Đây là bài viét đăng trên báo em hôm qua, hơi nhiều chữ, các bác chịu khó đọc nhé
Nơi ấy, Trường Sa...
Chỉ còn đêm nay nữa thôi, ngày mai (29/3/2011), chúng tôi sẽ rời Trường Sa. Sẽ không còn cảm giác háo hức của hôm ra đảo trên con tàu có trọng lượng giãn nước hơn 1.000 tấn, trở về đất liền lần này lòng chúng tôi trĩu nặng tình cảm với những “người con của Mẹ Âu Cơ” đang hiên ngang sống trên đảo chìm, đảo nổi giữa trùng khơi. Biết bao giờ mới được sống những giây phút tình biển, tình người mênh mang đến vậy? Những giây phút xoáy vào chúng tôi cảm nhận, giữa trùng dương lớp lớp, những người lính đảo chính là tai, là mắt, là hồn của đảo thân yêu, là sức mạnh nơi tiền đồn của đất nước...
Đảo Sinh tồn, ngày 21/3…
Buổi giao lưu văn nghệ giữa các đoàn công tác và lính đảo diễn ra đúng như kế hoạch, những món quà tinh thần từ đất liền đang được các ca sỹ cả chuyên nghiệp và không chuyên thể hiện say sưa trong tiếng vỗ tay của những khán giả mặc quân phục hòa trong tiếng sóng biển ầm ào. Và rồi, gây bất ngờ và xúc động nhất, lại là “tiết mục” của tốp “ca sỹ nhí” - những cư dân của đảo Sinh Tồn - đứng trên sân khấu mà vẫn mặc áo may ô, quần đùi. “Chúng tôi đứng đây, gìn giữ biển đảo quê hương…”, “mãi mãi Trường Sa, mãi mãi bài ca, người lính đảo biên cương…”.
Ngay giây phút đó, tôi đã hiểu rằng, hình ảnh những “người lính nhỏ” trên đảo Sinh Tồn sẽ là sợi dây rung cảm ngân vang trong tôi cảm xúc thiêng liêng trong chuyến ra đảo lần đầu tiên này. Chính các em sẽ là những người tiếp bước cha anh vững vàng nơi biên cương sóng gió điệp trùng, tiếp nối ý chí bảo vệ chủ quyền đất nước. Sẽ là hơi quá nếu nói rằng, từ trong câu hát, những cậu bé, cô bé 7 - 8 tuổi đã ý thức được trách nhiệm tương lai của mình. Nhưng tôi tin rằng, từ những gương mặt trẻ thơ sớm rắn rỏi vì nắng gió Trường Sa ấy, đã sớm hiểu được rằng “Đảo này là của ta, biển này là của ta, ta đứng đây canh giữ nước non nhà…”.
Đảo Cô Lin, ngày 22/3…
Sau một đêm thức khuya câu cá, mọi người tỉnh ngủ khi nghe Trưởng đoàn thông báo qua loa: Sáng nay, đoàn sẽ lên đảo Cô Lin. Là một đảo chìm, nằm trong trọng điểm phòng thủ chiến lược nên Cô Lin như một pháo đài nhỏ giữa biển khơi. Do hạn chế về diện tích nên đoàn công tác lên đảo Cô Lin chỉ có 20 người. Từ xa, chúng tôi đã thấy lính đảo quân phục xanh trắng đứng thành hàng dài, vẫy vẫy tay chào. Lính đảo chìm ai nấy đều đen sạm, rắn rỏi, to cao. Đảo chìm thật xứng là nơi thử thách sức chịu đựng của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước hiểm nguy luôn rình rập bốn bề, trước khó khăn thường nhật: nước ngọt, thực phẩm, rau xanh, nỗi cô đơn…
Trên hòn đảo rộng mấy trăm mét vuông ấy, nước ngọt chủ yếu “đợi” những con mưa hiếm hoi; gạo và thực phẩm đóng hộp; còn rau được trồng đan xen mọi nơi có thể nhưng cũng chỉ đủ cho các anh bớt đi cái cảm giác thèm ăn món “đặc sản” này. “Cô đơn” là từ mà đoàn công tác không ai bảo ai nhưng đều cố tránh trong khi chuyện trò, thăm hỏi lính đảo. Dẫu biết rằng các anh vẫn hằng giây, hằng phút, hằng giờ, hằng ngày, hằng đêm… gan góc đối chọi, nhưng chúng tôi không thể không chạnh lòng.
Thời gian trôi đi, đã có hiệu lệnh hồi tàu khi câu chuyện với lính đảo vẫn còn dang dở. Đoàn công tác bịn rịn xuống xuồng về tàu mẹ; lính đảo lưu luyến ra tận cầu cảng tiễn đưa. Bỗng một ai đó cất lên “Vì nhân dân quên mình”, lập tức, cả đoàn công tác cùng anh em lính đảo, người dưới xuồng, người trên đảo, đồng thanh hát, hát rất to, hát rất xúc động, hát cho đến khi tiếng sóng biển ngăn cách hai bên, chỉ còn lại hình ảnh những cánh tay vẫy chào tạm biệt qua những đôi mắt nhòe lệ.
Lần đầu tiên trong đời phóng viên, tôi giương máy ảnh mà mắt nhòe ướt.
Nhà giàn DK 1, ngày 26/3…
Nhà giàn DK 1, cái tên nghe thật “lành”, nhưng đã đến đây rồi thì không thể nói như thế. Ai đã từng một thời mặc áo lính hẳn sẽ hiểu đơn vị trong tình trạng báo động chiến đấu cao là như thế nào. Đối với lính bộ binh, nâng cấp sẵn sàng chiến đấu cũng chỉ trong vài ngày, cùng lắm là 1 tuần... rồi hạ cấp dần. Nhưng với người lính DK 1 thì khác, họ trực chiến trong suốt cả năm. Vâng, đứng gác trên nhà giàn DK 1 vỏn vẹn hơn 100m2, chông chênh lắm giữa biển khơi vô tận, những người lính nơi đây lại không được phép “chông chênh”, dù trong một phút trước sự nhòm ngó, rình rập, bất thần xuất hiện của “tàu lạ”...
Hôm chúng tôi đến DK 1, biển động. “Cái đuôi” của cơn gió mùa đông bắc tháng 3 làm cho biển ngả màu ghi sẫm, sóng cuộn lên không ngừng. Dù đã neo tàu cả một đêm chờ đợi nhưng thời tiết mỗi lúc mỗi xấu đi, việc “tăng bo” cả đoàn công tác từ tàu lên nhà giàn trở nên bất khả thi. Trưởng tàu thông báo: “Sóng cấp 8, không thể lên nhà giàn, cách duy nhất để thăm hỏi cán bộ chiến sỹ là qua bộ đàm”. Khoang chỉ huy chật ních người, yên lặng đứng bên máy bộ đàm chờ trưởng tàu kết nối máy để giao lưu cùng chiến sỹ. Một buổi “giao lưu đặc biệt” nhất trong chuyến công tác và cũng chỉ có ở nhà giàn. Không có những cái bắt tay thật chặt, không có những món quà ấm áp trao tay từ đất liền, không được nhìn thấy mặt nhau. Chỉ có những lời chia sẻ chân tình và tiếng hát lào xào qua máy bộ đàm cầm tay. Và tất cả chúng tôi đều hát, hát tự đáy lòng, hát trong tâm trạng chưa bao giờ xúc động đến thế bài hát: “Nơi ấy là Trường Sa”.
“Phía xa xa chân trời nghìn trùng sóng gió, có những con người thay chúng ta đang vượt qua ngọn sóng…”
“Ngoài kia không có ngọc lan, không tiếng chim hót ngày nắng hồng. Không hẹn hò và không đón đưa, những trưa chiều về không tiếng hát
Chỉ có gió sương trên cánh tay những người tuổi trẻ đang kề bên nhau vì non sông mãi yên bình…”.
Những câu hát thay cho ngàn lời muốn nói của chúng tôi vang lên lướt sóng gửi tới nhà giàn DK1. Những giọt nước mắt lăn trên đôi má của anh ca sỹ trẻ tuổi đang hát và cả trên khuôn mặt đồi mồi nhăn nheo của bác Thái, cựu chiến binh Quân đoàn I. Ông Phạm Quang Thao, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ, đứng cầm bộ đàm đã mở, vì quá xúc động nên mãi mới nói nên lời: “Từ quê hương Phú Thọ, thay mặt những người con đất Tổ, xin được gửi tới các anh, những người đang đứng nơi đầu sóng ngọn gió, những lời tri ân. Trước chuyến đi, chúng tôi nghĩ rằng đến đây là để thăm hỏi, tặng quà và động viên các anh. Nhưng hôm nay đứng đây, giữa biển khơi mênh mông, chúng tôi mới hiểu rằng, chúng tôi ra đây là để được “soi mình”, để sống cho tốt hơn, sống có ý nghĩa hơn…”.
… Và chúng tôi đã lên tàu rời Trường Sa với muôn vàn cảm xúc dâng trào. Tàu rẽ sóng lao đi, biển cuộn mình đưa tiễn, phủ lên mặt boong những con sóng bạc đầu. Đêm đầu tiên xa Trường Sa, xa những người lính đảo, mở trang nhật ký, không thể nào khác được, tôi ghi: “Nơi ấy, giữa mịt mù sóng gió, có những con người suốt một thời trai trẻ đang sống vì Trường Sa. Ơi Trường Sa!..”/.