Ảnh vua Thành Thái trong trang phục Tây.
Vua Thành Thái 成泰 [ sinh 14 tháng 3 năm 1879 – mất 20 tháng 3 năm 1954], tên thật là Nguyễn Phúc Bửu Lân 阮福寶嶙, là vị hoàng đế thứ 10 của nhà Nguyễn, tại vị từ 1889 đến 1907.
Do chống Pháp nên ông, cùng với các vua Hàm Nghi và Duy Tân, là 3 vị vua yêu nước trong lịch sử Việt Nam thời Pháp thuộc bị đi đày.
Ông có một tuổi thơ khá bi kịch, cha ông, vua Dục Đức, bị 2 đại thần Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phế truất và chết trong tù. Đến nǎm được chín tuổi, vì ông ngoại là Phan Đình Bình [Thượng thư bộ Hộ] bị vua Đồng Khánh bắt giam rồi bỏ cho chết vì mắng Đồng Khánh nịnh bợ và thân Pháp khi Đồng Khánh ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi đầu hàng, nên ông lại phải cùng mẹ lên kinh đô, chịu sự quản thúc, sống trong cảnh thiếu thốn.
Ngày 28 tháng 1 năm 1889, vua Đồng Khánh yểu bệnh qua đời ở tuổi 24. Khi đó con vua Đồng Khánh là Bửu Đảo mới 3 tuổi nên không nối ngôi được, triều đình Huế xin ý kiến của Tổng trú sứ Trung-Bắc Kỳ là Pierre Paul Rheinart.
Ở tòa Khâm sứ lúc này có ông Diệp Văn Cương đang làm thông ngôn. Diệp Vǎn Cương lấy cô ruột của Bửu Lân, và cũng có cảm tình thương hại vua Dục Đức [anh vợ], nên cố tìm cách cho cháu mình lên ngôi. Ông dịch cho Khâm sứ Rheinart nghe hoàn toàn khác với ý của Viện Cơ mật.
Viện cơ mật hỏi quan khâm sứ muốn chọn ai, ông lại dịch thành:
- Viện cơ mật và các bà Thái hậu muốn chọn Hoàng tử Bửu Lân lên ngôi, quan khâm sứ có ý kiến thế nào?
Viên khâm sứ trả lời:
- Nếu các ngài đã đồng ý thì tôi xin tán thành.
Ông Cương lại dịch khác đi:
- Theo ý tôi thì các quan nên chọn Hoàng tử Bửu Lân là hợp...
Vì thế Bửu Lân được chọn lên ngai vàng. Khi phái đoàn của triều đình đến rước Bửu Lân lên ngôi, bà Từ Minh khóc van xin phái đoàn tha cho con, nghĩ tới cảnh chồng mình là vua Dục Đức và thảm kịch bốn tháng ba vua trước đây nên khóc lóc, năn nỉ. Sau một hồi khuyên giải, bà Từ Minh mới chấp nhận.
Vua Thành Thái được đánh giá là người cầu tiến, yêu nước và chống Pháp. Khác với những vị vua trước đây, ông học chữ Nho, học tiếng Pháp và cũng cho cả con cái của mình cùng theo học chữ Pháp. Không nói ra, nhưng rõ ràng ý định của ông là học chữ Pháp để có thể giao tiếp với những người này với tinh thần chống Pháp. Ông còn cắt tóc ngắn, mặc âu phục, học cả lái ca nô, xe hơi, làm quen với vǎn minh phương Tây. Là vị vua gần gũi với dân chúng, ông thường xuyên đi vi hành.
Trước các ý tưởng cấp tiến của vua, người Pháp lo ngại.
Ngày 29 tháng 7 năm 1907, nhân dịp vua Thành Thái không phê chuẩn việc bổ nhiệm một số quan lại đã được Khâm sứ Lévêque và Hội đồng Thượng thư thỏa thuận, Lévêque đã tuyên bố truất quyền và quản thúc vua Thành Thái trong Đại Nội. Một Hội đồng Phụ chính do Trương Như Cương cầm đầu được thành lập.
Ngày 3 tháng 9 năm 1907, triều thần theo lệnh của Pháp vào điện Càn Thành dâng vua dự thảo chiếu thoái vị, có chữ ký của các đại thần [trừ ông Ngô Đình Khả], với lý do sức khoẻ không bảo đảm, xin tự nguyện thoái vị. Xem xong bản dự thảo, nhà vua
chỉ cười nhạt, ghi hai chữ "phê chuẩn" rồi quay lưng đi vào.
Năm Đến nǎm 1916 ông bị đày ra đảo Réunion .