EM xin góp 1 ít bài sưu tầm ạ :
Sơ bộ về lịch sử nhiếp ảnh:
Từ rất xa xưa(có tài liệu ghi trước công nguyên khoảng 3 thế kỷ) con người đã phát hiện ra nguyên lý thu hình: Một lỗ thủng bé ở tường nhà cho ánh sáng bên ngoài lọ vào trong phòng tối đã đem theo hình ảnh đối diện nó.
Nguyên lý này đã được Leona De Vinci (Nhà bác học nổi tiếng nhiều lĩnh vực, mà hiện nay quyển sách viết về ông Mật mã De vinci đang bán chạy) nhắc đến năm 1519 khi nói về cách quan sát bầu trời những khi có nhật thực.
Cùng thế kỷ 16 nhà vật lý Morolico đã rút nhỏ không gian buồng tối trên thành hộp tối. Chiếc hộp tối này được làm bằng một cái hộp kín, một mặt ngắn tạo lỗ thủng nhỏ cho ánh sáng đi vào. Mặt đối diện là tâm kính mờ để quan sát.
Vào năm 1568 ông Danielo Barbaro đã sáng chế ra một hộp tối có một thấu kính và một lỗ có thể thay đổi đường kính để tăng độ nét của ảnh. Trước đó mọi người còn biết đến hộp Porta được các hoạ sĩ dùng để vẽ ảnh phóng tranh...
Cái hộp kiểu này vẫn còn chụp ảnh ngon . Các bạn có thể nhìn thấy khi xem triển lãm ảnh “Hà Nội nhìn qua một cái hộp” ngày 12-1-2005 tại sảnh triển lãm của Trung tâm văn hóa Pháp L’ Espace (24, Tràng Tiền, Hà Nội). Do hai nhà nhiếp ảnh Francois Perri và Philippe Masson hướng dẫn các em trẻ mồ côi làm quen với kỹ thuật chụp ảnh bằng hộp tối sténopé.
Đó là một công cụ nhiếp ảnh đơn giản, làm từ vỏ đồ hộp, không có bất kỳ chi tiết cơ khí nào, không có thấu kính. Nó giúp các em quan sát, sáng tạo hình ảnh, học cách làm thời gian ngừng lại, giúp các em hiểu rõ hơn về thời gian và ánh sáng.
Một hiện tượng ngẫu nhiên như quả táo của Niwton đã đến với nhiếp ảnh đó là vào năm 1727,một nhà khoa học người Đức tên là Schulet khi phơi tờ giấy có tráng muối bạc AgNO3, chẳng may cái lá cây rơi xuống. Một lúc sau thì in rõ hình chiếc lá... Sau đó các nhà Khoa học đã khẳng định nguyễn lý nhiễm hình.
Và năm 1824 khi Nicéphore Niépce nhaf khoa học người Pháp - người đặc biết chú ý đến các chất nhiễm hình, cộng tác với Daguerre, dùng hộp tối Porta để chụp ảnh. Sự kiện này được coi như đánh dấu sự khai sinh của Nhiếp ảnh, năm đó bức ảnh đầu tiên của Nghệ thuât nhiếp ảnh với thời gian chụp mất 8 tiếng đồng hồ về "nóc phố" được ra đời.
Khoảng năm 1833 khi Nicéphore Niépce mất. Daguerre đã sáng tạo ra máy chụp lấy tên là Daguerreobtypes, đây được coi như là chiếc máy ảnh hoàn chỉnh đầu tiên.
2. Sơ bộ về hoạt động của máy ảnh:
Từ Nhiếp ảnh do một người Anh gọi đầu tiên, theo nghĩa gốc La tinh có nghĩa là : Vẽ bằng ánh sáng. Chính vì vậy mà mọi bộ phận của máy ảnh chỉ phục vụ cho ánh sáng mà thôi .
Còn chụp ảnh được hiểu là sự tổng hợp của các biện pháp về hoá học, vật lý, quang học, thẩm mỹ, tâm lý.. kết hợp lại với nhau để thành một sản phẩm hoàn chỉnh.
Máy ảnh và mắt chúng ta đều có sự hoạt động tương đồng. Chủ đề cần chụp nhờ ánh sáng phản chiếu qua hệ thống dẫn sáng (ống kính, đối với mắt đó là thuỷ tinh thể), lượng ánh sáng vào nhiều hay ít được điều khiến bởi khẩu độ (như chấm đen con ngươi trên mắt người). Qua màn chập (cửa chớp) để điều khiển tốc độ vào của ánh sáng nhanh hay chậm (đối với mắt đó là bờ mi nó chỉ khác máy ảnh là nó lại nằm ngoài). Cuối cùng hiện lên phim (lấy nét sai thì hình ảnh sẽ hiện đằng trước hoặc sau phim, đôí với mắt đó chính là võng mạc). Mắt chung ta tự điều tiết được con máy ảnh thì không... Ba yếu tố độ nhậy (Iso), khẩu độ , tốc độ (s) là ba yếu tố quan trọng bậc nhất để quyết định tính chất kỹ thuật của ảnh. Các yếu tố khác như đo sáng, cân bằng trắng... cần nắm vững để phục vụ, phối hợp tốt cho 3 yếu tố đầu tiên...
- Cảnh vật nhìn được là do chúng phản chiếu ánh sáng.
- ống kính để truyền ánh sáng.
- Khẩu độ điều khiển khiển về lượng của ánh sáng.
- Màn chập để điều khiển thời gian vào của ánh sáng.
- Phim (cảm biến) là nơi tiếp nhận ánh sáng.
Trước khi xác định các chỉ số máy ảnh những động tác sau đây cũng rất cần lưu ý:
2.1. Cầm máy:
Đối với cách cầm dọc hay ngang thì động tác truyền thống vẫn là một tay đỡ ống kính một tay cầm máy. Chỉ lưu ý đừng che các "Mắt thần" của máy.
Bác nào cho em cái ảnh minh hoạ nhé vì không tự chụp mình được Nhưng cũng rất cần chắc chắn vì nó không chỉ là tài sản lớn mà là đồ nghề yêu quý.
- Đeo dây vào cổ hoặc tay nếu có thể.
- Tránh để va chạm hay bụi đầu ống kính
2.2. Lấy nét:
Riêng lấy nét phải đọc kỹ hướng dẫn của từng máy. Chỉ lưu ý là có loại ống kính zoom lệch nét. Nghĩa là nếu ta đã lấy nét ở 35mm khi zoom lê 70mm nó bị lêch nét phải lấy lại chứ không khoá lấy nét được.
Đối với trường hợp thao tác bằng tay (M). Chỉ áp dụng cho Ống kính không có Af (lấy nét tự động) hoặc có cả Af và M. Chụp theo cách này phụ thuộc vào dự đoán của bạn về khoảng cách đến đối tượng chụp. Tuy nhiên cần lưu ý:
- Khi đã lấy nét đối tượng chụp cần kiểm tra lại bằng cách lấy nét quá (thấy đối tượng chụp hơi mờ) rồi lại vặn trở lại.
- Ống kính có cả Af thì khi sử dụng chế độ này xong hãy chuyển ngay về chế độ Af và phải kiểm tra lại trước khi chụp tiếp, không có thể cả bộ ảnh của bạn sẽ tan theo mây khói.
Vậy phải kiểm tra mọi thông số của máy trước khi chụp
Các máy đều cho phép ta lấy nét và khoá bằng cách bấm nhẹ vào nút chụp. Nên đừng bấm một cách vội vàng nhất là đối với chân dung và Macro..
3.Khẩu độ và xác định khẩu độ:
3.1. Khẩu độ (Aperture):
Cái van điều tiết lượng sáng vào máy ảnh này dược gọi là cửa điều sáng, độ mở ống kính và giá trị đo nó được gọi là khẩu độ. Ánh sáng cũng như thời gian nó hình như "vô hình" với con người. Nên đôi khi chúng ta quên nó, không hình dung rõ về nó. Vì vậy để minh hoạ tôi cứ ví như cái vòi nước.
Cửa thoát nước cấu tạo như cửa điều sáng (f nhỏ (1;1.4;2.8) là cửa mở to và ngược lại). Chúng ta mở to của thoát nước, nước sẽ vào nhiều (tương đương f nhỏ (1.4;2.8) thì ánh sáng vào nhiều) nhưng lại nước chảy ngay trước vòi (tương đương với Dof ngắn). Còn để lỗ nhỏ nước vào ít (f lớn (16;22) ánh sáng vào ít) nhưng sẽ bắn ra xa hơn (tương đương Dof dài), đây chính là cách để hình dung trực quan nhất về Vùng ảnh rõ (dof)
Khẩu độ ống kính tức là độ mở tương đối của cửa điều sáng.Theo quy ước của hội nghị Nhiếp ảnh quốc tế năm 1909 thì khẩu độ cho máy ảnh từ mở hết cỡ đến đóng hết cỡ như sau:
f/1.4, f/2, f/2.8, f/4, f5.6, f/8, f/11, f/16, f/22, f/32.
Cơ cấu chỉnh khẩu độ chính là một loại cửa điều tiết ánh sáng đặt trong ống kính, cấu tạo bởi các lá thép mỏng chồng so le với nhau, ở giữa mở ra một lỗ tròn đồng tâm với các thấu kính.
Các cánh thép này có thể trượt trên nhau khi ta điều chỉnh để tạo ra độ mở lớn hay nhỏ cho ánh sáng đi qua. Hoạt động bóp nhỏ/mở rộng khẩu độ khẩu độ của ống kính giống như sự điều tiết của con ngươi mắt. Độ mở lớn hay nhỏ sẽ cho ánh sáng đi vào phim nhiều hay ít. Trị số khẩu độ được sắp xếp theo chuỗi lớn dần gọi là f-number.
Công thức tính:
f-number = độ dài tiêu cự ống kính (focal length) / đường kính lỗ xuyên sáng (đường kính lỗ xuyên sáng do các lá thép mở ra.).
Focal length = khoảng cách từ tâm ống kính tới mặt phim của nó
1-----1.4-----2.0-----2.8-----4.0-----5.6-----8.0-----11-----16-----22
---1.2-----1.8----2.5----3.5------4.5-----6.7-----9.1----13-----19
Trên cùng một dãy ngang, các trị số liền kề chênh lệch nhau một khẩu (f-stop). Ví dụ từ 1.4 sang 2.0 hay 2.5 sang 3.5 (hàng dưới).
Xoay sang trái là mở mọt khẩu, xoay sang phải là đóng một khẩu. Ví dụ Xoay vòng chỉnh từ 2.8 sang 4.0 là đóng một khẩu, về giá trị 2.0 là mở một khẩu.
Theo chiều từ trái qua phải, trên một hàng ngang, lượng ánh sáng đi qua mỗi khẩu độ sẽ giảm còn một nửa.
Hàng số bên dưới hiển thị các giá trị lệch nửa khẩu so với hàng trên. Ví dụ: từ 2.5 sang 2,8 là đóng hẹp lại nửa khẩu, nhưng khi chuyển từ 2,5 sang 3,5 tức là đóng một khẩu.
Lưu ý:
- Tuy chức năng chính của cơ cấu chỉnh khẩu độ là điều chỉnh lượng ánh sáng đi vào phim, nó còn có tác dụng chi phối độ nét sâu (depth of field) trên hình ảnh cuối cùng ghi vào phim . Độ mở càng nhỏ thì ảnh càng nét sâu, độ mở càng lớn thì vùng ảnh rõ càng cạn (như hình dung về vòi nước đã nêu trên).
- Những máy ảnh kỹ thuật số ngày nay cửa điều sáng luôn ở trong trạng thái mở lớn nhất để hỗ trợ ánh sáng cho việc canh nét. Chỉ khi có trập nhấn xuống thì cơ phận chỉnh khẩu độ mới đóng các lá thép lại theo thông số xác định trước.
Điều này lại dẫn đến một nhược điểm là khung cảnh hiện ra trong kính ngắm luôn ở tình trạng nét nông nhất và không phản ánh đúng chiều sâu ảnh trường thực tế sẽ được ghi hình.
Nhược điểm này được khắc phục bằng nút bấm xem trước vùng ảnh rõ(depth of field preview button). Khi nút này được nhấn, máy sẽ điều chỉnh các lá thép đóng lại theo khẩu độ định trước để người chụp thấy chiều sâu ảnh thực tế sẽ được ghi vào phim. Chụp macro không nên bỏ qua nút này
Tác dụng của Khẩu độ:
Việc đóng hẹp hay mở rộng khẩu độ sẽ ảnh hưởng tới độ sáng của vật chụp, góc chụp và độ nét sâu (hay còn gọi là chiều sâu rõ nét của ảnh trường) theo các quy luật sau:
- Càng đóng nhỏ khẩu độ (trị số f càng lớn) càng làm giảm độ sáng của vật chụp.
- Càng mở rộng khẩu độ thì góc chụp càng nhỏ.
- Khẩu độ càng đóng hẹp thì vùng ảnh rõ càng dài.
Các Nhiếp ảnh gia thường điều chỉnh khẩu độ để phục vụ cho độ nét nông hay sâu của ảnh.
Những gợi ý tham khảo về khẩu độ:
- Đối với chụp phong cảnh (landscape) người chụp luôn mong muốn sẽ lấy được sắc nét toàn bộ khung cảnh từ điểm gần nhất cho tới điểm xa nhất vì vậy mà độ mở ống kính thường được để ở độ mở nhỏ nhất.
- Khi chụp chân dung, người chụp thường mong muốn có được bức ảnh trong đó mặt người được chụp sẽ sắc nét nhất trong khi hậu cảnh sẽ mờ hơn nhằm làm nổi bật chủ đề chụp lúc này độ mở ống kính càng lớn càng tốt.
- Ống kính có độ mở càng lớn thì càng dễ chụp trong ánh sáng yếu cũng như các chủ đề chụp chuyển động nhanh.
-Đối với chụp ảnh bắn pháo hoa, bạn sẽ có được những tấm ảnh đẹp khi đứng xa nơi bắn pháo hoa. Đứng xa nơi bắn, bạn cũng sẽ không bị những người khác che khuất máy ảnh. Nên mang theo chân máy vì sẽ phải mất vài giây pháo hoa mới phóng lên bầu trời được. Hãy chụp nhiều kiểu ở nhiều góc độ để kết hợp trên máy tính.
Để có những tấm hình đẹp, nên đặt độ sáng làm sao khi chụp lên bầu trời sẽ có màu đen thẫm hoặc xanh đen thẫm. Cụ thể, bạn hãy để độ mở ống kính là f/11 đến f/22. Máy cơ với tốc độ B.
-Chụp ánh trăng thì thời điểm thích hợp nhất là trăng tròn và không bị mây che phủ. Thông thường nên để độ mở ống kính f/5.6 trong 15-30 giây. Bạn cũng nên chụp thử vài kiểu trước. Để máy ảnh ở chế độ “B” (Đối với máy cơ) để bạn có thể mở ống kính và chờ trong một thời gian. Thời gian chụp ánh trăng tốt nhất là một vài giờ sau khi trăng mọc, nên tránh chụp quá nhiều khoảng trời.
-Chụp toàn cảnh thành phố về đêm thì hãy tập trung vào các đường phố với xe cộ nối đuôi nhau để tạo thành những vệt sáng kéo dài. Hãy để ISO ở 100 (nếu có thể)và độ mở ống kính f/11, có thể thay đổi một chút tùy thuộc vào tốc độ giao thông trên đường. Đặc biệt, nếu có thể chụp được cả các tòa nhà xung quanh thì bức ảnh của bạn sẽ còn đẹp hơn nữa nhờ sự cộng hưởng của các ánh sáng hắt xuống từ các tòa nhà này lên đường phố. Bạn có thể bổ sung màu sắc vào các bức ảnh của mình nhờ vào đèn chiếu màu.
- Cảnh phố xá sáng đèn về đêm, nếu mặt đường mưa càng hay cho việc phản chiếu ánh sáng có thể chọn f2.8 với ISO 400 hoặc f 4 với ISO 1000.
- F4 cùng được sử dụng nhiều trong chụp lửa trại, với dân báo chí là chụp cháy nhà về đêm, nhà hát các khu vui chơi ban đêm các bảng hiệu quảng cáo với ISO trung bình là 400.
- Nếu chụp bóng đá về đêm nên dùng F2.8
- Chụp sân khấu, biểu diễn xiếc, múa rối nước, bơi nghệ thuật, hay trong nhà thi đấu thể thao f2.8 và f4.0 được dùng thchs hợp nhất ISO từ 200 đến 800 tuỳ theo ánh sáng và tốc độ tác giả muốn thể hiện.
- Ánh nến sinh nhật thì f2 hay 2.8 là điều nên nghĩ đầu tiên.
- Chụp cây noek cần lưu ý là thông thường với f2 ISO lên 1000 mới có thể cầm tay được không phải dùng chân máy nhé, f2.8 1/8 ISO 400 hoặc f5.6 1/1 ISO 200 cũng có thể là một sự gợi ý
....
Lưu ý: f 8 dược coi là khẩu độ "pede" , có nghĩa là nó nằm giữa hai vùng DOF cạn và sâu.
Vùng ảnh rõ (Depth of field).
1.Khái niệm:
Khi chúng ta nhìn xung quanh- quyển sách cầm ở trên tay, cái ghế trong phòng hay bất cứ vật thể nào đều sắc nét. Chúng ta có được khả năng này do mắt người luôn tự động chỉnh tiêu cự (điều chỉnh thấu kính trong mắt) mỗi khi chúng ta “nhìn” làm ảnh của chủ đề luôn hiện lên võng mạc.
Tuy nhiên hình ảnh chúng ta thu được khi chụp không phải lúc nào cũng giống với hình ảnh chúng ta nhìn thấy. Để hiểu rõ điều này chúng ta cần hiểu về hệ thống canh nét của máy ảnh và khái niệm vùng ảnh rõ. Khi chụp ảnh bạn đã xác định chủ đề cần chụp (Chẳng hạn như anh chàng bán xăng ), sau đó điều chỉnh lấy nét (canh nét) - đây lại là yếu tố sống còn quyết định vùng nào trên hình ảnh sẽ sắc nét nhất- vùng này thường được gọi là mặt phẳng rõ nét (plane of critical focus) - thực chất là điều chỉnh thấu kính trong ống kính để chủ đề hiện lên mặt film mà thôi.
Vật thể nào nằm trên mặt phẳng rõ nét sẽ có hình ảnh sắc nét nhất khi được chụp. Đối với máy ảnh canh nét tự động, mặt phẳng rõ nét này sẽ di chuyển ra xa hoặc vào gần mỗi khi hướng máy ảnh vào chủ thể ở xa hoặc ở gần hơn.
Về mặt lý thuyết chỉ có các vật, chủ thể nằm trên mặt phẳng rõ nét là có hình ảnh rõ nét nhất bởi được hội tụ chính xác trên mặt phẳng tiêu cự, nhưng trên thực tế sẽ dễ dàng nhận thấy có một khoảng không gian nhất định vẫn có hình ảnh rõ nét ở mức chấp nhận được, vùng này được gọi là vùng ảnh rõ (depth of field). Chủ thể nằm trong vùng ảnh rõ luôn có hình ảnh sắc nét tuy nhiên nếu càng ở xa mặt phẳng rõ nét thì mức độ sắc nét càng giảm.
Khoảng không gian từ A đến C được gọi là vùng ảnh rõ, B là mặt phẳng rõ nét.
PS (Sorry các bác , tôi đưa bài vào trứoc và sẽ lần lượt đua ảnh minh hoạ vào sau)
Các yếu tố ảnh hưởng đến vùng ảnh rõ:
1. Độ mở ống kính (Aperture):
Nếu như muốn tăng thêm khoảng không gian sẽ hiện ra rõ nét trên bức ảnh người chụp chỉ việc tăng vùng ảnh rõ thông qua việc giảm độ mở ống kính.
Nếu như muốn giảm khoảng không gian sẽ hiện ra rõ nét trên bức ảnh thì chỉ cần giảm vùng ảnh rõ thông qua việc tăng độ mở ống kính (thường áp dụng khi chụp chân dung hay những trường hợp muốn làm nổi bật chụp đề chụp hạn chế yếu tố gây mất tập trung được tạo ra bởi hình ảnh của các chủ thể xung quanh).
Mà độ mở ống kính được chúng ta biết đến thông qua khẩu độ (f 2.8, f5.6, f11, f16...) nên từ nay để thống nhất tôi sẽ chỉ nói về khẩu độ. Vậy bạn hãy nhớ nguyên tắc:
- Giá trị khẩu độ càng nhỏ (giá trị f nhỏ) thì vùng ảnh rõ càng cạn (small f-numbers = less depth of field).
- Giá trị khẩu độ càng lớn thì vùng ảnh rõ càng nhiều (big f-numbers = more depth of field.)
Mẹo nhỏ:
- Để kiểm soát vùng ảnh rõ chỉ cần chuyển máy sang chế độ chụp ưu tiên độ mở ống kính (Aperture priority- trên máy ảnh chế độ chụp này thường có ký hiệu là Av...) sau đó tăng hoặc giảm độ mở ống kính để giảm hoặc tăng vùng ảnh rõ, tốc độ trập tương ứng sẽ do máy ảnh tự tính toán lựa chọn giúp người chụp.
Khi nắm vững cách thức điều khiển vùng ảnh rõ, người chụp sẽ hoàn toàn thoải mái tự tin trong việc quyết định vùng không gian nào sẽ hiện rõ trên bức ảnh và vùng nào sẽ không hiện rõ.
2.Tiêu cự của ống kính (focal length):
Tiêu cự ống kín là khoảng cách từ tâm của ống kín đến mặt phim (hoặc mặt phẳng có chứa cảm biến (sensor) đối với máy ảnh số (Focal Plane)).
Khoảng cách này được tính bằng mm. Bạn sẽ thấy có ống kính chỉ ghi 35mm, 50mm hoặc lại ghi 24-85mm, 80-200mm. Đó chính là hai loại ống kính, một là loại có tiêu cự cố định, hai là loại có zoom.
Ví dụ ống kính 70-300mm của Nikon
Tiêu cự của ống kính ảnh hưởng đến vùng ảnh rõ theo quy luật:
- Tiêu cự càng bé thì vùng ảnh rõ càng sâu.
- Tiêu cự càng lớn thì vùng ảnh rõ càng nông.
Nếu như zoom ra xa (zoom out) thì độ sâu của vùng ảnh rõ sẽ tăng lên. nếu như zoom lại gần (zoom in) thì vùng ảnh rõ sẽ cạn đi. Hạn chế sử dụng zoom ở mức tối đa bởi chất lượng của hình ảnh thường bị giảm do hạn chế về đặc tính kỹ thuật cũng như hiện tượng máy bị rung (rung tay) cũng sẽ tăng lên rõ rệt (do quy tắc tốc độ an toàn tối thiểu nhé :lol: ).
Từ quy luật trên ta có thể rút ra một hệ quả là:
- Cùng một khẩu độ chụp với ống kính tiêu cự ngắn sẽ có độ nét sâu hơn ống kinh tiêu cự dài. Hệ quả này được minh họa như ảnh dưới đây:
3. Khoảng cách từ máy ảnh tới đối tượng chụp (distance to the subject):
- Khoảng cách từ máy ảnh tới đối tượng chụp tỷ lệ nghịch với vùng ảnh rõ. Có nghĩa là:
Nếu như tăng khoảng cách từ máy ảnh tới chủ đề chụp thì vùng ảnh rõ càng “sâu”. Nếu như di chuyển càng gần tới chủ thể chụp thì vùng ảnh rõ sẽ “cạn” đi.
Di chuyển lại gần chủ đề chụp luôn là một cách hay giúp chủ đề chụp hiện rõ hơn trên bức ảnh, kích thước của hình ảnh chủ đề chụp càng lớn trên khung hình càng giúp người xem định hướng dễ dàng hơn cũng như thông điệp về chủ đề càng rõ ràng hơn.
Đến đây chắc nhiều bạn sẽ tự hỏi vậy nếu để f4 chụp cách 2m hay 4m thì vùng ảnh rõ nó sẽ chênh nhau là bao nhiêu? Hay cụ thể là có công thức tính độ dài của vùng ảnh rõ trong mỗi trường hợp tiêu cự, khẩu độ, khoảng cách tới vật chụp không?
Hay Dof còn phụ thuộc vào gì nữa không? Có bí mật gì lý thú thêm về Dof?
Tất cả sẽ được trình bày trong phần tiếp theo về Dof...
Đến đây chắc các bạn sẽ hỏi là có công thức, cách để tính Dof không nhỉ? Vâng câu trả lời là có, một số loại ống kính cũ là nó đã có sẵn ngay trên ống kính, người ta gọi là thước đo vùng ảnh rõ. Bây giờ vì đã có nút xem trước vùng ảnh rõ như tôi đã nêu trên hoặc có cả chế độ Depth Program, máy sẽ giúp ta tính toán khẩu độ khi canh nét vào điểm gần nhất và xa nhất cần lấy nét nên cũng rất tiện rồi.
Công thức tính kiểu biểu diễn bằng một hàm số nào đó thì tôi không có ở đây . Nhưng tôi để dưới đây đường dẫn vào một trang web có thể tính toán DOF trực tuyến, ngoài ra còn có thể tải phần mềm về máy hay các thiết bị cầm tay để chạy. Một công cụ thật tiện lợi: Thông số các bạn cần phải điền là loại film gì bạn đang sử dụng:từ APS, 35mm, 6x6, 6x7 hay cả D70, D100, Canon 20 D vân vân và vân vân, tiêu cự đang sử dụng là bao nhiêu mm, khẩu độ mở là bao nhiêu và cuối cùng là bạn đang đứng cách "con mồi" bao nhiêu (đơn vị do ta tuỳ chọn). Chương trình sẽ tự động tính toán cho chúng ta. Hãy tham khảo một trong hàng trăm trang có nhé .
http://www.dofmaster.com/dofjs.html
http://www.andrewmishura.com/special...lc20030309.xls
http://doug.kerr.home.att.net/pumpki...calculator.xls
Việc quản lý các bảng tính hay sử dụng như thế nào phụ thuộc vào trí nhớ, kinh nghiệm, hay thiết bị cầm tay nếu bạn có, và cả trí thông minh nữa đấy .
. Vùng ảnh rõ cực đại:
Trong toán học đó là Min và Max, min của dof thì chẳng thấy ai quan tâm nhiều? Mà Max thì lại được quan tâm nhiều hơn, cách ứng dụng Max của vùng ảnh rõ chính là việc áp dụng các công thức trên kết hợp với mẹo lấy nét, cái này thường áp dụng cho ảnh phong cảnh.
Cái "lày" được sử dụng như sau: Khi ống kính hội tụ ở vô cực (tức là khi điều chỉnh bằng tay cho canh nét ở cái số 8 "đi ngủ" đấy). Ta sẽ có thông số về khoảng cách đếm mặt phẳng rõ nét gần nhất - được gọi là mặt phẳng vượt tiêu - Lúc này quay trở lại ta lại lấy nét đúng vào mặt phẳng vượt tiêu khi đó ta sẽ có Vùng ảnh rõ tối đa tại mỗi khẩu độ, một hiệu quả cũng khá bất ngờ
Chúc các bạn thành công với Khẩu độ và Vùng ảnh rõ
chúng ta lại tiếp bài mới, đó là bài học về tốc độ. Bình thường chúng ta có thể làm chủ cái tốc độ xe máy khoảng 100km/h là tối đa (tôi mới đi 110km/h mà không thể mở mắt ra được ), còn ô tô thì ở ta mới cho đi 100km/h mặc dù thỉnh thoảng cũng thử 130km-150km/h cho nó có cảm giác (Bác Longpt thử xem luật giao thông có thể căn cứ theo lời nói mà phạt không thì em xin rút lại nhé ). Ấy vậy mà cái máy ảnh nó có thể lên đến 1/8000 giây thì quả là một vấn đề lớn lao. Nhưng dù sao chúng ta đã cầm "súng", đã chọn xong đạn, đã ngắm kỹ mục tiêu mà lại không làm chủ được tốc độ của đạn thì quả là có bắn "trúng" nó cũng mất phê . Nào chúng ta hay bắt đầu "Làm chủ những tốc độ kinh người".
6. Làm chủ tốc độ (Shutter Speed):
6.1. Khái niệm cơ bản:
Tốc độ là thời gian màn trập trong máy mở ra để ánh sáng lọt qua khẩu độ ống kính đến phim .
Tốc độ máy tính bằng giây và được ghi trên máy như sau: T-B-2-4-8-15-30-60-125-250 v.v...Nên nhớ các trị số trên thật ra là phân số : 1/8 giây - 1/30 giây .
- T (time) là tốc độ mở lâu . Khi bấm máy lần thứ nhất màn trập mở, bấm lần thứ hai màn trập đóng . (Một số máy không có tốc độ T).
- B (bulb) cũng là tốc độ mở lâu . Khi bấm và giữ nút bấm màn trập mở , khi buông tay màn trập đóng . (T, B nó ở máy cơ nhé)
- Hai tốc độ kế nhau, thí dụ 1/60 và 1/125: tốc độ 1/125 nhanh gấp 2 lần 1/60 và cho lượng ánh sánh đến phim chỉ bằng nửa tốc độ 1/60.
6.2. Yếu tố ảnh hưởng:
6.2.1. Hướng di chuyển của chủ đề:
Chủ thể chạy ngang song song với ống kính cần tốc độ lớn hơn chạy chéo với ống kính. Cụ thể:
- Chủ thể chạy ngang song song với ống kính nếu dùng được tốc độ 1/250.
- Thì cùng với tốc độ ấy của chủ thể hướng chạy chéo (góc chuẩn 45độ) chỉ cần dùng tốc độ 1/125.
- Cũng cùng với tốc độ ấy của chủ thể hướng chạy thẳng vào ống kính, chúng ta chỉ cần dùng tốc độ 1/60
Lưu ý: Chọn tốc độ lia máy cũng phụ thuộc cả hướng chạy của chủ thể
6.2.2. Tiêu cự tại thời điểm chụp:
Cái này thì các bạn đã được biết qua "Quy tắc tốc độ an toàn tối thiểu rồi", tôi chỉ xin nhắc lại một tẹo:
Trong trường hợp chụp chỉ cầm bằng tay, để đảm bảo cho hình ảnh rõ nét, tránh bị rung. Tốc độ được lựa chọn tối thiểu là nấc tốc độ nhanh hơn và gần với tiêu cự ống kính tại thời điểm chụp nhất. Tốc độ này được gọi là tốc độ an toàn. Tốc độ chụp thấp hơn, hình ảnh rõ nét bắt đầu phụ thuộc vào sự may rủi.
Vậy nếu cầm tay chụp mà muốn hình ảnh rõ nét hãy ghi nhớ:
- Tốc độ chụp là phân số bé hơn và gần phân số 1/tiêu cự nhất (tại thời điểm chụp) (use shutter speeds of at least 1/focal-length)
- Khi sử dụng ống kính tiêu chuẩn tốc độ chậm nhất cần dùng là 1/60
- Tốc độ 1/15 thường là tốc độ chậm nhất mà cái tay ta có thể cầm được . Tôi nghĩ tương lai cái chân máy sẽ biến thành cái robot có thể gắn vào tay đấy?
6.2.3. Khoảng cách đến vật cần chụp:
Nó ảnh hưởng theo quy tắc: Cùng một chủ thể, khoảng cách tới máy ảnh càng xa thì tốc độ chụp có thể càng chậm.
Bởi hai lý do, thứ nhất đó là ở xa sự di động của vật sẽ ít bị ảnh hưởng hơn ở gần, nên chụp với tốc độ chậm hơn cũng có thể không bị mờ. Ví dụ nếu ở khán đài chụp xuống sân bóng (tiêu cự 200mm chẳng hạn), tốc độ chụp là 1/320. Người và bóng có thể không mờ nhoè, nhưng cùng hành động đó và cùng tiêu cự nếu chụp ở đường biên gần đối tượng hơn thì để hình không mờ nhoè như vậy, có thể ta phải dùng tốc độ 1/500. Ở đây các bạn có thể hình dung là súng của ta mà bắn với cùng tốc độ thì mục tiêu ở gần bị "Mai cơn tan nát" nhiều hơn là ở xa, thế thôi
Thứ hai, đó là độ phản quang của chủ thể càng bị giảm khi càng đứng xa ống kính nên về mặt nguyên lý thông thường càng xa chúng ta cũng phải chụp tốc chậm hơn với những yếu tố liên quan không đổi.
(b)