Robots quân sự thực ra chỉ là các cỗ máy trí tuệ cơ khí, tiếp nhận không gian xung quanh và hoạt động theo chương trình, hành động độc lập không có sự can thiệp của con người. Cấp độ độc lập của các robots quân sự (drones) phụ thuộc vào nguyên mẫu thiết kế. Các nhóm robots chiến đấu có thể chia ra làm 3 nhóm chủ yếu: con người trong hệ thống điều khiển (human in the loop), con người trên hệ thống điều khiển (human on the loop) và con người ngoài hệ thống điều khiển (human out of the loop).
Nhóm thứ nhất được hiểu: Drone có thể độc lập phát hiện và lựa chọn mục tiêu, nhưng việc quyết định tiêu diệt mục tiêu do trắc thủ điều khiển. Nhóm thứ hai là: Hệ thống UAV có khả năng phát hiện, lựa chọn mục tiêu, ra quyết định tiêu diệt, nhưng trắc thủ ở vị trí quan sát có thể can thiệp vào bất cứ lúc nào. Nhóm thứ ba theo HRW là tất cả các robots có khả năng phát hiện, lựa chọn mục tiêu và tiêu diệt mà không có sự tham dự của con người.
Báo cáo mang tên Losing Humanity: The Case Against Killer Robots ( Mất nhân tính: những kết luận chống robots sát thủ) đã khẳng định, robots hoàn toàn không có sự đồng cảm và tất nhiên không chịu trách nhiệm về những thiệt hại về người, mặc dù sử dụng robots sẽ bớt đi được nhiều tổn thất về binh sĩ, nhưng sử dụng robots đồng nghĩa với chịu tránh nhiệm tinh thần do mất kiểm soát các xung đột quân sự.
Theo các chuyên gia nhận định, các robots hoàn toàn độc lập có thể xuất hiện trong vòng từ 20 – 30 năm tới, các nước có công nghệ chế tạo các robots này có thể là Mỹ, Nga, Israel, Hàn Quốc, Trung Quốc, Anh. Lúc đó sẽ là sự đối đầu giữa các cỗ máy sát thủ và con người thật sự. X-47B chỉ là cánh én đầu tiên báo hiệu sự khởi đầu của chiến tranh robots – con người.
Trong khoảng 30 năm Lầu Năm góc dự kiến sẽ tăng cường số UAV chiến đấu lên gấp 4 lần, khoảng 26 nghìn chiếc