Nếu thế thì chán thật. Cụ có bản gì dễ nghe up lên cho e nghe với.
JOHN FIELD - CHA ĐẺ CỦA THỂ LOẠI DẠ KHÚC
Bất cứ khi nào tôi nghĩ đến Dạ khúc (Nocturne), điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí tôi – và chắc hẳn cũng như với hầu hết mọi người – là cái tên Frédéric Chopin. Từ khi còn là một đứa trẻ, tôi đã gắn liền thể loại tiểu phẩm đặc trưng này với nhà soạn nhạc người Pháp gốc Ba Lan. Mãi đến khi trở thành sinh viên, tôi mới khám phá ra rằng thể loại này có thể truy nguyên xa hơn nữa, tới nhà soạn nhạc người Ireland là John Field, người đã hoạt động trong khoảng một phần ba đầu thế kỷ XIX. Trên thực tế, Chopin chỉ mới bốn tuổi khi ba bản Dạ khúc đầu tiên của Field xuất hiện vào năm 1814.
Âm nhạc của Field không phải là một phần trong quá trình trưởng thành và giáo dục âm nhạc của tôi. Nhưng một ngày nọ, vào đỉnh điểm – hay đúng hơn là, trong giai đoạn xuống dốc – của đại dịch COVID-19, tôi muốn tạo một danh sách phát (playlist) phản ánh tâm trạng có phần chán nản của mình vào thời điểm đó. Khi lướt qua các nền tảng phát nhạc trực tuyến khác nhau, tôi tình cờ thấy một vài bản thu âm trọn bộ các bản Dạ khúc của Field. Có chút xấu hổ vì không biết bất kỳ bản nhạc nào trong số đó, tôi bắt đầu nghe.
Tôi vẫn có thể nhớ bản Dạ khúc đầu tiên bắt đầu như thế nào, và giai điệu ở tay phải (bè trầm trên đàn piano) có gì đó hoài cổ và quen thuộc – như thể tôi đã biết nó từ khi còn bé. Tôi cảm thấy tương tự với hầu hết mọi bản Dạ khúc của Field. Không lâu sau, tôi bắt đầu nghe đi nghe lại chúng, và những giai điệu bắt đầu in sâu vào ký ức. Tôi thấy mình không thể ngừng ngân nga chúng.
Đây không chỉ đơn thuần là những tiểu phẩm về đêm lãng mạn, như tiêu đề "Nocturne" – dịch theo nghĩa đen là "khúc nhạc đêm" – có thể gợi ý, cũng không phải chúng chỉ đơn giản là những giai điệu trôi nổi trên phần đệm, như người ta thường nói về các bản Dạ khúc. Khi nghe, tôi thường thấy khó xác định nên xếp chúng vào thời kỳ Cổ điển hay Lãng mạn. Một số có sự duyên dáng và giản dị của một bản Andante của Mozart, trong khi một số khác lại có hình thức và sự hài hước tinh nghịch của Beethoven thời kỳ đầu. Và rồi có những bản mà, thông qua những nét tô điểm ngẫu hứng và những gam lấp lánh, nhưng cũng có cả nỗi u sầu ngọt ngào, người ta có thể thoáng thấy phong cách tương lai của Chopin. Cho dù đó là những đoạn rubato (chơi tự do) nhỏ duyên dáng, những khoảnh khắc ngắn ngủi của niềm khao khát hay sự thay đổi bất ngờ trong nhịp điệu và hòa âm, tôi đều thấy mình nở một nụ cười thường trực trên môi.
Và tôi bắt đầu tự hỏi: John Field này là ai, người đã tạo ra Dạ khúc – một hình thức âm nhạc quan trọng không chỉ ảnh hưởng đến Chopin và mọi thế hệ nhà soạn nhạc tiếp theo mà còn tồn tại như một trong những thể loại tiểu phẩm được yêu thích nhất cho đến ngày nay? Bất chấp điều này, Field đã gần như biến mất hoàn toàn khỏi nhận thức của chúng ta và tôi nhận ra rằng người ta biết về ông và cuộc đời ông ít hơn nhiều so với nhiều nhà soạn nhạc khác cùng thời.
Về thời thơ ấu của Field, chúng ta chỉ biết rằng ông sinh ra ở Dublin vào năm 1782, là con trai của một nghệ sĩ vĩ cầm. Hầu hết kiến thức của chúng ta về ông đến từ một số ít các bài báo và từ thư từ, nhật ký của những người đương thời. Thư từ và bản thảo của chính ông phần lớn đã biến mất. Ông mười một tuổi khi gia đình chuyển đến Anh – ban đầu, dù chỉ trong thời gian ngắn, đến Bath và sau đó đến London. Tuy nhiên, ngay cả ở đây, những người viết tiểu sử của ông cũng chỉ có thể suy đoán về lý do của việc di chuyển. Ở London, ông được giới thiệu với nhạc sĩ và nhà soạn nhạc Muzio Clementi và trở thành học trò của ông. Tuy nhiên, gia đình Field không có nhiều tiền, và họ không thể trả tiền cho con trai mình theo học một giáo viên được săn đón như Clementi. Vì vậy, Field làm việc như một người học việc trong cửa hàng âm nhạc của Clementi, trình diễn các nhạc cụ của hãng. Dưới sự dạy dỗ của Clementi, Field đã phát triển thành một nghệ sĩ dương cầm bậc thầy, người có tài năng và khả năng chơi nhạc lôi cuốn đã sớm trở thành chủ đề bàn tán của thị trấn. Chính trong thời gian này, những sáng tác sớm nhất của ông, bao gồm ba bản sonata cho đàn phím, đã được xuất bản. Vào thời điểm ông cùng người thầy của mình đến thăm Nga vào năm 1802, Field đã được đánh giá cao như một nhạc sĩ có chân dung được lưu giữ trong một số bức tranh và huy chương.
Trên đường đến Nga, hai nhạc sĩ đã dừng chân một thời gian ngắn ở Paris, nơi người ta kể lại rằng Field đã mê hoặc người nghe bằng âm nhạc của Handel và Bach, những người mà vào thời điểm đó hoàn toàn không được biết đến ở Pháp. Ở Vienna, họ cũng ở lại một thời gian và Field được cho là đã học hỏi từ nhà soạn nhạc đối âm và lý thuyết gia âm nhạc Johann Georg Albrechtsberger, người cũng dạy Beethoven.
Khi cả hai đến St. Petersburg, Field đã tìm đường đến Câu lạc bộ Anh, một tổ chức quý tộc cũng giúp ông tiếp cận với giới thượng lưu của thành phố. Các buổi độc tấu của ông đã trở thành một sự kiện gây tiếng vang và tên tuổi của ông nhanh chóng được mọi người biết đến. Khi Clementi rời đi vào năm 1803, Field ở lại và không trở lại London cho đến gần ba mươi năm sau. Ở St. Petersburg, và sau đó ở Moscow, ông đã lên đến đỉnh cao danh vọng. Người ta nói rằng không ai có thể sánh được với ông về lối chơi lôi cuốn và ngoạn mục. Rất đắt show làm giáo viên, ông kiếm được nhiều tiền đến mức có thể mua cho mình một chiếc xe ngựa riêng. Nhiều giai thoại về ông đã được lưu truyền trong thư từ và nhật ký của bạn bè và những người ngưỡng mộ, một số trong những câu chuyện này chắc chắn đáng tin cậy hơn những câu chuyện khác. Những người đương thời đã say sưa khi thảo luận về thiên tài âm nhạc của ông, khẳng định rằng ngay cả khi say rượu, ông vẫn hoàn toàn kiểm soát được các kỹ năng vận động tinh của mình. Nhưng ông cũng được cho là một người hỗn loạn, vô tổ chức đến mức quên cả thời gian của các buổi hòa nhạc của chính mình, và rằng tình yêu của ông đối với rượu sâm panh và rượu cognac Pháp đã trở thành một cơn nghiện ngập, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và khiến ông bị đặt biệt danh là "John say rượu".
Ông không bao giờ thực hiện bất kỳ chuyến lưu diễn lớn nào, nhưng danh tiếng và tên tuổi của ông hẳn đã lan rộng vì ngay cả trong suốt cuộc đời, các tác phẩm của ông đã được nhiều nhà xuất bản châu Âu ấn hành. Khi sức khỏe yếu kém của ông làm dấy lên tin đồn rằng ông đã qua đời, việc phát hiện ra rằng điều này không đúng sự thật đã dẫn đến những lời đính chính xuất hiện trên báo chí Đức, Pháp và Anh.
Sức khỏe ngày càng xấu đi của Field và thực tế là khoa học y tế ở Nga không tiên tiến như ở phương Tây đã thuyết phục ông trở lại Anh vào năm 1831. Khi đến London, ông phải nhận ra rằng trong thời gian đó, nhiều điều đã thay đổi trong thế giới âm nhạc, không chỉ thông qua sự hình thành của Hiệp hội Giao hưởng – kết quả là khán giả giờ đây đã rất quen thuộc, gần như được chiều chuộng, với âm nhạc của các nhà soạn nhạc như Mozart, Haydn và Beethoven. Cậu thiếu niên Mendelssohn cũng đã ra mắt ở London chỉ hai năm trước đó và giờ đây, vào năm 1831, đã gặt hái được thành công vang dội với bản Concerto cho Piano giọng Sol thứ và bản overture The Hebrides đến nỗi Field cảm thấy hoàn toàn bị lu mờ. Sau khi trải qua một cuộc phẫu thuật ở London, ông đến Paris, nơi một làn sóng tiên phong âm nhạc mới đã xuất hiện xung quanh Liszt, Chopin, Meyerbeer và Berlioz. Ở đây, Field cũng thất vọng khi nhận ra rằng giờ đây ông bị coi là lỗi thời.
Field trở lại Moscow vào cuối năm 1835 nhưng sức khỏe suy giảm nghiêm trọng của ông đồng nghĩa với việc ông hầu như không còn khả năng biểu diễn hay sáng tác nữa. Ông qua đời vì bệnh viêm phổi ở Moscow vào ngày 23 tháng 1 năm 1837. Người ta kể rằng một giáo sĩ người Anh đã được gọi đến bên giường bệnh của ông, và khi vị giáo sĩ hỏi ông có phải là người theo đạo Tin lành, Công giáo hay thậm chí là người theo đạo Calvin không, Field được cho là đã trả lời: "Tôi không phải là người theo đạo Calvin mà là một Claveciniste (người chơi đàn clavecin - Harpsichord - tiền thân của piano)."
Trong số các tác phẩm còn lại của ông có bảy bản concerto cho đàn phím, bốn bản sonata cho đàn phím, một vài tác phẩm thính phòng và một số lượng lớn các tiểu phẩm riêng lẻ, bao gồm rondo, fantasia và biến tấu. Khoảng mười tám bản Dạ khúc đã được lưu truyền cho chúng ta, mặc dù ngay cả ở đây, các nhà biên tập vẫn tiếp tục tranh cãi về việc bản nhạc nào trong số đó được chính Field mô tả là "Nocturnes".
Ngay cả khi chúng ta không nói nhiều về Field với tư cách là một nhà soạn nhạc ngày nay, không thể phủ nhận rằng ảnh hưởng của ông đối với những người cùng thời là rất đáng kể. Trong những lá thư của mình, Friedrich Wieck có đề cập đến việc đào tạo con gái Clara (sau này là Schumann) theo trường phái của Field, mà ông mô tả là "tuyệt vời". Robert Schumann đã ca ngợi Field trong một số bài đánh giá mà ông viết cho tờ Neue Zeitschrift für Musik của mình. Mặc dù Chopin thất vọng về vẻ ngoài và cách chơi đàn của Field ở Paris, ông vẫn tự hào báo cáo bất cứ khi nào tên của ông được nhắc đến cùng với Field. Liszt cũng đưa ra một số nhận xét coi thường về nhà soạn nhạc người Ireland, nhưng bất chấp điều này, ông đã dành nhiều công sức và tâm huyết để biên tập và xuất bản một ấn bản đầy đủ các bản Dạ khúc. Một trong những học trò và người ngưỡng mộ nổi tiếng nhất của Field là Mikhail Glinka, người sau này được biết đến là cha đẻ của âm nhạc cổ điển Nga.
Một số người tranh luận về việc liệu trong bối cảnh của kho tàng âm nhạc piano rộng lớn đã được viết trong những thế kỷ gần đây – đóng góp của Field cho thể loại này có phải là một sự bổ sung đáng giá hay không. Đối với tôi, bản thu âm này không phải là về việc so sánh – việc tiếp xúc với những bản Dạ khúc này là một trải nghiệm vô cùng bổ ích. Vẻ đẹp và sự duyên dáng của chúng đã ảnh hưởng sâu sắc đến tôi và làm phong phú thêm cuộc sống của tôi khi tôi chuẩn bị cho bản thu âm này – một giai đoạn thường đi kèm với những thăng trầm và khủng hoảng về cảm xúc. Tôi hy vọng rằng bản thu âm đầy đủ các bản Dạ khúc này – bản thu âm đầu tiên tìm được vị trí của mình trong danh mục của Deutsche Grammophon – có lẽ có thể truyền cảm hứng cho những người nghe ngẫu nhiên khám phá âm nhạc của Field cho riêng họ. Xét cho cùng, đây chính là người đã để lại di sản Dạ khúc cho hậu thế.
- Alice Sara Ott -