyên bất khuất. Những tấm huân chương chiến công tôi được trao sau mỗi trận đánh, chắc chắn có phần thôi thúc từ những câu chuyện về ông Đề.

Ước mơ được xông pha trận tuyến, giải phóng quê hương đã thành sự thật. Nhưng "người trẻ" ấy gặp gỡ rồi gắn kết với thần tượng của mình lại là một cái duyên. Mà cái duyên ấy lại bắt đầu tự sự kiện dưới đây.
Trong trận kịch chiến tại Kon Tum, đúng vào lúc Hiệp định Paris 1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết, tôi chỉ huy đại đội xông lên tiêu diệt quân thù giữ vững vùng giải phóng thì bị vết thương nặng nên phải ra miền Bắc điều trị rồi được chuyển ngành về Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Bây giờ thì em có thể tiết lộ tên của "người trẻ" ấy rồi. Đó chính là kiểm sát viên Dương Thanh Biểu, về sau là Tiến sĩ, Phó viện trưởng Viện Kiểm Sát nhân dân tối cao.

Trước khi tìm hiểu xem cụ Biểu đã làm thế nào để trả lại tự do cho cụ Đề, em mời các cụ đọc một số giai thoại về nhà tình báo ngoại hạng Tạ Đình Đề các cụ nhớ.

1.
Hôm ấy, Bác Hồ ngồi vào bàn ăn cơm cùng các đồng chí bảo vệ, phục vụ. Nhìn mâm cơm thanh đạm vừa được dọn ra bàn xong, Bác cười vui rồi quay sang nói với đồng chí bảo vệ:

- Cho Bác xin thêm đôi đũa và một cái bát nữa nhá!

Nghe Bác nói, đồng chí bảo vệ băn khoăn. Thường thì, mỗi khi có khách dùng cơm, Bác đều cho biết trước để chuẩn bị. Sao hôm nay, Bác lại nói vậy nhỉ. Anh hỏi lại cho chắc ăn:

- Thưa Bác. Khách hôm nay là ai hả Bác?

Bác Hồ gật đầu mỉm cười:

- Có mà. Hôm nay Bác cháu ta có khách đặc biệt đấy.

Khi đã mang bát đũa đặt lên bàn ăn, anh bảo vệ còn hỏi lại:

- Thưa Bác. Sao khách vẫn chưa đến ạ?

Bác Hồ nhìn mọi người, điềm tĩnh:

- Người khách đã đến thăm chúng ta từ lâu rồi nhưng các chú không biết nên không tổ chức đón tiếp đấy thôi!

Ai cũng ngạc nhiên ngỡ ngàng khi nghe Bác nói vậy. Tuy nhiên, khi Bác bảo đưa thêm bát đũa và ngồi đợi thì chắc chắn là Người có khách thật rồi. Mọi người nhìn trước, ngó sau, thậm chí có đồng chí đi ra ngoài cổng xem khách đã đến chưa. Nhưng, vẫn không thấy bóng dáng ai xuất hiện. Ấy vậy mà Bác bảo khách đã đến. Lạ thật!

Nhìn anh em phục vụ đang băn khoăn, Bác Hồ quay đầu, hướng mắt về phía buồng ngủ, nói to:

- Xin mời chú Tạ Đình Đề vào xơi cơm với Bác!

Nghe Bác nói vậy các chiến sĩ phục vụ rất ngạc nhiên. Vì theo hướng nhìn của Bác thì người khách ấy đang ở trên mái nhà nơi buồng ngủ của Bác. Mặt khác, cái tên Tạ Đình Đề này lạ hoắc, các chiến sỹ mới nghe lần đầu và không hiểu sao vị khách này lại lọt được vào bên trong khu vực cần bảo vệ, rồi còn trèo lên được cả mái nhà của Bác. Vậy thì vị khách có tên Tạ Đình Đề thật sự xuất quỷ nhập thần rồi. Hiểu được tâm trạng của các chiến sĩ phục vụ, Bác Hồ bình tĩnh, nhỏ nhẹ:

- Đây là vị khách đặc biệt lắm, tài tình lắm. Các chú không thể đối phó được với chiêu thuật đi mây về gió của vị khách này được đâu.

Nghe Bác nói, các chiến sĩ phục vụ dù đã qua các lớp huấn luyện đặc biệt, có dày dạn kinh nghiệm trong công tác bảo vệ cũng không khỏi kinh ngạc.

Bỗng ánh mắt của Bác lại đổi hướng từ mái nhà phòng ngủ sang phía mái nhà bếp và nói lớn hơn với giọng đầy trách móc nhưng rất ấm áp vị tha:

- Chú Đề ơi! Bác mời chú xuống phòng ăn cơm cho vui với anh em sao chú lại bò sang mái nhà bếp vậy?

Lúc này, theo phản xạ tự nhiên, các chiến sĩ bảo vệ lập tức rút súng ra, lên đạn, có đồng chí chạy lại chỗ để điện thoại để quay số báo động, ra lệnh sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Bác. Nhưng thật lạ, Bác vẫn ung dung, mỉm cười ra hiệu các chiến sĩ không gọi điện, cất súng vào bao. Không khí trở nên bí hiểm, căng thẳng. Các chiến sĩ bảo vệ, phục vụ đang trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Bác. Thế mà, lạ thật, Bác vẫn bình tĩnh, đàng hoàng ngồi trên ghế. Sau đó, Bác xoay người hướng mắt lên mái nhà của phòng khách, cất giọng nói vừa tỏ ý khen ngợi vừa ra chiều trách móc nhưng rất ấm áp:

- Bác và cả nhà đang chờ chú xuống dùng cơm nhưng chú lại phi sang mái nhà phòng khách rồi. Bác khen chú thật giỏi đấy. Mãi đến giây phút này mà chú vẫn chưa bị lộ. Qủa thật, chú là một người tài ba. Nhưng, đừng để Bác và anh em chờ cơm chú lâu thế.

Bỗng như tia chớp, một người trần mắt thịt, nhanh nhẹn, hoạt bát nhảy từ tầng hai xuống sân nhà. Cũng nhanh như gió, người này chạy vào phòng khách, lách nhanh vào phòng ăn và đứng ngay trước mặt Bác Hồ. Các chiến sĩ bảo vệ cũng thủ thế sẵn sàng dùng võ thuật để đối phó nhưng Bác ra hiệu cho mọi người hãy bình tĩnh rồi nhìn vị khách mỉm cười thân thiện:

- Chào chú Tạ Đình Đề! Trông chú dạo này già dặn hơn trước nhiều, song có phần gầy và đen hơn lúc mới ra trường. Chắc chú cũng vất vả lắm phải không?

Một giây phút yên lặng trôi qua. Vị khách bí hiểm trong bộ đồng phục giống như một võ sĩ, nghiêng đầu đáp lễ và nói:

- Thưa Bác! Nếu cháu muốn, thì dù Bác có huy động toàn bộ lực lượng bảo vệ để truy bắt cháu thì cháu cũng có thể chạy thoát được. Còn đối với mấy vị bảo vệ này thì chẳng nhằm nhè gì với cháu cả.

Lập tức Bác đứng dậy, tiến đến vị khách không mời mà đến, đưa hai bàn tay nắm chặt tay người đó. Với ánh mắt nhân từ bao dung, Bác chỉ ghế, mời vị khách ngồi xuống bàn ăn. Nhưng, Tạ Đình Đề vẫn đứng như trời trồng, chắp hai hai tay trước bụng và lễ phép:

- Thưa Bác! Trước hết cháu xin bày tỏ lòng khâm phục của cháu đối với Bác. Thú thật, đứng trước mặt Bác, cháu linh cảm có một sức mạnh thúc đẩy cháu thay đổi từ thế thù nghịch sang niềm khâm phục, kiêu hãnh. Bây giờ, cháu xin hứa với Bác chấm dứt công việc của địch giao cho và xin phục tùng dưới sự điều hành, sử dụng của Bác.

Bác Hồ đặt hai tay lên hai vai của Tạ Đình Đề lay nhẹ, nói nhỏ:

- Bác hiểu. Bác tin vào sự chân thành của chú và đồng ý nhận chú làm việc giúp Bác.

Tạ Đình Đề rút trong người ra khẩu súng lục có gắn ống giảm thanh, rồi tháo những đầu đạn có sơn đỏ ra, cùng với chiếc ống nhòm, giấy tờ tùy thân giả và một tấm bản đồ vẽ nơi ở của Bác trao tất cả cho nhân viên bảo vệ. Chưa hết, Tạ Đình Đề móc trong kẻ răng một viên thuốc độc dành cho mình trong trường hợp bị bại lộ và đặt lên thành mâm cơm.

Từ là kẻ đi ám sát Tạ Đình Đề trở thành người cận vệ trung thành của Bác Hồ. Một trường hợp đổi vai thật kỳ diệu trong lịch sử nước ta. Trong nhiệm vụ bảo vệ lãnh tụ Hồ Chí Minh, Tạ Đình Đề chứng tỏ tài năng xuất chúng của mình.

2.
Tài liệu mà người nhà ông lưu giữ còn ghi lại một mẩu chuyện khá "tếu táo": Một dạo quân của đơn vị ông từ trong thành mang theo nhiều phim ảnh, trạm gác công an vùng tạm chiến cứ nằng nặc đòi bắt anh em mở ra khiến nhiều cuộn phim tài liệu do công sức và xương máu của anh em điệp báo nội thành bị hỏng hết. Hai bên đã xảy ra xô xát vài lần...

Biết chuyện, Tạ Đình Đề lặng lẽ sai một liên lạc viên kiếm một đôi bồ câu và buộc một túm giấy vớ vẩn vào chân chim và đem qua trạm gác... Như dự đoán, trạm khác nhất định đòi khám xét, còn người liên lạc thì nhất quyết khước từ. Hai bên to tiếng. Người liên lạc bảo: nó bay mất thì ai chịu trách nhiệm? Người gác trạm bảo: Tôi. Hai bên làm giấy cam đoan.

Do có chủ ý từ trước nên khi trao chim, người liên lạc giật nhẹ sợi dây cho chim bay mất và... nằm lăn ra gào khóc, nói là bị mất số tài liệu tuyệt mật. Đúng lúc ấy, Tạ Đình Đề xuất hiện và trình giấy tờ, cả Trạm gác như nhà có tang.

Bận ấy, ông đòi gặp bằng được Trưởng ty Công an tỉnh (Giám đốc Công an tỉnh hiện nay). Ban đầu, ông Trưởng ty cũng tưởng thật, khi biết chuyện "hoá giải" căng thẳng giữa hai bên, ông cười xoà. Ngay sau đó, ông Trưởng ty đã đóng kịch "xạc" cho cả trạm gác một trận ra trò.

3.
Người ta cũng kể lại rằng, hồi những năm 1976, người dân Hà Nội thấy một người đàn ông oai vệ cưỡi một chiếc xe máy diễu trên đường phố. Đó là Tạ Đình Đề. Một hôm, ông đang chạy trên đường thì gặp tai nạn với một chiếc ô tô.

Tiếng va quệt mạnh, cộng thêm tiếng sắt thép, kính vỡ khiến cho người đi đường tá hoả nghĩ ông Đề "chết là cái chắc". Khi lại gần, chẳng ai thấy ông Đề đâu. Một lát sau, có một người đàn ông từ trên cành cây xuống và... cười, không mảy may bị làm sao cả.

Chiếc xe của Tạ Đình Đề được trưng bày tại Cafe Báo, 62 Trần Quốc Toản, Hà Nội. Bây giờ nhà báo Nguyễn Ngọc Tiến đã đóng cửa quán, không biết ông để chiếc xe ở đâu?
 
Chỉnh sửa cuối:

meomun346

Xe lăn
Biển số
OF-206409
Ngày cấp bằng
16/8/13
Số km
10,393
Động cơ
393,112 Mã lực
Nơi ở
Nhiều nơi
Cảm ơn cụ chủ thớt về mấy mẩu chuyện hay.
 

tuannaff

Xe điện
Biển số
OF-95789
Ngày cấp bằng
18/5/11
Số km
2,070
Động cơ
415,000 Mã lực
Anh hùng ngày càng ít, đọc về cụ Đề ngẫm hiện tại cảm giác thật khó tả.

Hóng cụ đoạn phó viện trưởng VKS làm thế nào giải oan.
 

lum..zzz

Xe điện
Biển số
OF-49224
Ngày cấp bằng
22/10/09
Số km
4,012
Động cơ
491,531 Mã lực
Trời! Hay quá.
Cám ơn cụ đã cho em biết những thông tin chính xác trên.
Rảnh rỗi cụ lại vào cải chính hộ em cụ nhớ.
Lại cảm ơn cụ một lần nữa :)
Cụ ở SG à? Nếu HN hôm nào rảnh anh em làm cốc bia? Cụ với cụ Đề sao mà lập thớt này vậy. Có thớt cụ em hồi tưởng đc rất nhiều về ông cụ nhà em khi còn sống
 

oto.giacmoxa

Xe điện
Biển số
OF-61976
Ngày cấp bằng
16/4/10
Số km
4,857
Động cơ
479,063 Mã lực
Cu
Về cái tên Tạ Đình Đề thì nhà cháu chỉ nhớ câu:

Hoan hô anh Tạ Đình Đề
Trước là theo địch sau về với ta.
Hoan hô anh Lê Quảng Bá
Trước là thổ phỉ nay ra theo mình

(nghe đồn là thơ của cụ Bút tre thày của nhà cháu đấy)
 

Bình BK

Xe tăng
Biển số
OF-320132
Ngày cấp bằng
18/5/14
Số km
1,391
Động cơ
301,710 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
Cụ ở SG à? Nếu HN hôm nào rảnh anh em làm cốc bia? Cụ với cụ Đề sao mà lập thớt này vậy. Có thớt cụ em hồi tưởng đc rất nhiều về ông cụ nhà em khi còn sống
Dạ em ở SG cụ ạ, nếu có dịp ra HN em với cụ cạch bia cụ nhớ.
Với cụ Đề thì em chỉ là một kẻ hậu sinh, cảm khái khí phách của ấy thôi, không có liên hệ gì đâu cụ ạ.
Cám ơn và chúc cụ vui.
 

hieu hiekeng

Xe tải
Biển số
OF-189931
Ngày cấp bằng
16/4/13
Số km
445
Động cơ
334,140 Mã lực
đánh dấu theo dõi tiếp chuyện về cụ Đề
 

Bình BK

Xe tăng
Biển số
OF-320132
Ngày cấp bằng
18/5/14
Số km
1,391
Động cơ
301,710 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
Trước khi vào câu chuyện về cái duyên gặp gỡ giữa cụ Biểu với Tạ Đình Đề, chúng ta cùng ngược thời gian quay về dõi theo những năm tháng cụ Đề bị bắt lần thứ nhất và lần thứ hai. Để thấm hơn những oan khiên, tủi nhục mà cụ Đề đã phải trải qua các cụ nhớ.

Đoạn trích dưới đây là từ tư liệu của cụ Dương Thanh Biểu.

Chuyện tiếp tế thực phẩm cho cụ Đề.

Tạ Đình Đề bị bắt. Hàng tháng, gia đình được phép mang thức ăn đến phòng trực ban của Cơ quan điều tra để gửi đồ tiếp tế thăm nuôi. Trước đó mấy ngày, bà Thọ phải chạy ngược, chạy xuôi, vừa bế con, vừa xếp hàng mua thực phẩm về chế biến. Thường thì bà chuẩn bị các món tiếp tế cho chồng khá cầu kỳ. Thức ăn dùng ngay thì có miến xào, thịt bò xào hành. Thức ăn khô thì có muối vừng, ớt khô, ruốc thịt, lạc rang... Ngày gần tết có thêm bánh chứng xanh. Tất nhiên là bà không quên mang theo những gói thuốc lào Vĩnh Bảo nổi tiếng thời bấy giờ cho ông. Đây là thời buổi rất khó khăn nên bà đã dồn gần hết lương tháng của mình mua thức ăn tiếp tế cho chồng. Bà Thọ vừa chuẩn bị thức ăn gửi vào cho chồng vừa nghĩ: Dù cả nhà phải ăn rau với muối cũng nhất quyết không được để chồng mình bị đói khổ trong trại giam. Với những món ăn này, sắp tới chồng mình sẽ được ngon miệng đây.
Nghĩ vậy, bà cảm thấy con tim mình xao xuyến niềm hạnh phúc vô biên. Bà chuẩn bị được món nào thì xếp lên bàn cho khô ráo để mang đi. Mấy thằng con ăn uống kham khổ lâu ngày, nhìn thức ăn ngon cứ thèm nhỏ cả nước dãi. Bà nhìn thằng Hùng, thằng Tiến tranh nhau mấy hạt lạc rang mà lòng như có muối xát. Thương chúng nó quá! Lúc bố chưa bị bắt giam thì tiêu chuẩn tem phiếu của ông bà chủ yếu dành cho các con. Ông bà chỉ rau dưa đưa đẩy cho qua ngày đoạn tháng. Bây giờ, ông bị tạm giam, chỉ còn tem phiếu tiêu chuẩn của bà nên phải ưu tiên thực phẩm cho ông. Nhìn hai thằng con trai đang tuổi ăn, tuổi ngủ, bà rơm rớm nước mắt nhưng cũng nhẹ nhàng bảo: “Các con này. Bố ở trong trại giam thiếu đủ thứ. Bố tuổi đã cao, sức khỏe ngày càng yếu. Các con phải thương yêu bố, ưu tiên cho bố thì bố mới khỏe để chóng về với các con chứ. Lúc nào bố được ra, mẹ sẽ mua thật nhiều thức ăn cho các con nhé!”

Vậy mà,những thực phẩm cụ bà phải chạy ngược chạy xuôi gom góp, còn con cái cụ phải nhịn ăn từng hạt lạc rang. Nhưng... một ngày giáp tết, 27 tháng chạp năm 1975 [Bình BK].

Đã hơn một năm nay, kể từ ngày bị bắt, tôi chưa được gặp mặt vợ con lần nào. Tôi nhìn ra ô cửa sắt trên cao, mưa bụi bay mờ mờ. Lòng dạ tôi xốn xang. Con tim tôi bồn chồn, cứ đứng lên, ngồi xuống không yên. Sáng dậy, đúng lúc buồn nhớ nhà nhất thì tôi nhận được tin, sáng nay vợ và con được phép vào thăm tôi. Có lẽ không có gì vui hơn thế nữa. Tôi coi đây như một kỷ niệm sâu sắc nhất của cuộc đời.
Tôi sửa sang áo xống cho gọn gàng. Dù sao mình cũng từng là người lính mà. Ngoài bộ quần áo của trại, tôi khoác thêm chiếc áo bông mà bà Thọ đã gửi vào tháng trước. Khi đến phòng tiếp, tôi cố gắng giấu đi những cảm xúc nhiều chiều đang dâng lên trong mình và cố tỏ ra sức khỏe đang bình thường. Tôi đi nhanh nhẹn hơn. Cười to hơn. Những cái nắm tay chặt hơn. Nhưng tôi cứ váng vấp nỗi lo ngại, làm sao giấu được sự teo tóp gầy ốm của thân hình, da mặt thì tai tái nhợt nhạt, bước đi cũng không vững.
Đặc biệt, vết thâm quầng tại mi mắt phải làm sao dấu nổi.
Tôi đưa tay lên sờ vào vết thương đã được mười bốn ngày nhưng vẫn sưng tấy. Hôm đó, nhận được đồ tiếp tế của người nhà, đang mở thức ăn ra kiểm tra thì bị thằng đầu gấu, gã lưu manh chuyên nghiệp đã dùng tay đấm mạnh vào mắt mình và nói: Lão già ăn một mình hả. Tôi hoa cả mắt, nằm lăn ra tưởng chết vì quả đấm quá mạnh và bất ngờ. Khi tỉnh dậy, gói thức ăn mà người nhà gửi vào đã sạch như chùi...

Ngày ra gặp vợ con như một giấc mơ, tưởng như mình sống lại. Bà Thọ vừa nhìn thấy tôi đã bật òa khóc. Con bé Hiền Hương cũng sợ hãi khóc thét theo mẹ. Bà Thọ trao bé Hiền Hương cho tôi bế. Bà nắn vai tôi rồi lại khóc to hơn. Tiếng nấc nghẹn ngào làm người bà run lên bần bật. Sao nông nỗi này, mình bị đánh hả? Rét mướt thế này mà không giữ ấm cổ thì viêm phổi chết mất. Tôi nhìn bà cũng rưng rưng, lắc đầu: Không. Anh bị trượt ngã. Tôi cố giấu đi sự việc bị đánh nhưng không thể giấu được bà.
Bà vừa khóc, vừa nói, tay giật chiếc khăn đang quàng trên cổ mình quàng lên cho tôi. Bà lấy tay xoa lên vết thương. Em thương mình lắm. Mình cố ăn đi nhé. Mình gầy lắm rồi. Bà vừa nấc, vừa nói trong nghẹn ngào. Tiếp đó, bà Thọ kể chuyện nhà cho tôi nghe. Câu chuyện bị đứt quãng bỡi tiếng nấc vừa nghẹn ngào vừa uất hận của bà...

Hai thằng con trai của tôi, Hùng và Tiến thì vừa ôm chầm lấy bố vừa sợ hãi ngó nhìn khắp căn phòng. Tôi xoa đầu và ôm mấy đứa con vào lòng để nó bớt sợ hãi. Bỗng tất cả chúng nó cũng khóc theo mẹ rất to. Tiếng khóc của mấy mẹ con vang lên thống thiết trong phòng tiếp. Nhìn thân hình mảnh khảnh, nước da xanh xao của vợ, tôi thấy hết những vất vả, gian truân mà bà đang gánh vác.
Càng nghĩ, càng thương vợ vô cùng. Tôi vuốt ve lên đầu, lên vai các con, nói: Mẹ các con dạo này xanh xao và gầy lắm. Các con ở nhà nhớ thật ngoan nhé, đỡ đần công việc giúp mẹ với. Các con ngoan thì bố mẹ mới vui và khỏe mạnh chứ. Thằng Tiến cứ vuốt râu tôi. Mấy hôm nay trời hanh heo, rét buốt nên tôi không buồn cạo râu nữa, được thể nó mọc càng nhanh. Bỗng thằng Hùng hỏi: Bố mệt lắm không? Tôi ôm chặt nó và nói như muốn xua đi sự lo lắng đang đè nặng gian phòng: Bố khỏe con ạ!

Bà Thọ định nói với tôi một điều gì mà không hiểu sao cứ ấp a ấp úng. Chắc là tin quan trọng đây. Có lẽ bà sợ tôi buồn. Bởi vì, hơn một năm nay chúng tôi mới gặp nhau mà. Cuối cùng, bà cũng nói ra cho tôi nghe cái tin như sét đánh. Thằng Hùng đang là sinh viên năm thứ hai Trường Đại học Bách khoa thế mà, vừa rồi đã bị đuổi học. Thằng Hùng nghe vậy, nhìn xa xăm, cố che đi những giọt nước mắt đang lăn dài trên gò má. Vợ chồng tôi nghẹn ngào, không nói thêm được câu gì nữa. Nghe vợ nói và nước mắt Hùng giàn dụa, tôi chợt thấy ân hận vô cùng. Thế là, việc làm của mình đã hệ lụy tới con cái. Tội nghiệp chúng quá!
 

Bình BK

Xe tăng
Biển số
OF-320132
Ngày cấp bằng
18/5/14
Số km
1,391
Động cơ
301,710 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
Những oan khiên, tủi nhục mà cụ Đề phải chịu còn nhiều, nên em tạm gác lại.
Để nói tiếp diễn biến chuyện cụ Biểu lần đầu tiên gặp gỡ thần tượng Tạ Đình Đề.

Cụ Biểu kể.

Vừa chân ướt chân ráo chập chững vào nghề Kiểm sát thì tôi nhận được tin dữ: Sắp tới Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội sẽ xét xử Tạ Đình Đề.
Nhận được tin này, tôi cứ thắc mắc và đặt câu hỏi: Tại sao con người huyền thoại ấy lại bị bắt và bị xét xử? Không hiểu ông ấy phạm tội gì và chắc là nghiêm trọng mới bị xét xử?
Thế rồi, mặc dù bận bịu công việc nhưng tôi được lãnh đạo đơn vị đồng ý cho đi dự phiên tòa này. Chật vật mãi tôi mới xin được cái giấy mời tham dự phiên tòa. Tôi chỉ muốn được tận mắt gặp lại nhân vật huyền thoại mà suốt tuổi ấu thơ tôi thường được nghe chuyện về ông.
Khi nhìn thấy ông trên ghế bị cáo, một ông già dáng người nho nhỏ, nước da xanh xao, đôi má gầy hóp nhưng đôi mắt rất tinh anh. Nhìn ông đứng trước vành móng ngựa mà con tim tôi nhói đau. Sao ngày xưa ông là thần tượng của lũ con nít chúng tôi mà bây giờ lại nên nông nỗi này? Tôi cũng chẳng biết vì sao mà Tạ Đình Đề lại bị Viện kiểm sát nhân dân tối cao truy tố nhiều trọng tội nặng nề đến như thế.
Nhìn thấy ông tôi thầm nghĩ: Trong tôi như có hai con người giằng xé nhau. Một người thì chép miệng cho rằng, ông này đã đổi thay, sống hưởng lạc, bị vướng vào viên đạn bọc đường rồi. Một người khác thì cứ khăng khăng cho rằng, không thể như vậy được, tin rằng thần tượng của mình không thể “chết được”.

Và rồi, niềm tin của cụ Biểu đã phần nào trở thành sự thật.

Nhưng có điều thật lạ, phiên tòa kéo dài sáu ngày, mỗi ngày mang đến cho tôi những ấn tượng đặc biệt. Người các nơi kéo đến tham dự phiên tòa mỗi ngày một đông lên. Đến nỗi, tôi có giấy mời mà không thể vào phòng xử án được, đành ngồi ngoài hành lang ngó vào, để nghe phiên tòa.
Mỗi ngày xét xử là những màn pháo tay rộn ràng mỗi khi nghe Tạ Đình Đề hay luật sư hoặc người đại diện của cơ quan ông Đề phát biểu.
Màn kịch tính đúng vào ngày xét xử cuối cùng, khi bà Chủ tọa Hội đồng xét xử tuyên bố Tạ Đình Đề không phạm tội và tha bổng tại phiên tòa.
Cả khu vực Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và những nơi lân cận vỡ òa bởi tiếng hò reo như sấm dậy. Nhiều người mắt đỏ hoe, rưng rưng vì vui sướng khi nghe tin Tạ Đình Đề được tuyên bố vô tội.
Con tim tôi đập rộn ràng khi chứng kiến ông Tạ Đình Đề đang vẫy tay chào mọi người. Rất nhiều người ùa vào tặng hoa ông, rồi công kênh ông và hô vang: Tạ Đình Đề. Tạ Đình Đề. Tạ Đình Đề.
Tôi mỉm cười mà nước mắt tuôn trào. Tôi cố len vào để được nhìn ông, cầm tay ông nhưng vì người đến với ông quá đông nên không sao đến gần được. Lúc ông Đề được công kênh lên cao, tôi thấy ông mỉm cười, giơ tay vẫy chào mọi người với ánh mắt tinh anh và hiền từ như bao người dân bình dị khác.
Mọi người hô vang tên ông. Tôi cứ tưởng tượng Tạ Đình Đề là vị thống soái quân sự từ mặt trận xa xôi chiến thắng trở về. Câu chuyện về ông Đề được tha bổng tại phiên tòa trong những ngày đầu tháng 6‐1976, khiến hàng nghìn người vỡ òa trong hạnh phúc. Cảnh tượng có một không hai đó như ánh hào quang tỏa sáng lung linh xung quanh ông, càng tô đạm chất huyền thoại về Tạ Đình Đề.

Phiên xử của bà thẩm phán Phùng Lê Trân đã giúp cụ Biểu có được lần gặp gỡ thứ nhất với Tạ Đình Đề. Thế nhưng, phải mãi tới lần thứ hai cụ Đề bị bắt thì cụ Biểu mới có một cơ hội thực sự để minh oan cho Tạ Đình Đề.

Tôi có ý định, sau phiên tòa, sẽ xin phép gặp ông để tiếp tục được trò chuyện về cuộc đời, nhân tình thế thái. Tôi biết ông đang nghỉ ngơi ít hôm ở quê nên đành phải chờ đợi. Đang chờ gặp ông thì bỗng nghe tin như sét đánh: Bản án tuyên ông Đề vô tội đã bị kháng nghị phúc thẩm. Theo luật, Tòa án nhân dân tối cao sẽ xét xử lại vụ án này. Như vậy, số phận ông lại phải chờ phiên tòa phúc thẩm định đoạt. Nghe tin dữ này tôi càng thương cho ông, lại phải chuẩn bị ra tòa lần nữa. Thế là phải chờ kết quả phiên tòa phúc thẩm mới thực hiện được ý định gặp ông.

Vào những năm 80 của thế kỷ trước với những khó khăn chồng chất trong cuộc sống mưu sinh tưởng chừng không có gì khổ hơn thế nữa, tôi cũng như bao người cán bộ công chức nghèo thành thị phải bươn chải, để duy trì cuộc sống gia đình. Tôi cứ chờ hoài mà vẫn chưa thấy Tòa án xét xử lại vụ án ông Đề. Câu chuyện về phiên tòa xét xử phúc thẩm đối với ông Đề cũng tạm lắng xuống, không ai nhắc tới nữa.
Thế rồi, mười năm sau, kể từ ngày xét xử sơ thẩm vụ án ông Đề, một tình huống hết sức đặc biệt lại xẩy ra. Tôi thật bất ngờ lại có duyên, một cái duyên đặc biệt, được gặp Tạ Đình Đề trong hoàn cảnh đặc biệt. Vào thời gian này đơn vị Vụ 2C Viện kiểm sát nhân dân tối cao được giao nhiệm vụ kiểm sát điều tra vụ án tuyên truyền phản cách mạng, do Cơ quan an ninh điều tra Bộ Công an thụ lý. Bị can của vụ án không ai khác, chính là Tạ Đình Đề. Tạ Đình Đề bị khởi tố bắt giam về tội an ninh quốc gia. Đó là loại tội đặc biệt nghiêm trọng.

Lúc này tôi chỉ là cán bộ nghiên cứu giúp việc cho các Kiểm sát viên trong đơn vị nên cũng băn khoăn, không hiểu vì sao, ông Đề là người có công với nhân dân, với đất nước, vụ án bị kháng nghị chưa được xét xử, lần này lại bị khởi tố về tội nghiêm trọng đến như vậy? Tôi cũng chỉ biết cảm nhận vậy thôi, vì lúc đó, vụ án này được lãnh đạo Vụ 2C giao cho các Kiểm sát viên trong đơn vị thụ lý. Tuy nhiên, tôi thường lân la chuyện trò và phục vụ chè nước cho mấy ông anh đang làm vụ án nên “nghe lỏm” được vài nội dung vụ án.
Rằng Tạ Đình Đề có hành vi tuyên truyền chống chế độ rồi bị bắt giam kéo dài, thậm chí đã gia hạn tạm giam đặc biệt...
Sau đó một thời gian, tôi được nghe cụ thể hơn. Vụ án được Cơ quan điều tra rất chú ý, trước sau nhất nhất đòi truy tố Tạ Đình Đề. Trong lúc đó lãnh đạo Vụ 2C thì phân vân, có tội hay chưa cấu thành tội. Nên vụ án được đưa ra thảo luận ở Vụ 2C để xem Tạ Đình Đề có tội hay không!
Ban đầu nhiều ý kiến cho rằng Tạ Đình Đề có tội, phải đưa truy tố. Có ý kiến dè dặt nói nước đôi.
Tôi cũng đã phần nào nắm được một số nội dung vụ án và với chất “máu lính” nên cho rằng khó có thể tin Tạ Đình Đề phạm tội chống lại Tổ quốc.

Ít hôm sau, vụ án lại được đưa ra thảo luận trong buổi học tập nghiệp vụ của đơn vị. Trong buổi thảo luận này, vì tôi đã nắm kỹ hơn các tình tiết cụ thể của vụ án nên đã mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình:
Rất băn khoăn trong việc khởi tố, bắt giam Tạ Đình Đề về tội tuyên truyền chống chế độ. Bởi vì, hành vi của Tạ Đình Đề trong việc thu lượm và đọc cho một số người nghe những câu ca dao hò vè có tính chất châm biếm, cũng xuất phát từ động cơ bất mãn. Mặt khác, tôi quá tin vào Tạ Đình Đề, một con người luôn tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo và thực sự ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kể cả trong chiến đấu chống ngoại xâm và trong xây dựng kinh tế. Ông không thể là người có tư tưởng chống lại sự nghiệp cách mạng mà ông đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp ấy.
Ý kiến của tôi lúc đầu cũng bị nhiều người phản đối. Thậm chí có ý kiến cho rằng tôi là người tình cảm chủ nghĩa, có tư tưởng hữu khuynh.
Thôi thì hữu khuynh hay tả khuynh lúc này không quan trọng. Điều quan trọng hơn là phải nghiên cứu kỹ các tài liệu của hồ sơ vụ án và nắm vững các quy định của pháp luật để phát biểu chính xác, hy vọng góp phần nhỏ giúp lãnh đạo Vụ 2C có những quyết định chính xác.
Được bày tỏ quan điểm về vụ án, tôi cứ mơ ước, một ngày nào đó được tham gia giải quyết vụ án này, để trực tiếp lật từng trang hồ sơ, đọc kỹ, nghĩ kỹ để xem ông ta khai như thế nào và chứng cứ kết tội hay gỡ tội ra sao. Trên cơ sở đó, đưa ra các ý kiến, phát biểu thế nào cho thuyết phục hơn. Tôi cũng không ngờ, ước mơ trên đã trở thành sự thật.

Thì ra trong các buổi thảo luận ở vụ, khi mình phát biểu về những băn khoăn đối với việc bắt giam ông Đề, thì lại được lãnh đạo Vụ 2C “chú ý”, sau đó lãnh đạo đã giao cho tôi nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ vụ án và đề xuất quan điểm xử lý đối với Tạ Đình Đề.
Lúc đầu nhận nhiệm vụ rất phấn khởi nhưng khi bắt tay vào nghiên cứu một chồng hồ sơ dày cộm thấy lo. Trước đây cũng chỉ xem báo cáo rồi suy luận phát biểu. Bây giờ trước mặt bàn là một chồng hồ sơ với nhiều tài liệu phức tạp như “trận đồ bát quái” thế này không hiểu đọc thế nào cho nhớ và tổng hợp, đánh giá các tài liệu đó ra sao đây. Mặt khác, các Kiểm sát viên kỳ cựu, đàn anh trước đây đã nghiên cứu và phát biểu, không hiểu bây giờ mình đưa ra quan điểm trái ngược thì có “phạm thượng”, có xẩy ra vấn đề gì không? Tôi coi đây vừa là vinh dự, trách nhiệm nhưng cũng đồng thời là một thử thách rất lớn trong cuộc đời mình. Tôi tự nhủ, được lãnh đạo tin cậy, không có cách nào hơn là phải nghiên cứu một cách thận trọng, khách quan, khi phát biểu đề xuất phải khiêm tốn, có lý có tình, kết hợp tham khảo ý kiến các Kiểm sát viên có nhiều kinh nghiệm trong đơn vị.
 

Bình BK

Xe tăng
Biển số
OF-320132
Ngày cấp bằng
18/5/14
Số km
1,391
Động cơ
301,710 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
Em tiếp mạch diễn biến cụ Biểu minh oan cho Tạ Đình Đề các cụ nhớ.

Nghiên cứu hồ sơ và kết quả điều tra số 11547/A24 ngày 29‐11‐1986 đề nghị truy tố Tạ Đình Đề phạm tội tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa thấy có nhiều băn khoăn. Không hiểu sao đến lúc này vụ án đã được gia hạn tạm giam đặc biệt tới lần thứ 4 rồi mà cơ quan bạn vẫn tiếp tục để nghị gia hạn tạm giam tiếp với nội dung như trước đây đã đề cập. Có lẽ đây là trường hợp đầu tiên được gia hạn tạm giam nhiều lần đến như vậy. Còn về nội dung thì càng đi sâu nghiên cứu càng thấy những chứng cứ để kết tội cho bị can Tạ Đình Đề vẫn gồm các tài liệu như các lần gia hạn trước đây.
Vấn đề cốt lõi là quan điểm đánh giá chứng cứ giữa Vụ 2C, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và đơn vị bạn rất khác nhau. Đọc đi đọc lại những lời khai của Tạ Đình Đề thấy ông đã thừa nhận có đọc một số câu ca dao hò vè thời bao cấp nhưng không nhằm mục đích đả kích cá nhân nào.
Tôi thật sự băn khoăn khi thấy ông trình bày rằng, sau khi bản án sơ thẩm tuyên ông vô tội nhưng bị kháng nghị yêu cầu Tòa án nhân dân tối cao xét xử phúc thẩm, ông đã chờ đợi suốt gần 10 năm mà Tòa án nhân dân tối cao vẫn không đưa ra xét xử. Việc Tòa án chậm trễ trong việc đưa vụ án này ra xét xử đã dẫn đến hậu quả tai hại cho ông. Đó là, ông Đề mất việc làm, các con và gia đình ông bị người đời đố kỵ, khinh bỉ một cách ghẻ lạnh.
Như vậy, việc ông Đề có đọc các câu ca dao hò vè ấy thì cũng dễ hiểu và hoàn toàn xuất phát từ động cơ bất mãn chứ không phải để nhằm chống lại chế độ xã hội chủ nghĩa như quan điểm của cơ quan bạn.

Đến bây giờ tôi còn nhớ, trong các lần họp Vụ 2C sau này để thảo luận vụ án, tôi đã báo cáo toàn bộ các tài liệu hồ sơ vụ án Tạ Đình Đề: Hành vi vi phạm, động cơ mục đích của hành vi, căn cứ pháp luật áp dụng và quan điểm về đường lối xử lý vụ án.
Tôi không đồng tình với loại ý kiến thứ hai cho rằng, bị can Tạ Đình Đề đã có hành vi phạm tội như kết luận của Cơ quan điều tra. Vì như thế sẽ biến người dân bị ức chế mà có phát ngôn do bất mãn, đẩy họ thành kẻ chống đối chế độ là không hợp tình, hợp lý. Mặt khác, nếu coi đây là tiền lệ để áp dụng xử lý các trường hợp tương tự sau này thì vô hình dung chúng ta sẽ đẩy hàng loạt người từ ta sang địch.
Trong tình hình kinh tế, xã hội phức tạp hiện nay thì quan điểm này sẽ dẫn tới một tình hình càng nguy hiểm hơn.

Loại ý kiến khác mang tính trung dung cho rằng Tạ Đình Đề có hành vi tuyên truyền chống chế độ nhưng bản án sơ thẩm tuyên bố Tạ Đình Đề không phạm tội đã bị Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đến nay đã 10 năm vẫn chưa được xét xử. Vì vậy, không nên đưa vụ án này ra truy tố, xét xử mà chuyển sang biện pháp xử lý tập trung cải tạo.
Tôi thấy nhiều người gật đầu tán thành ý kiến trên đây. Nhưng tôi lại ghê sợ ý kiến này. Tôi đã được đi cùng các đồng chí lãnh đạo Vụ 2C xác mình giải quyết một số trường hợp bị tập trung cải tạo oan và thấy người bị tập trung cải tạo oan còn khổ sở hơn bị xét xử oan.
Bởi vì, người nào bị xét xử oan thì sau chấp hành xong hình phạt là được tha. Nhưng đối với tập trung cải tạo thì có thể được gia hạn và sẽ kéo dài không biết lúc nào kết thúc. Trong trường hợp ông Đề, hơn 70 tuổi mà bị tập trung cải tạo như ý kiến đề xuất trên đây thì rất có thể ông sẽ bị cải tạo kéo dài và sẽ chết trong trại. Chế độ ta tất cả vì con người, không cho phép có biện pháp tàn nhẫn như vậy đối với những người có công với dân với nước được?

Cuộc họp “nóng” lên với nhiều ý kiến tranh luận, có lúc rất gay gắt xoay quanh vấn đề Tạ Đình Đề có tội hay không. Sau đó có nhiều cuộc họp giữa Vụ 2C và các đơn vị tham mưu của các ngành Trung ương nhưng cũng không thống nhất về xử lý vụ án này nên như thế nào.

Các cuộc họp cứ kéo dài triền miên mà ông Đề vẫn ngồi bó gối trong trại.
 

Bình BK

Xe tăng
Biển số
OF-320132
Ngày cấp bằng
18/5/14
Số km
1,391
Động cơ
301,710 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
Cụ Tạ Đình Đề được tạm tha

Trích tư liệu của cụ Biểu,
Lãnh đạo Vụ 2C rất ủng hộ quan điểm của tôi là Tạ Đình Đề không phạm tội và không thể áp dụng biện pháp tập trung cải tạo. Nhưng sau đó có sự chỉ đạo của cấp trên nên Tạ Đình Đề lại bị tiếp tục gia hạn tam giam. Vụ 2C đã yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, thu thập thêm tài liệu, chứng cứ.
Tôi còn nhớ, Tạ Đình Đề bị gia hạn tạm giam rất nhiều lần. Trong đó có lần phải gia hạn tạm giam đặc biệt lần năm (từ ngày 23‐11‐1987 đến ngày 23‐3‐1988). Bây giờ binh tâm nghĩ lại và trao đổi với các bác lớp trước thì mọi người đều thừa nhận, lúc đó Viện kiểm sát nhân dân tối cao phê chuẩn gia hạn tạm giam kéo dài đối với Tạ Đình Đề cũng là hữu khuynh, không làm đúng bổn phận là cơ quan giám sát pháp luật.
Trong cuộc họp của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao do đồng chí Viện trưởng Trần Lê chủ trì để nghe Vụ 2C báo cáo toàn bộ vụ án Tạ Đình Đề, chúng tôi mạnh dạn báo cáo quan điểm về xử lý vụ án Tạ Đình Đề. Chúng tôi thật sự phấn khởi khi được đồng chí Viện trưởng và tập thể lãnh đạo Viện hoàn toàn nhất trí với đề xuất của Vụ 2C là hành vi của Tạ Đình Đề không phạm tội, cần được đình chỉ điều tra.
Để thực hiện quan điểm này, Vụ 2C đã có nhiều cuộc họp với các ngành nhằm phân tích thuyết phục để tạo sự đồng thuận của các ngành. Sau cuộc họp tại Cơ quan điều tra, tôi rất phấn khởi khi thấy lãnh đạo Vụ 2C thông báo cho biết là đã thống nhất tạm tha Tạ Đình Đề. Có đặt vào hoàn cảnh thời bấy giờ mới thấy việc Cơ quan điều tra đồng thuận với Vụ 2C tạm tha Tạ Đình Đề đã là bước đột phá, không dễ chút nào.

Đúng ngày 05‐12‐1987 Tạ Đình Đề được tạm tha.

Nhưng đau thương vẫn tiếp tục

1. Ngôi nhà số 8 Hàng Ngang

Cụ Tạ Đình Đề kể,
“Căn nhà ấy là máu, là thịt của vợ chồng chúng tôi đấy. Nó nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, tọa lạc trên khu đất rộng hàng trăm m2 . Bây giờ, tại nơi ấy mỗi “tấc đất là tấc vàng” mà. Giá trị vật chất là vậy, nhưng không so được với giá trị tinh thần. Vì ở đó đã nẩy nở tình yêu đầu đời của hai chúng tôi. Cũng chính nơi căn nhà này, anh em đội biệt động thành Hà Nội năm xưa đã nắm chặt tay cùng thề với nhau: Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, của Bác Hồ, nguyện suốt đời chiến đấu, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân! Cũng chính nơi đây, chúng tôi được cụ bà thân sinh ra người yêu tôi che chở, nuôi dưỡng như những đứa con yêu quý của mình. Trước khi qua đời, cụ đã di huấn để lại cho vợ chồng chúng tôi ngôi nhà này. Nhưng nay, ngôi nhà ấy đâu còn nữa!”

Giá như ngôi nhà ấy bị Nhà nước trưng thu thì cũng đành lòng vậy và chẳng phải suy nghĩ gì nhiều. Vấn đề lại là do tôi mà cái nhà ấy không còn nữa. Xót xa lắm!
Lần thứ nhất tôi bị tạm giam gần hai năm vê tội kinh tế, nhà chẳng còn gì, vợ tôi phải đi vay nợ, chạy vạy để có tiền hàng tháng tiếp tế cho tôi. Vợ con tôi phải nhịn mồm nhịn miệng để nhường thức ăn cho tôi. Thực ra những đồ tiếp tế ấy tôi được ăn chẳng bao nhiêu mà bọn đầu gấu tranh giành phần lớn.

Khi tôi được tha tù lần thứ nhất trở về, vợ bảo tôi: Em không muốn nhưng hiện nay nợ nần nhiều quá, phải bán căn nhà trả nợ anh ạ. Lúc đó tôi sửng cồ nói: Phải giữ cái nhà ấy bằng mọi giá. Bây giờ anh về rồi, sẽ đi làm lấy tiền trả nợ. Nhưng rút cục, tôi vẫn mất việc làm vì bản kháng nghị quái ác ấy và Tòa án cứ kéo dài hàng chục năm không xét xử, dẫn đến tôi trở thành người ăn bám vợ. Sau đó tôi lại bị bắt giam lần thứ hai. Rồi vợ tôi phải đi vay mượn tiếp để có tiền thăm nuôi hàng tháng. Đến mức sức ép của nợ nần lên cao, không trả được, vay tiếp thì không ai cho.
Khi tôi được ra tù, có lần vợ chồng chuyện trò, bà Thọ nói:
Lúc anh bị bắt lần thứ hai gia đình hết sạch tiền, đồ đạc trong nhà cũng lần lượt bán hết để hàng tháng tiếp tế cho anh. Đã thế, mỗi khi ra khỏi nhà là em bắt gặp những ánh mắt tò mò, người thì thương hại, kẻ thì ghẻ lạnh! Có lúc em muốn chết quách đi cho rồi, sống cơ cực và nhục nhã thế này thì sống làm gì? Nhưng rồi em lại nghĩ đến anh đang ở trong tù, các con đang còn thơ dại. Không thể chết được. Phải sống để thăm nuôi anh, chờ đợi anh về và chăm sóc các con khôn lớn...
Mỗi lần được thăm nuôi anh em phải chạy đôn chạy đáo vay tiền khắp nơi. Vay mãi, người quen cũng chẳng còn tiền, em nghĩ chỉ có cách duy nhất là phải bán nhà. Trước khi bán, em đấu tranh tư tưởng lắm: Ngôi nhà số 8 Hàng Ngang là kỷ vật của bố mẹ em để lại, là kỷ niệm đẹp đẽ của tình yêu lưu luyến thủa ban đầu giữa anh và em. Đã có lần anh bảo em là phải giữ lại ngôi nhà này. Nhưng đến lúc này thì không còn cách nào khác, đành phải bán nhà để trả nợ và thăm nuôi chồng, nuôi con. Việc quyết định bán ngôi nhà này cũng là hy vọng anh sẽ về với vợ với con.

Nghe bà Thọ kể lại, tôi nghĩ, ngôi nhà ấy, ngoài những kỷ niệm đẹp đẽ của quá khứ, còn là vật cứu mạng sống của tôi, nếu không thì chết trong tù rồi. Vì vậy, nói đến ngôi nhà số 8 Hàng Ngang là nói đến máu thịt của tôi đấy. Cao hơn nữa là nói đến tình yêu thương và sự hy sinh chia sẻ của vợ con cho tôi. Tôi nợ người thân nhiều lắm!

Cụ Đề và Tướng Hoàng Minh Thảo tại Thanh Oai, Hà Tây, ảnh tư liệu gia đình cụ Đề


2. Cụ Đề bị khai trừ khỏi ***

Trích tư liệu của cụ Biểu,
Từ khi được tạm tha, ông Đề thường đến cơ quan Viện kiểm sát nhân dân tối cao để gửi đơn khiếu nại. Tôi là người được lãnh đạo Vụ 2C phân công tiếp đón và nhận đơn của ông. Thế rồi cái duyên cuộc đời chúng tôi lại có dịp được gặp nhau thường xuyên hơn.

Có một hôm, ông Đề đến gặp tôi ở cơ quan thông báo tin dữ rằng, ông vừa bị khai trừ ra khỏi đảng.
Ông nhìn tôi chớp mắt: “Nhận quyết định bị khai trừ khỏi đảng, tôi cảm thấy con tim mình nhói đau. Nói thật, nếu như không có dũng khí thì lúc đó tôi đã quỵ đổ rồi. Cả cuộc đời theo Bác Hồ làm Cách mạng, đến đây coi như bằng không.
Tôi suy nghĩ mãi, từ khi đọc lời thề trước lá cờ Đảng, tôi đã nguyện cống hiến hết cả cuộc đời mình cho cách mạng cho dân tộc, không ngại hy sinh gian khổ, giữ gìn phẩm chất, thương yêu đồng chí đồng đội. Suốt cuộc đời, tôi đã phấn đấu và làm hết sức mình để giữ vững lời thề đó. Tôi làm nên tội tình chi mà đến nỗi họ khai trừ tôi ra khỏi đảng”.
Khi tôi hỏi lý do thì ông cho tôi biết, cơ quan có trách nhiệm giải thích rằng, lệnh tạm tha có ghi Tạ Đình Đề đã khai nhận rõ về hành vi tuyên truyền chống chế độ xã hội chủ nghĩa được quy định tại Điều 82 Bộ Luật hình sự, nay không còn tiếp tục tạm giam nên mới dẫn đến bị khai trừ khỏi Đảng như vậy.

Nghe ông nói mà tôi thấy chạnh lòng. Thì ra cái quyết định tam tha “nửa vời” ấy đã dẫn đến hậu họa này. Tôi xem lại hồ sơ và không thấy bản cung nào ông Đề nói như vậy. Tôi báo cáo việc này với lãnh đạo Vụ 2C. Các đồng chí lãnh đạo cho biết, lệnh này do Cơ quan điều tra tiến hành và khi trao đổi về nội dung này cũng rất căng thẳng. Nhưng để thực hiện mục tiêu cho ông Đề tại ngoại thì trước mắt cần chấp nhận như vậy rồi tính tiếp.
Đúng là vì cái lệnh oái oăm này mà ông Đề phải bị khai trừ ra khỏi Đảng. Mấy hôm sau đó, mỗi khi nghĩ về ông, tôi cảm thấy băn khoăn và có phần hối hận vì hậu quả tai hại của quyết định tạm tha đó. Khi ông Đề được tạm tha, cái quyết định kháng nghị kia vẫn còn như chiếc thòng lọng sẵn sàng choàng vào cổ ông bất cứ lúc nào, rồi quyết định tạm tha bỏ lửng kia cứ như lưỡi dao oan nghiệt đã cắt đứt mọi liên hệ giữa ông với Đảng, một tổ chức đã gắn chặt vào máu thịt của ông.

Vào thời gian này, tại cổng các cơ quan công quyền, xuất hiện một cụ già ngoài 70, dáng người gầy xo, đi chiếc xe đạp toòng teng, không phanh, không gác đơ bu vác đơn đi khiếu nại. Đó là ông Tạ Đình Đề. Lúc thì ông đến Tòa án nhân dân tối cao khiếu nại về việc bản án đã kháng nghị được hơn mười năm mà chưa được xét xử. Có hôm ông đến Viện kiểm sát nhân dân tối cao khiếu nại việc ông được tạm tha gần hai năm nay rồi bỏ lửng nhưng chưa được giải quyết. Lúc thì ông đến các tổ chức Đảng khiếu nại về kỷ luật khai trừ ông ra khỏi Đảng...

Tôi đã báo cáo tình hình khiếu nại trên đây và đề xuất giải quyết dứt điểm, không để kéo dài về khiếu nại thuộc trách nhiệm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Lãnh đạo Vụ 2C cho biết, tuy có ý kiến kết luận của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao về đình chỉ Tạ Đình Đề nhưng ý kiến các ngành cũng còn nhiều quan điểm khác nhau. Thời gian này tôi phải xách cặp tháp tùng các đồng chí lãnh đạo Vụ 2C, đi thuyết phục các ngành về quan điểm của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao.
Thế mới biết, quan điểm xử lý vụ án đã được lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao cho ý kiến nhưng để có được sự đồng thuận của các cơ quan hữu quan lúc này, quả thật không dề dàng.
 
Chỉnh sửa cuối:

3convit

Xe điện
Biển số
OF-152333
Ngày cấp bằng
10/8/12
Số km
3,750
Động cơ
382,850 Mã lực
Anh hùng ngày càng ít, đọc về cụ Đề ngẫm hiện tại cảm giác thật khó tả.

Hóng cụ đoạn phó viện trưởng VKS làm thế nào giải oan.
Sai. :D
Ngày càng nhiều, nhiều vô kể. Thời này là anh hùng bàn phím. Em cũng khiêm tốn xếp mình vào đó. :D
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top