Vãi bác Hải
Minh Sử[1]: Vào thời Minh Thành tổ, Giao Chỉ được bình định, kỹ thuật (chế tạo) thần cơ thương pháo được thu dung, thành lập và huấn luyện một binh đoàn trang bị súng thần cơ.
Kết nối dữ kiện trên với tài liệu của Tôn Lai Thần[2] (Sun Laichen) sẽ hiện ra chân dung nhà khoa học quân sự Hồ Nguyên Trừng: Theo lệnh vua Minh, các tù binh Đại Việt biết chế tạo vũ khí như Hỏa súng, Đoạn tiễn, Thần tiễn, Thuốc súng; đã bị áp giải đến Nam Kinh cùng với nhiều thợ thủ công các loại, tổng cộng lên đến khoảng 17.000 người. Trong số này có Hồ Nguyên Trừng. Đại Việt sử ký toàn thư cũng đặc biệt ghi nhận năm 1407 Hồ Nguyên Trừng đã chế tạo nhiều súng ống và tàu chiến để chống lại quân Minh xâm lược. Việc ngài Tả tướng quốc Nguyên Trừng nắm kỹ năng chế tạo vũ khí cầm tay cho thấy tầm quan trọng mà Đại Việt gửi gắm ở kỹ nghệ sản xuất thuốc súng cũng như cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa Đại Việt và các nước láng giềng, trước hết là với Trung Hoa và Chiêm Thành. Thú vị là sự tinh thông ấy đã thay đổi vận mệnh Hồ Nguyên Trừng tại Trung Hoa…. Nguyên trừng được tha bổng và nhậm một chức quan thuộc Công bộ. Ông chịu trách nhiệm chế tạo hỏa súng, hỏa tiễn và thuốc súng trong Binh trượng cục (Cục chế tạo vũ khí) và rồi được thăng chức Thượng thư bộ Công (tương đương hàm bộ trưởng ngày nay – ND)… Theo một số sách vở Trung Hoa (Minh sử cảo), triều Minh khi tế thần súng cũng thường hiến cúng Hồ Nguyên Trừng. 73 tuổi, Hồ Nguyên Trừng mất, con ông (Lê Thúc Lâm – ND) đã thay ông tiếp tục chế tạo vũ khí cho nhà Minh đến khi về hưu năm 1470 ở tuổi 70.ghi chép ở Việt Nam ngày nay cho rằng Hồ Nguyên Trừng làm quan triều Minh đến tam phẩm (Công bộ tả thị lang, thứ trưởng). Thực ra theo bộ Minh sử đầy đủ đã xuất bản ở Đài Loan, năm 1445 Hồ Nguyên Trừng được thăng chức nhị phẩm (Công bộ thượng thư)[3]. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Tôn Lai Thần. Có lẽ làm “bộ trưởng” chưa được một năm thì họ Hồ mất nên tài liệu Việt Nam sơ suất. Hữu thị lang Hồ Thúc Lâm, con Hồ Nguyên Trừng đến tuổi hưu trí vẫn được triều Minh lưu dụng. Thậm chí đến cháu nội ông là Hồ Thế Vinh, năm 1469 cũng được tuyển làm Trung thư xá nhân tại Công bộ.
Hiện trên internet có rất nhiều trang đề cặp đến nơi yên nghỉ Hồ Nguyên Trừng. Chẳng hạn khảo biện “Hỏa long kinh”[4], thuộc chủ đề Trung Quốc lịch sử văn vật, tác giả Lý Bân, Đại học Thanh Hoa xuất bản 1.1.2002 viết: Tháng sáu, năm Chính thống thứ 10 (1445) thăng (Hồ Nguyên Trừng) làm Thượng thư bộ công, giữ việc nội phủ, tháng 7 năm sau mất, hưởng thọ 73 tuổi, an táng tại vùng núi phía tây Bắc Kinh, sườn núi Ngọc Đài, thôn Nam An Hà.
Từ những dữ kiện trên đây, có thể khẳng định Hồ Nguyên Trừng và con cháu ông là những công trình sư có đóng góp nghiên cứu và thực nghiệm khoa học quân sự lớn lao cho triều Minh. Phải chăng chính công tác “gián điệp” trong quá trình xâm lăng Đại Việt đầu thế kỷ 15, nhà Minh đã nhìn thấy “mỏ vàng” nhân lực trí lực đồ sộ ở nước Nam. Cướp đất và ra sức tiêu diệt văn hóa chưa đủ, họ còn bắt đi 17.000 trái tim khối óc người Việt đem về để kiến thiết Trung Quốc. Nguyễn An, nhân vật tham gia thiết kế và xây dựng Tử Cấm Thành, và Hồ Nguyên Trừng là những cái tên chói sáng trong số tù nhân kia. Họ bất tử vì tài năng kiệt xuất, lưu truyền thiên cổ.