PHẦN THỨ NHẤT
SỰ TAN RÃ Ở NAM HÀ
(1771 - 1785)
Chương 1.
CÁC LỰC LƯỢNG TRONG VÀ NGOÀI NƯỚC ĐẾN KHOẢNG 1775
__________________________________________________________________Tiết 1
BIẾN CHUYỂN TỚI 1775: TÂY SƠN KHỞI NGHĨA
Biến động Tây Sơn và những bạo động ở Bắc Hà * Sự suy đồi quyền bính ở Nam Hà với khả năng phản kháng của dân chúng * Chiến tranh Tây Sơn - Nguyễn. * Quân Trịnh vào Phú Xuân * Chúa Nguyễn vào Đồng Nai.
Sự kiện quan trọng nhất xảy ra trong lịch sử Đại Việt vào giữa hậu bán thế kỷ XVIII là “loạn” Tây Sơn. Từ trước không phải không có những người thường dân lên làm vua, dựng nên một triều đại mới, nhưng họ lập nghiệp bằng cách đánh đuổi ngoại xâm (Lê Lợi), hoặc bằng cách phụ tá triều đại trước, mang quan tước của dòng họ này rồi tìm cách soán đoạt (Trần, Mạc). Chỉ riêng có anh em Tây Sơn truất quyền các triều đại có mặt bằng mưu mô binh lực, đem vào lịch sử những tên mà bình thường là anh buôn trầu, chị đàn bà giữ con, ông thầy đồ ở làng và cả những kẻ sống ngoài vòng pháp luật nữa
1.
Biến động Tây Sơn có tính cách dân chúng làm ta liên tưởng những cuộc chống đối ở Bắc Hà dưới thời Trịnh Doanh, Trịnh Giang. Những Nguyễn Cừ. Nguyễn Tuyển, Nguyễn Danh Phương... đều dựa vào đám nông dân cùng khổ, lập riêng triều đình có khi đến hàng 10 năm trời. Tuy nhiên, họ làm loạn sát kinh đô, trong một xã hội quá thuần nhất về kỹ thuật, ý thức, nên phải chịu thất bại, ngậm thở ngùi than:
Hỏi sao sao luỵ cơ trần,
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng?
Nào khi vỗ cánh rỉa lông?
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung?
(Nguyễn Hữu Cầu)
Họ không đủ sức phá vỡ chính quyền Trịnh, nhưng ngược lại họ Trịnh nằm trong sự đổ nát của chính mình, trong sự rạn nứt của thời đại cũng không thể nào bóp nghẹt được sức phản kháng của dân chúng vốn lúc nào cũng hi vọng, chờ đợi:
Mặc bay đông ngữ, tây đàm,
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung.
(Nguyễn Hũu Cầu)
Trong khi ở Bắc Hà chính quyền và dân chúng trông chừng nhau thì ở Nam Hà nhóm lên loạn Tây Sơn ngang ngửa, tàn bạo dứt đứt những gì tạo lập thế phân tranh kéo dài 200 năm có hơn. Tất nhiên đã có những điều kiện chủ quan và khách quan đem đến sự thành công cho họ, giúp họ từ một tiền đồn di dân hẻo lánh ào xuống xô đổ ngôi vị Nguyễn, trườn ra đất Bắc chấm dứt Trịnh, Lê, cũng như sau này có những điều kiện mới nảy sinh đưa đẩy họ tới thất bại, trao công trình thống nhất lần đầu mà họ mở lối kiến tạo vào tay một ông hoàng còn sót lại của Nam Hà.
Trước nhất là sự rối loạn ngay trong triều chúa Nguyễn ở Thuận Hoá. Ở đây mọi tội lỗi đều được bề tôi họ Nguyễn trút vào đầu Trương Phúc loan. Xử sĩ Hoàng Quang kể tội Loan với giọng hậm hực, có khi ngây ngô: quan Quốc phó đem tinh binh giữ biệt thự Phấn Dương của mình, để binh lão nhược ra ngoài chống giặc; quan thu thóc lúa, bạc vàng cho đầy túi bằng những mưu mô làm suy bại nước: quan thu dụng, mua chuộc triều thần để họ phải chịu “giọng miệng xôi chùa” …
2
Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mất đi (1765), Hoàng trưởng tử Chương đã qua đời (1763) mà Thái tử Hiệu, con thứ 9, lại còn mất trước đó nữa (1760)
3. Đáng lẽ cha Nguyễn Phúc Ánh là Chương Võ, con thứ 2 Võ vương lên cầm quyền, nhưng bị Trương Phúc Loan giam vào ngục “ưu uất mà mất”. Việc này hại lây đến cả 2 đại thần: Trương Văn Hạnh và Lê Cao Kỷ
4. Phúc Thuần con thứ 16 của Võ vương được lên ngôi (12 tuổi), chiếm địa vị của con Thái tử Hiệu thường được gọi là Hoàng tôn Dương. Rối loạn trong việc thế tập này còn ảnh hưởng rất lâu, đến mãi khi họ Nguyễn chạy vào Đồng Nai.
Đã được Duệ Tông phong làm Quốc phó, quản Tượng cơ, kiêm Tàu vụ, Trương Phúc Loan còn đặt vây cánh bên ngoài, cho các con lấy công chúa Ngọc Nguyện, Ngọc Chú để làm thế lực bên trong. Quyền uy có thì tiền cũng theo đó mà dồi dào. Chúa cho ông lấy sản thuế các nguồn Thu Bồn, Trà Sơn, Trà Vân, Đồng Hương làm bổng riêng, mỗi năm thu bạc đến 200 lượng có dư với ngà voi, sáp vàng, mật trắng, “đồ quý chất như núi”
5. Gọi là “Chúa cho”, nhưng chắc gì Chúa đủ trí khôn và đủ quyền để biết và có thể làm gì? Gia tư của Phúc Loan lại được tăng bội bằng nhiều hình thức ám muội khác. P. Poivre đã cho ta biết việc ông gạt tiền của người khách thương này
6.
Vai trò của Trương Phúc Loan trong việc xô đẩy triều chúa Nguyễn đi vào chỗ suy sụp thật không thể chối cãi
7. Nhưng không phải chỉ mình ông thối nát.
______________________________________________
1. Không phải chỉ vì thân tình mà Ngọc Hân công chúa (trong
Ai tư vãn) nói về Nguyễn Huệ (Tây Sơn nói rộng ra) là dân “áo vải cờ đào, giúp dân, dựng nước...” Trong mọi tờ thư biểu đưa sang nhà Thanh. Quang Trung vẫn xưng là “kẻ bố y”. Người Tây phương (
BSEI. XV 1940. 66) Cũng thấy rõ tính chất xã hội của cuộc loạn này. Ngay đến kẻ thù của Tây Sơn cũng công nhận có dân chúng ủng hộ họ. Quần thần Nguyễn Ánh khi khuyên Chúa đừng làm mất nhân tâm, đã nói về Tây Sơn: “Kẻ kia, Nhạc Huệ, anh em từ dân áo vải, không đất cắm dùi, vươn tay hô một tiếng, người theo có cả vạn chẳng đầy 5, 6 năm có được đất nước. Họ không có quá tài đức của người thì vì lẽ gì lại hưng thạnh dữ dội như vậy?” (
Thực lục q1. 2ab).
2. “
Hoài nam khúc”,
NP XIII. t. 157 - 180.
3. “R. Orband. Généalogie des Nguyens”,
BEFEO, 1914: Võ vương có 30 con (18 trai, 12 gái). Các con trai là: (1) Chương hay Trà († 1763), (2) Luân, (3) Mão hay Văn (1734-1773), (4) Quới hay Thành (1735-1775), (5) Duệ hay Bửu (1735-?), (6) Chất (1737-1777), (7) Kinh (1737-1775), (8 ) Bảng (1739-?), (9) Hiệu (1739-1760), (10) Yến hay Chiêu (1740-1772), (11) Tuân hay Đa (1742-1764), (12) Yến hay Viêm (1743-1776), (13) Đãng hay Trường (1744-1786), (14) Tuyền hay Quyền (1749-?), (15) Diệu (1753-?), (16) Thuần, Duệ Tông (1753-1777), (17) Xuân (1757-1780), (18) Thăng (1762-1819).
4.
Thực lục tiền biên, q11, 1b, 2a, sử sự tiếp theo ở tờ 4ab.
5. Ta không nên lấy làm lạ về sự giàu có này. Chapman, người đại diện của W. Hastings trong chuyến đi thăm dò Nam Hà năm 1778 cho biết ở vùng Huế, tỉnh Chàm (Quảng Nam) có nhiều mỏ vàng. Trà Sơn (
ĐNNTC, tỉnh Quảng Nam, q5 gọi là Trà Tế Sơn) là nơi sản xuất vàng. Hải cảng Đà Nẵng chuyển phẩm vật nguồn này ra ngoài. Nguồn Trà Vân, theo lời tả của
ĐNNTC, tỉnh Bình Định, q9, nếu chỉ nguồn An Lão, Kim Sơn thì cũng có vàng, ngoài mật ong sáp vàng... Nguồn Thu Bồn sản xuất quế chắc dùng cửa Hội An làm nơi chuyển tiếp ra ngoài. Nguồn Đồng Hương ở Bình Khang (Khánh Hoà, vùng Vạn Ninh) mà
ĐNNTC tỉnh Khánh Hoà gọi Động Hương, là nơi sản xuất sáp ong vàng với các đội Hoàng lạp hoạt động thường xuyên. Như vậy có thể nói Trương Phúc Loan đã bao thầu hết các nguồn lợi trên rừng của Nam Hà và còn nắm quyền xuất cảng nữa (ông coi chức Tàu vụ). Sự việc này còn chứng tỏ sinh hoạt rộn rịp của ngành buôn nguồn, khai thác lâm, khoáng sản vào thế kỷ XVII, XVIII ở vùng này.
6. L. Cadière, “Quelques figures sous la Cour de Võ vương”,
BAVH, 1918, t. 262-264.
7. L.M Cadière (bđd, t.270, 271) không phủ nhận lầm lỗi của Trương Phúc Loan, nghĩ rất đúng rằng người chung quanh ông cũng làm bậy như vậy, nhưng lại cho rằng sở dĩ sử quan nhà Nguyễn ghét ông vì ông đã gạt cha Gia Long không cho lên ngôi và vì ông một phần nào có cảm tình với người ngoại quốc. L.M không lưu ý rằng Trương Phúc Loan đón tiếp niềm nở P. Poivre chẳng hạn là để lợi dụng đổi tiền lấy bạc và khi thấy Poivre đòi ông thoả mãn việc đổi bạc riết quá, ông bèn tìm cách tống khứ đi ngay. Thêm nữa có nhiều chứng cớ cho biết mọi người đã kết tội Loan từ lúc Nguyễn Ánh chưa ló diện trên chính trường (Trịnh đưa hịch kể tội Loan để làm cớ tiến quân, Tây Sơn tôn phù Hoàng tôn Dương).
«
Sửa lần cuối: 30 Tháng Sáu, 2008, 09:49:08 PM gửi bởi chuongxedap »
Logged