Tổng kết
Hitler đã dự tính hy sinh một triệu lính Đức trong cuộc xâm chiếm nước Pháp; thế nhưng ông ta đã đạt được mục tiêu chỉ trong vòng 6 tuàn lễ với 27.000 người chết, 18.400 mất tích và 111.000 bị thướng, không bằng 1/3 thương vong của Đức trong trận Verdun thời Thế chiến thứ nhất.
Thắng lợi mau chóng đến không ngờ này dẫn đến một làn sóng hưng phấn cuồng nhiệt trong công chúng Đức, cũng như làm bột phát một cơn cuồng chiến mạnh mẽ. Ngay cả những đối thủ của chế độ cũng thấy khó mà cưỡng lại được tâm trạng thắng lợi. Công nhân trong các nhà máy sản xuất vũ khí chen lấn để xin được gia nhập quân đội. Ai cũng cho rằng thắng lợi cuối cùng sắp đến nơi rồi. Chỉ còn lại nước Anh ngáng đường. Có lẽ đó là lần duy nhất trong thời Đế chế thứ Ba có một sự cuồng chiến thực sự trong quần chúng.
Chiến thắng đã đưa Hitler đã đạt được đỉnh cao quyền lực ở vị trí chủ nhân của châu Âu lục địa, biển Baltic và vịnh Biscay. Khi trở về Berlin sau chuyến đi Paris cuối tháng 6, uy tín cá nhân của Hitler trong dân chúng lên đến đỉnh cao nhất trong lễ kỷ niệm ngày nước Pháp đầu hàng ngày 6 tháng 7 năm 1940. Bản thân Hitler cũng tự cho mình là một thiên tài quân sự không thể thất bại, và tự tin tiếp tục cuộc phiêu lưu chiến tranh.
Ngày 19-7-1940, trong Nghi thức Thống chế năm 1940, tại Nhà hát Opera Kroll ở Berlin, Hitler đã phong hàm Thống chế Đức (Generalfeldmarschall) cho 12 tướng lĩnh để tưởng thưởng công lao trong Trận chiến nước Pháp. Đó là:
Walther von Brauchitsch, Tổng tư lệnh Lục quân Đức.
Wilhelm Keitel, Tham mưu trưởng Lục quân
Gerd von Rundstedt, Tổng tư lệnh Cụm Tập đoàn Quân A.
Fedor von Bock, Tổng tư lệnh Cụm Tập đoàn Quân B.
Wilhelm von Leeb, Tổng tư lệnh Cụm Tập đoàn Quân C.
Günther von Kluge, tư lệnh Tập đoàn quân số 4.
Wilhelm List, tư lệnh Tập đoàn quân số 12.
Erwin von Witzleben, tư lệnh Tập đoàn quân số 1.
Walter von Reichenau, tư lệnh Tập đoàn quân số 6.
Albert Kesselring, tư lệnh Tập đoàn quân Không quân số 2.
Erhard Milch, Tổng thanh tra Không quân Đức.
Hugo Sperrle, tư lệnh Tập đoàn quân Không quân số 3.
Cùng với việc thăng Hermann Göring từ hàm Thống chế lên thành "Thống chế Đế chế" (Reichsmarschall), sự thăng thưởng lên hàm cao nhất của Lục quân Đức với số lượng thế này là chưa từng có trước đây. Trong suốt Chiến tranh thế giới thứ nhất, Đức hoàng Wilhelm II chỉ phong có 5 vị tướng lên hàm Thống chế.
Thất bại của Pháp khiến cho cán cân sức mạnh quốc tế bị nghiêng lệch, hút theo các quốc gia chưa tham chiến vào vùng xoáy. Ở Liên Xô, Stalin ngay lập tức ra lệnh sát nhập các nước vùng Baltic vào ngày 15 và 16-6-1940 để củng cố phòng ngự cho khu vực Leningrad, tiến chiếm vùng Bessarabia và Bukovina của Rumania vào ngày 26-6-1940 để kiểm soát cửa sông Danube và Biển Đen. Những hành động này làm Hitler lo lắng, thúc đẩy ý định tấn công Liên Xô sớm nhất có thể, dẫn tới cuộc xâm lược Liên Xô vào ngày 22-6-1941.
Con số thương vong của Pháp ước tính chết từ 55.000 đến 123.000 người, bị thương từ 120.000 đến 250.000 người. Những con số này có thể đã bao gồm cả khoảng 39.000 chết trong khi bị giam cầm và 5.200 mất tích, cũng như 21.000 thường dân cùng những thương vong của quân đội Vichy tại Cận Đông và Bắc Phi cho đến ngày 1 tháng 11 năm 1943.
Trong tháng 8-1940, 1.540.000 tù binh đã bị đưa về Đức và đến năm 1945 còn lại 940.000 sống sót khi được quân Đồng Minh giải phóng. Có ít nhất 3.000 lính Senegal bị giết hại sau khi trở thành tù binh. Trong thời gian bị giam cầm tại Đức, có 24.600 tù binh Pháp chết; 71.000 trốn thoát; 220.000 được phóng thích theo nhiều thỏa thuận khác nhau giữa chính phủ Vichy và Đức; hàng trăm ngàn người được tha bổng vì lý do tàn tật cũng như đau yếu. Một số lượng lớn các tù nhân cố gắng trốn thoát được, tổng cộng là 70.000 người, nếu không kể những người bỏ trốn trong những tháng đầu tiên trước khi bị chuyển sang Đức. Hầu hết tù binh trong thời gian giam giữ đều bị cưỡng bức lao động. Ngoài ra, trong thời kỳ "Công tác lao động bắt buộc" của chế độ Vichy, ở Đức đã sử dụng đến 720.000 lao động nô lệ và có 40.000 người chết. Đây chỉ là một phần nhỏ trong số 350.000 nạn nhân dân sự của Pháp sau chiến tranh.
Trong số 75.721 người Do Thái Pháp bị đưa đến Auschwitz chỉ có 2.566 trở về. Đồng thời có 3.000 người Pháp trở về từ những trại giam Đức, chỉ là số dư trong số 80.000 nạn nhân của cuộc đại đồ sát tại Pháp. 20.000 thành viên của quân kháng chiến Pháp đã chết trong chiến đấu, 30.000 bị hành quyết và 60.000 bị đưa vào các trại tập trung, trong đó không đến một nửa quay về. Còn lại là những người nổi dậy đấu tranh (trên bộ và không chiến) bị chết hoặc là nạn nhân của những cuộc đàn áp do quân chiếm đóng và chế độ Vichy thực hiện. Tính riêng con tin Pháp đã có 29.662 người chết.
Thiệt hại về không quân Pháp trong chiến dịch ước tính là 1.274 máy bay bị phá hủy. Quân đội Pháp mất tất cả vũ khí, trang thiết bị nặng (pháo binh, súng chống tăng), cùng 320.000 trong tổng số 400.000 con ngựa. Có 148 tàu thuyền Pháp di tản đến trú tại các cảng của Anh (chiếm 38% tổng trọng tải), và cuối cùng đã được nước Anh tiếp nhận từ sau ngày 22 tháng 6. Nhưng cũng có nhiều tàu đang được đóng hoặc sửa chữa dở đã bị đánh đắm hoặc bị người Đức tịch thu, với trọng tải ước tính 170.000 tấn. Tuy Hải quân Pháp tạm giữ được phần lớn các tàu chiến (235 trong số 291 tàu nổi, chiếm 95% trọng tải) nhưng chúng đều phải trừ vũ khí và bị giam trong cảng Toulon cho đến khi buộc phải tự phá hủy các tàu chiến 1 năm sau đó, lúc Hitler phá bỏ cam kết. Tất cả các cảng và kho vũ khí trên bờ biển Đại Tây Dương của Pháp đều bị phá hoại và hầu như không còn các cơ sở hạ tầng hỗ trợ, nên chỉ còn có thể hoạt động với mức độ hạn chế.