[Funland] Trong lịch sử, các cụ nhà ta đã bao nhiêu lần đánh sang Tung Của

GamCaoMayLanh

Xe lăn
Biển số
OF-333492
Ngày cấp bằng
5/9/14
Số km
10,374
Động cơ
519,647 Mã lực
Hiện tại thì có Đan Phượng Hầu Chim Sẻ Đi Nắng đánh đến tận Hàng Châu. Thật là tuổi nhỏ chim to, à nhầm chí nhớn.
 

comeback_FM

Xe tải
Biển số
OF-453037
Ngày cấp bằng
13/9/16
Số km
337
Động cơ
208,100 Mã lực
Vâng, Lưỡng quốc tướng quân Nguyễn Sơn cụ ạ. Cái chết của cụ sau này vẫn đang là câu hỏi lớn(?)
Vụ này cụ có thông tin gì không chia sẻ đi ạ.

Đánh kiểu chiến dịch ra trò, đánh phủ đầu chắc có mỗi cụ Lý Thường Kiệt, còn thì là kiểu phản công lẻ tẻ như hồi 79 thôi :)
- Thời Hai Bà Trưng đánh sâu nhất là cụ công chúa Phật Nguyệt. Cụ bà oánh thắng quân Mã Viện tận hồ Động Đình. Ngoài ra còn nhiều cụ bà cũng oánh và hi sinh bên đó giờ vẫn còn mộ, đền thờ bên TQ.
- Thời Lý Nam Đế thì cụ Lý Bí cũng đánh tan quân Lương ở bán đảo Hợp Phố.
- Cụ Lý Thường Kiệt thì các bác biết rồi.
- Thời cụ Lê Duẩn thì đặc công VN đánh sân bay quân sự Nam Ninh - Quảng Tây TQ năm 79 và năm 8x phá được 1/2 đài radar phản pháo Cymberline TQ mua của Mỹ với giá 10 triệu Reagan/đài.
Cả lẻ tẻ lẫn oánh kiểu cụ Kiệt cũng khá nhiều đấy ạ. Tuy nhiên tất cả có chung một kết quả là ta đánh thắng nhưng không ăn được. Cảm ơn các cụ góp vui.
 

mohinhtrung

Xe tăng
Biển số
OF-446839
Ngày cấp bằng
20/8/16
Số km
1,074
Động cơ
215,853 Mã lực
Tuổi
36
Tính đúng, tính đủ thì oánh mạnh nhất phải là Nam Việt Vương Triệu Đà.
Sau này cụ Ánh sang xin đặt tên nước là Nam Việt, nhà Thanh vẫn sợ cụ này phục quốc nên chỉ cho tên An Nam, sau sửa thành Việt Nam cũng vị cái dũng của cụ Đà, khiếp đến mấy trăm năm sau.
Em vào bảo tàng ở Quảng Châu phần Nam Việt nó bỏ bố đoạn nước mình đi còn bọn Tàu trên mạng bảo em nhận bậy bạ cụ Đà làm của mình. :(
 

mohinhtrung

Xe tăng
Biển số
OF-446839
Ngày cấp bằng
20/8/16
Số km
1,074
Động cơ
215,853 Mã lực
Tuổi
36
- Thời Hai Bà Trưng đánh sâu nhất là cụ công chúa Phật Nguyệt. Cụ bà oánh thắng quân Mã Viện tận hồ Động Đình. Ngoài ra còn nhiều cụ bà cũng oánh và hi sinh bên đó giờ vẫn còn mộ, đền thờ bên TQ.
- Thời Lý Nam Đế thì cụ Lý Bí cũng đánh tan quân Lương ở bán đảo Hợp Phố.
- Cụ Lý Thường Kiệt thì các bác biết rồi.
- Thời cụ Lê Duẩn thì đặc công VN đánh sân bay quân sự Nam Ninh - Quảng Tây TQ năm 79 và năm 8x phá được 1/2 đài radar phản pháo Cymberline TQ mua của Mỹ với giá 10 triệu Reagan/đài.
Có 2 cụ tướng đánh nhau với Lưu Long chết mấy vạn, em quên mất là tỉnh nào. Sau này Tàu nó phong 2 mợ Trưng làm dân đen nổi dậy chống tham quan. :))
 

SoDepCatTuong

Xe điện
Biển số
OF-93894
Ngày cấp bằng
4/5/11
Số km
3,186
Động cơ
426,186 Mã lực
- Thời Hai Bà Trưng đánh sâu nhất là cụ công chúa Phật Nguyệt. Cụ bà oánh thắng quân Mã Viện tận hồ Động Đình. Ngoài ra còn nhiều cụ bà cũng oánh và hi sinh bên đó giờ vẫn còn mộ, đền thờ bên TQ.
- Thời Lý Nam Đế thì cụ Lý Bí cũng đánh tan quân Lương ở bán đảo Hợp Phố.
- Cụ Lý Thường Kiệt thì các bác biết rồi.
- Thời cụ Lê Duẩn thì đặc công VN đánh sân bay quân sự Nam Ninh - Quảng Tây TQ năm 79 và năm 8x phá được 1/2 đài radar phản pháo Cymberline TQ mua của Mỹ với giá 10 triệu Reagan/đài.
Còn cụ Tôn Đản nữa mà. Quang TRung nữa. ...
 

mohinhtrung

Xe tăng
Biển số
OF-446839
Ngày cấp bằng
20/8/16
Số km
1,074
Động cơ
215,853 Mã lực
Tuổi
36
Có cụ nào biết về Lĩnh Nam cho em hỏi nước mình có tính vào vùng văn hóa Lĩnh Nam nói chung không? Như Võ Tắc Thiên ăn vải Nam không phải của mình thì ở đâu?
 

matizvan2009

Xe ngựa
Biển số
OF-42690
Ngày cấp bằng
8/8/09
Số km
26,130
Động cơ
1,293,997 Mã lực
Dân mình đánh sang suốt, đánh hàng.
 

Ku_Xop2010

Xe buýt
Biển số
OF-154084
Ngày cấp bằng
25/8/12
Số km
673
Động cơ
359,176 Mã lực
Thi thoảng em sang tận Bắc Kinh mở mặt trận, oánh thật lực.
Tiếc là toàn thua nên không khoe.
Em oánh sâu nhất là 16 cm
Cả triệu tinh binh của cụ xuất trận mà ko thu dc thắng lợi nào hi sinh hết nhỉ. Kết quả chỉ là mở dc cửa và thọc sâu dc 16 cm vào đất địch. Khụ khụ
 

SoDepCatTuong

Xe điện
Biển số
OF-93894
Ngày cấp bằng
4/5/11
Số km
3,186
Động cơ
426,186 Mã lực
E xin phép copy paste ạ, nguồn: https://www.facebook.com/notes/bùi-quang-minh/những-lần-trong-lịch-sử-quân-việt-tiến-qua-biên-giới-đánh-quân-tàu/10152898058807700/

Những lần trong lịch sử quân Việt tiến qua biên giới đánh quân Tàu
21 Tháng 11 2014 lúc 7:51
Đám đông thường được tinh thần dân tộc dẫn dắt theo cùng một hướng “cứ địch là toàn sang đánh ta, còn cứ ta thì chống trả và đánh lại”. Lịch sử cho thấy còn có những trường hợp ngoại lệ hơn chục lần quân Việt đã tấn công qua biên giới phía Bắc, được nêu dưới đây như một vài sự kiện cần nghiên cứu sâu hơn để làm rõ...





Các thời Nam Hán, Tống, Nguyên, Minh, Thanh vì lòng tham đã xâm chiếm, uy hiếp đã bị người Giao Chỉ đánh cho hao binh tổn tướng, khiếp hãi dăm bẩy phen. Các bậc anh hùng Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi, Nguyễn Huệ đã làm các triều đại bên Tàu phải chịu đớn hèn.


Tổ tiên ta cũng từng dăm phen nuôi chí đánh sang Trung Quốc. Tiền nhân coi Triệu Đà (Nam Việt Vũ Đế - vua nước Nam Việt) là vua nước ta, đóng đô ở Phiên Ngung, thành Quảng Châu ngày nay. Đến triều Đông Hán năm 43, đánh bại Hai Bà Trưng, tướng Mã Viện bèn dựng cột trụ đồng phân giới nhà Hán Giao Chỉ, khắc chữ “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng đổ thì người Giao Chỉ tuyệt diệt). Theo sách An Nam chí lược đời Trần thì Cột đồng nằm ở Khâm Châu, trước thuộc Quảng Đông nay thuộc Quảng Tây. Bởi vậy, các tiền nhân ôm mộng kéo Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) trở về với người Việt.





*) Lần 1: Theo Đại Việtsử ký toàn thư. Năm 542, vua Lương sai 2 tướng Tôn Quýnh và Lư Tử Hùng đem quânsang xâm lược nước ta. Hai tướng giặc sợ nên chỉ tiến quân dùng dằng, tốc độ rất chậm. Khi chúng mới kéo đến quận Hợp Phố (Quảng Đông) thì bị Lý Bí (tức Lý Nam Đế) đã cho quân chủ động sang tận Hợp Phố tấn công, khiến quân Lương mười phần chết đến sáu, bảy nên tan rã và phải bỏ mộng xâm lược. Chiến thắng đã giúp Lý Bí kiểm soát được toàn bộ Giao châu cộng thêm quận Hợp Phố (Quảng Đông)



*) Lần 2: Vào thời Tiền Lê, năm 995, hơn 100 chiến thuyền của Đại Cồ Việt đã tiến sang bờ biển nướcTống, đánh vào trấn Như Hồng thuộc Khâm Châu, sau đó rút quân. Khi nhà Tống gửi thư trách, vua Lê Đại Hành đã trả lời đầy thách thức rằng: “Việc cướp trấn Như Hồng là do bọn giặc biển ở cõi ngoài, hoàng đế có biết đó không phải là quân của Giao Châu không? Nếu Giao Châu có làm phản thì đầu tiên đánh vào Phiên Nhung,thứ đến đánh Mân Việt, há chỉ dừng ở trấn Như Hồng mà thôi?”.



*) Lần 3: Đến mùa hè năm 995, 5.000 hương binh châu Tô Mậu (Lạng Sơn) của Đại Cồ Việt đã tấn côngvào Ung Châu rồi lui binh.



*) Lần 4: Đến nhà Lý, năm 1022 vua Lý Thái Tổ đã sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh dẹp giặc Đại Nguyên Lịch. Quân Đại Việt đã đi sâu vào trấn Như Hồng của đất Tống, đốt kho tàng kẻ thù rồi rút về.



*) Lần 5: Năm 1052, thủlĩnh Nùng Trí Cao của người dân tộc Tráng (Tày - Nùng) ở Cao Bằng đem quân đánh vào miền Nam Trung Quốc, khiến vua Tống lo sợ. Vua Lý Thái Tông gửi chiếu đề nghị đưa quân sang giúp nước Tống, nhưng tướng Địch Thanh của nhà Tống can ngăn vì sợ người Việt lợi dụng việc này mà lấn chiếm lãnh thổ.



Tháng 10/1053, lấy danh nghĩa là ứng cứu cho nhà Tống, quân Đại Việt tiến vào đất Tống để tiếp ứng cho Nùng Trí Cao, nhưng tới nơi thì Nùng Trí Cao đã thua nên đành rút quân về.



*) Lần 6: Mùa xuân năm 1059, vua Lý Thánh Tông cho quân đánh Khâm Châu nước Tống, khoe binh uy rồi về, vì ghét nhà Tống phản phúc, khiến quân Tống nể sợ.



Năm 1060, vua Lý sai châu mục Lạng Châu là Thân Thiệu Thái đánh vào đất Tống, bắt được tướngTống là Dương Bảo Tài và quân lính, trâu ngựa đem về. Quân tống phản công nhưng thất bại, đành phái sứ giả sang điều đình. Tuy nhiên, phía Đại Việt quyết không trả tù binh.



*) Lần 7: Năm 1073, vua Thần Tôn nhà Tống cử Thẩm Khởi làm Tri châu Quế Châu cốt mưu toan việc đánh lấy nước Nam ta, vì nghe lời một quan biên thần dâng sớ về tâu nên chiếm Giao Chỉ: “Một vạn quân đem đánh đủ lấy được Giao Chỉ dễ dàng như chơi”.



Thẩm Khởi đến Quế Châu, đêm ngày lo việc luyện quân đóng thuyền, rèn luyện thủy chiến, sửa soạntấn công nước ta; lại dung nạp bọn Nùng Thiện Mỹ là tù trưởng dân Mường ở mạn ngược ta cho sang bên Tàu ở, chủ ý để dò binh tình và địa thế, phòng nay mai đi đánh thì dùng bọn ấy làm hướng đạo.

Vua Tống thấy Khởi làm hấp tấp, lộ chuyện quá liền vội bãi chức gọi về và sai Lưu Di xuống thay. Lưu Di muốn lập công nhanh chóng nên càng hăng hơn, ngoài việc xây đắp đồn lũy, dò la tình thế, lại đóng cửa biên giới, không cho dân sở tại vãng lai buônbán với ta…



Đầu năm 1075 ,Nhân Tôn bàn việc với Thái sư Lý Đạo Thành:

- Quân Tống thế thì láo thật. Dễ thường nó nghĩ nước ta không có gươm sắc để chặt bay đầu chúng nó chẳng? Việc này mẫu hậu và Thái sư định đối phó thế nào?



Thái sư Lý Đạo Thành tâu xin cho quân lên án ngữ biên giới, hễ binh nhà Tống ngó thấy ta phòngbị, tất không dám manh tâm quấy nhiễu ta nữa.

Nhân Tôn gạt mưu kế ấy:

- Không! Chúng nó đã rắp tâm đánh ta thì ta đánh nó trước. Sang tận nhà chúng nó mà đánh một chuyến cho biết tay. Xin mẫu hậu nghe con, Trung Quốc chỉ to xác đông người,chứ binh lực nhà Tống chưa chắc hơn ta.


Ỷ Lan Thái Phi nghĩ thầm con mình thông minh anh dũng, bàn có lẽ phải, bèn hỏi Lý ĐạoThành:

- Ta cũng nghĩ thế: phải đánh Tống một phen, cho họ bớt thói ngạo nghễ khinh khi tiểu quốc đi. Trong các võ thần nước ta, nên chọn ai đi làm tướng, theo ý ta quan Thái sư Lý Thường Kiệt được chăng?


Lý Đạo Thành tâu:

- Tướng tài nước ta hiện nay trừ Lý Thường Kiệt không ai đương nổi trọng nhậm này.



Năm 1075-1076, Lý Thường Kiệt và Tôn Đản khởi binh mười vạn, chia làm ba đạo quân kéo sang nước Tàu đánh đòn phủ đầu.

Đạo thứ nhất, nhì đánh hai châu Khâm, Liêm đất Quảng Đông.

Đạo thứ ba đánh Ung Châu đất Quảng Tây.



Lý Thường Kiệt đánh có mấy ngày, chiếm luôn cả Liên Châu và Khâm Châu, giết quân Tống và thổdân hơn tám nghìn người, tiêu hủy các thành lũy, phá kho lương dự trữ. Kéo tiếp một cánh quân chặn đánh viện binh nhà Tống ở Ải Côn Luân (gần Nam Ninh nay) phávỡ tan hoang và chém chết tướng địch Trương Thủ Tiết giữa trận.



Đạo binh Tôn Đản tiến đánh Ung Châu, vây Ung Châu hơn 40 ngày rồi trèo lên Thành Võ, Tháithú Tô Đạm tự thiêu mà chết, thành Ung Châu bị hạ.

Sử ta chép rằng từ tháng 10 năm trước đến tháng 5 năm sau, lính và dân Tàu bj chém giết tửthương hơn 10 vạn, bắt sống mấy trăm dân ba châu đem về. Đạo binh ung dung kéo về, quân Tống khiếp vía không dám đuổi theo, binh lực suy yếu.



*) Lần 8: Sang đờinhà Trần, năm 1241, vua Trần Thái Tông thấy một số tộc người ở nước Tống thường hay quấy nhiễu biên giới đã sai đốc tướng Phạm Kính Ân đem quân vượt biên giớiđánh vào hang ổ của chúng rồi về.



Cũng trong năm này 1241, vua thân chinh cầm quân vượt qua châu Khâm, châu Liêm đi đánh cáctrại Vĩnh An, Vĩnh Bình của nước Tống phía đường bộ. Vào địa phận nước Tống, vua tự xưng là Trai Lang, bỏ thuyền lớn ở trong cõi, chỉ đi bằng các thuyền nhỏ. Người châu ấy không biết là ai, đều sợ hãi chạy trốn. Đến sau biết là vua Việt,mới chăng xích sắt giữa sông để chặn đường thủy. Khi trở về, vua sai nhổ lấy vài chục cái neo đem về, rồi ung dung đi theo đường bộ về nước mà không sợ hãi lúng túng.



*) Lần 9: Đến mùa hạnăm 1242, vua Trần Thái Tông lại sai tướng Trần Khuê Bình đem quân trấn giữ biên giới phía Bắc, đánh vào lộ Bằng Tường của nước Tống để dẹp loạn.



*) Lần 10: Vào đời vua Trần Thánh Tông, đầu năm 1266, thủy quân Đại Việt tấn công rồi đánh đến tận núi Ô Lôi ở phía Đông Nam huyện Khâm (Quảng Đông), nhờ đó biết được quân Nguyên cóâm mưu xâm lược nước ta.



*) Lần 11: Sử nhà Nguyên ghi rằng, vào năm 1313, hơn 3 vạn quân Đại Việt đánh vào Vân Động, châu Trấn Yên, sau đó tấn công các xứ Lôi Động, Tri Động và châu Quy Thuận, cuối cùng là châu Dưỡng Lợi (nay thuộc Quảng Tây). Về sau nhà Nguyên phải cho sứ đến thương lượng quân Đại Việt mới rút lui.



*) Lần 12: Theo sử nhà Minh, năm 1438, thổ quan châu Tư Lang của Đại Việt đem quân đánh hai châu An Bình và Tư Lăng (nay thuộc Quảng Tây), vua Minh phải sai sứ sang nước ta thương thuyết.



*) Lần 13: Năm 1480, tổng binh tri Bắc Bình của Đại Việt là Trần Ao sai Đào Phu Hoán đem 600 quân đánh vào Cảm Quả, chiếm được ải Thông Quang (thuộc Quang Lang, Ôn Châu, Trung Quốc)rồi tiến vào Ban Động dựng rào chắn, sau đó tâu về triều đình. Vua Lê ThánhTông sau đó cho người lên biên giới “biện bạch phải trái với nhà Minh”.


*) Lần 14: Cuối đời Minh Sùng Trinh, nhà Minh suy vi, loạn lạc lan tràn khắp đất Tàu. Nhà Đại Thanhở Mãn Châu nhân đấy tràn qua dẹp loạn đồng thời lật nhà Minh giành quyền thống trị. Dòng dõi chót nhà Minh là Quế Vương cùng cựu thận về Triều Khánh (QuảngTây) dựng triều đình Vĩnh Lịch Đế. Quân Thanh rượt theo triệt hạ buộc vua Vĩnh Lịch trốn về Quế Lâm, rồi Vân Nam. Khoảng 1646-1647, Vĩnh Lịch Đế muốn nhờ binh lực nước ta nên phong vua Lê Thân Tông làm An Nam quốc vương, Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng làm Phó vương, làm mồi hư danh để cầu viện binh An Nam.



Chúa Trịnhtuy chẳng thừa binh lực nhưng cũng suy xét nhân cơ hội này có quyết toán được khoản nợ hơn nghìn năm: thu lại Lưỡng Quảng về nước ta không?



Đầu tháng 6 năm Đinh Tỵ (1647) ở Phủ Liêu có cuộc họp mặt quan trọng. Trịnh Tráng đặt vấn đề:

- Có phải bờ cõi nước ta nguyên xưa gồm cả Quảng Đông, Quảng Tây không? Ấy thế mà xưa nay không ai nghĩ đến sự thu phục đất cũ đó về cho nước nhà! Nay nhà Minhs uy vi, nước Tàu rối loạn, ta định thừa cơ lấy lại Lưỡng Quảng, các ngươi tínhsao?


Tiền quận công Lê Văn Hiếu nói:

- Điện hạ làm được việc này sẽ ghi công nghiệp với quốc gia, hậu thế thật không phải nhỏ.



Tướng quân Trịnh Đào lắc đầu:

- Nhưng đất Quảng Tây hiện còn Vĩnh Lịch Đế nhà Minh đóng đô, chả lẽ ta vừa mới thụphong lại giở mặt chiếm lấy chỗ đất dung thân của vua”



Chúa Trịnh chấpnhận:

- Thôi hãy để Quảng Tây đó cho vua nhà Minh dung thân, sau này sẽ tính. Nhưng còn QuảngĐông, ta nên thừa cơ quân Thanh chưa xuống đến nơi mà lấy ngay đi mới được.



Ninh quận công Trịnh Toàn, con Chúa Trịnh can ngăn:

-Con tưởng không nên, cứ xem sự thể Trung Quốc tất về Thanh triều làm chủ, rồi họ lấyuy lực trách vấn ta việc ấy, e đến sinh sự lôi thôi, thì làm thế nào.



Chúa Trịnh nói:

-Việc đời cứ “tiên phát chế nhân” (Nắm trước để ngăn người ta) là hơn. Khi quân Thanhxuống đến nơi, thấy sự dĩ nhiên, có lẽ phải chịu. Mà nếu họ muốn lôi thôi trách vấn ta chăng nữa, ta cũng có lý sự để phân giải. Họ bất quá là người ở bộ lạcTường Bạch trên Mãn Châu, bỗng thừa thời tràn xuống chiếm cả Trung Quốc, còn được thay huống hồ khi tay lấy một xó Quảng Đông mà chỉ là thu lại đất cũ của ta.



Trịnh Toàn lại nói:

- Bẩm kể lý sự thì đành như thế, nhưng còn sức mạnh nữa. Từ khi quân Thanh kéo vào cửaải, quân dân tướng sĩ nhà Minh theo hàng tấp nập. Con thiết tưởng đất QuảngĐông lúc này cũng đã có kẻ giữ hộ quân Thanh rồi. Việc thật khó khăn, cúi xinphụ vương suy nghĩ lại cho kỹ.



Trịnh Tráng quắc mắt trả lời cương quyết:

- Ta há không biết là việc khó khăn ư? Ở đời cứ thấy việc khó không làm thì cổ laibao nhiêu việc khó ai chịu làm bao giờ! Ý ta đã quyết rồi, không ai được bàn lảng ra. Ta cứ sai mấy đạo binh thuyền đi liệu để lấy được thì lấy, không thì kéo quân về, phỏng có làm sao?



Liền Chúa Trịnh hạ lệnh cho 2 tướng lĩnh Trịnh Lãm và Ngô Sĩ Vinh đem quân sĩ và ba trăm binh thuyền ra cửa Vân Đồn. Dù không lấy được toàn tỉnh cũng thu phục mấy châu quận ven biển, gần biên giới ta hơn hết.



Chúa Trịnh dặn riêng 2 tướng: - Hai ngươi đến đó, nếu thấy quân Thanh phòng bị rồi thế là họn hanh chân đến trước thì ta nên tìm lối nói khéo mà lui quân, đừng sinh sự tranh chiến…


Tướng Trịnh Lãm thưa: - Chúa thượng cho phép chúng tôi vì quốc thể, giao chiến với quân Thanh một phen,không lẽ gặp họ chưa chi mình đã tự lui? Chúng tôi có binh lực trong tay không phải ít.



Chúa Trịnh lắc đầu: - Không được, hai người trung dũng can đảm như thế, thật đáng ngợi khen, nhưng phải biết quân mình ở xa đến, vạn nhất đánh mà bất lợi, thêm thù oán với nhà Thanh sẽ liên lụy cho nước ta không nhỏ. Hiện nay họ Mạc trên Cao Bằng chưa trừ xong, mà họ Nguyễn Đàng Trong tất phải đánh tới, trong nước đã có haimũi giáo bên nách rồi, ta không thể rước thêm một mũi giáo ở ngoài đến, nhất lànhà Thanh. Vậy hai ngươi phải thể tất ý ta làm việc này cho cẩn thận nghe!



Sáng hôm sau,hơn ba trăm chiếc thuyền Việt Nam kéo buồm ra khơi rời bến Vân Đồn nhằm hướng Liêm Châu. Lịch triều hiến chương quyển 48 của Phan Huy Chú ghi chép rằng: “…Bọn Lãm đi qua Tây Đông ba thôn rồi đến Liêm Châu. Không ngờ nhà Thanh đã sai đô đốc đến làm tổng trấn ở đó rồi… Binh ta bèn rút về trước…”



*) Lần 15: Sau khi đuổi xong quân Thanh, vua Quang Trung nghĩ đến việc chuẩn bị binh lực, mưu sang đánhTrung Quốc. Ông nói với Ngô Thời Nhiệm: “Đánh xong trận này, ta muốn phiền ông sang dùng lời nói sao cho khéo để chỉ việc chiến tranh. Đợi mười năm nữa nướcta dưỡng sức phú cường rồi, bấy giờ ta không cần sợ nó nữa…



Quang Trung trực tiếp chăm nom, tuyển binh bắt linh, rèn đúc binh khí, tập luyện chiến trận. Nhân giặc Tầu đảng Thiên Địa Minh “Phản Thanh, phục Minh”, ông hỗ trợ cho quấy rối quân Thanh vùng giáp ranh. Năm Nhân Tí (1792), mọi việc chuẩn bị xong xuôi, Quang Trung sai sứ đem lễ vật sang Bắc Kinh cầu hôn một công chúa Mãn Thanh và xin trả lại Việt Nam đất tỉnh Lưỡng Quảng làm của hồi môn.



Cố nhiên, đó là cớ để danh chính ngôn thuận khởi binh, chỉ chờ sứ bộ là Võ Huy Tấn trở về làphát lệnh tiên phát. Không may, nhà vua bất ngờ lâm bệnh rồi thăng hà, thọ bốnmươi tuổi. Dự định ấp ủ cũng bị xấu số trôn vùi.



*) Lần 16: Chiến dịchThập Vạn Đại Sơn là một chiến dịch quân sự diễn ra trong thời gian từ tháng 6 đếntháng 10 năm 1949 do liên quân giữa bộ đội Việt Nam và Quân Giải phóng nhân dânTrung Quốc thực hiện tại khu biện giớiViệt - Quế chống lại quân đội của Quốc Dân Đảng.



Mục tiêu củachiến dịch là mở rộng vùng giải phóng tại khu vực dãy núi Thập Vạn Đại Sơn tại3 huyện Ung Châu, Long Châu và Khâm Châu giáp biên giới với vùng Đông Bắc Việt Nam, tạo điều kiện phát triển lực lượng phối hợp với đại quân của Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc khi đó đang ào ạt tiến về phía Nam.



Lực lượng Việt Minh tham gia liên quân là theo đề nghị của phía Trung Quốc. Năm 1949, theo đềnghị của đại diện ************* Trung Quốc, Tư lệnh Biên khu Việt – Quế (QuảngĐông – Quảng Tây), Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân ViệtNam phái một lực lượng vũ trang sang giúp Trung Quốc "xây dựng một khu giải phóng ở vùng Ung–Long – Khâm liền với biên giới Đông Bắc ta, thông ra bể, tạo điều kiện khuếch trương lực lượng, đón Đại quân Nam Hạ" (Mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày 23-4-1949).



Chiến dịch có hai hướng: Khâm Châu và Long Châu.



Trên hướng Long Châu, bộ đội Việt Nam đánh chiếm Bằng Tường, Thuỷ Khẩu (ngày 12 tháng 6),Hạ Đống (ngày 13 tháng 6). Ngày 18 tháng 6, diệt viện binh Quốc dân Đảng từ Long Châu xuống và tiến đánh Ninh Minh.



Trên hướngKhâm Châu, trong thời gian từ ngày 3 đến ngày 9 tháng 7, liên quân Trung-Việtđánh thị trấn Trúc Sơn (Zhushan) (trên đường Đông Hưng - Phòng Thành) nhưng không thành công. Ngày 25 tháng 7, liên quân chuyển sang tấn công quân Quốc dânĐảng tại Voòng Chúc, Mào Lêng, rồi tiến sát Phòng Thành. Quân Quốc dân Đảng phảirút khỏi các đồn bốt nhỏ, tập trung về các thị trấn Long Châu, Nà Lương, PhòngThành, Đông Hưng.



Chiến dịch kết thúc vào tháng 10 khi cánh quân từ phía bắc của Quân Giải phóng Trung Quốc đánh chiếm Nam Ninh. Đến đây, liên quân Trung-Việt đã chiếm được 10 trên 12 vị trí thuộc 3 huyện Long Châu, Khâm Châu, Phòng Thành, mở rộng vùng kiểm soát, tạo điều kiện thuận lợi cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đánh chiếm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.




Nguồn tham khảo:
1- Wikipedia
2- Con trời ngã xuống bùn đen, NXB Người Bốn Phương, Hà Nội 1941, Đào Trinh Nhất
 

comeback_FM

Xe tải
Biển số
OF-453037
Ngày cấp bằng
13/9/16
Số km
337
Động cơ
208,100 Mã lực
Em vào bảo tàng ở Quảng Châu phần Nam Việt nó bỏ bố đoạn nước mình đi còn bọn Tàu trên mạng bảo em nhận bậy bạ cụ Đà làm của mình. :(
Về Triệu đà thực ra hiện nay Sử Việt cũng như trên các diễn đàn chia làm hai trường phái đó là:
  • Coi Triệu Đà là một phần của lịch sử Việt Nam, nếu như vậy, vụ Mỵ Châu Trọng Thủy cũng như An Dương Vương thất thủ là tranh chấp nội bộ giữa các "bộ tộc" hay các "lãnh chúa" của Việt Nam. Nếu theo trường phái này thì Việt Nam to phết, bao gồm cả quận Nam Hải của Tàu ( cỡ gấp ba bốn lần diện tích Việt Nam lúc đó).
  • Triệu Đà là ngoại xâm. Như vậy đương nhiên Nước Việt ta mất về tay Triệu Đà từ thời điểm An Dương Vương sụp đổ. Sau đó Triệu Đà cũng ly khai nhà Tần lập ra nước Nam Việt riêng.
 

mohinhtrung

Xe tăng
Biển số
OF-446839
Ngày cấp bằng
20/8/16
Số km
1,074
Động cơ
215,853 Mã lực
Tuổi
36
Về Triệu đà thực ra hiện nay Sử Việt cũng như trên các diễn đàn chia làm hai trường phái đó là:
  • Coi Triệu Đà là một phần của lịch sử Việt Nam, nếu như vậy, vụ Mỵ Châu Trọng Thủy cũng như An Dương Vương thất thủ là tranh chấp nội bộ giữa các "bộ tộc" hay các "lãnh chúa" của Việt Nam. Nếu theo trường phái này thì Việt Nam to phết, bao gồm cả quận Nam Hải của Tàu ( cỡ gấp ba bốn lần diện tích Việt Nam lúc đó).
  • Triệu Đà là ngoại xâm. Như vậy đương nhiên Nước Việt ta mất về tay Triệu Đà từ thời điểm An Dương Vương sụp đổ. Sau đó Triệu Đà cũng ly khai nhà Tần lập ra nước Nam Việt riêng.
Không phải vụ đó cụ ạ! Bọn Tàu nó gạt Việt Nam ra khỏi Nam Việt để tránh việc dân ta đòi lại Lưỡng Quảng là địa bàn cư trú cũ của Bách Việt. Tức là nếu ai bảo là Nam Việt đổi ngược lại ra Việt Nam thì dân Tàu nó sẽ đổ cho Việt ta có ý đồ gây chiến với nước nó. :D
 

Uyenhd

Xe buýt
Biển số
OF-364362
Ngày cấp bằng
24/4/15
Số km
878
Động cơ
2,388,020 Mã lực
Đánh kiểu chiến dịch ra trò, đánh phủ đầu chắc có mỗi cụ Lý Thường Kiệt, còn thì là kiểu phản công lẻ tẻ như hồi 79 thôi :)
79 là đặc công mình đánh quấy rối vào Phòng Thành, Ma li pho.
Cá biệt có nhóm bộ đội ta khi rút bị lạc sang đất Tàu. Quá trình tìm đường về lại phá được kho tàng và hệ thống ra đa hiện đại của Tàu
 

nguyenlethang

Xe buýt
Biển số
OF-147071
Ngày cấp bằng
25/6/12
Số km
816
Động cơ
366,870 Mã lực
Nơi ở
Bản vừa
Qua Thanh Thuỷ tí mới là huyện Ma ly pho thôi ạ, Văn Sơn nó là thủ phủ của Vân Nam mà cụ, xa phết.
Chỗ các nói phải tên tiếng anh là Wenshan ko ah, em đi 2 lần, 1 lần bay sang Côn minh rồi đi xe đến, một lần thì đi xe từ thanh thtỷ 400km thì đến. Bạn cũng rủ nhưng nể tình hữu hảo nên không đánh ah!
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,468
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
cụ Tôn Đản được tính với cụ Lý Thường Kiệt rồi. Cụ Huệ chỉ truy kích quân Thanh đến biên giới là dừng.
P/s: Hết rượu cho nợ chén bác nhá.
có ông này oánh nhà Minh rất kinh:
Tứ Dương Hầu Phạm Tử Nghi
Chủ Nhật, 23/03/2014, 12:05 [GMT+7]

Đưa lên Facebook
.
.
Đầu năm 2014, xã Liên Hoà (TX Quảng Yên) tổ chức khánh thành đền Phạm Tử Nghi tại thôn 6 thuộc xã. Ngôi đền có diện tích 85m2, gồm 3 gian. Đền được xây theo lối kiến trúc cổ, toàn bộ kết cấu gỗ làm bằng gỗ lim. Tổng mức đầu tư hơn 3 tỉ đồng. Như tên gọi- đền thờ Phạm Tử Nghi thờ Tứ Dương Hầu Phạm Tử Nghi. Vậy ông là ai?

Theo Văn hoá Yên Hưng - Lịch sử hình thành và phát triển (NXB Chính trị Quốc gia - 2008 do Lê Đồng Sơn chủ biên, trang 228), Phạm Tử Nghi, tên huý là Phạm Thành, tên chữ là Tử Nghi. Ông sinh ngày 2-2-1509 tại làng Nghĩa Xá, xã Vĩnh Niệm huyện An Dương, trấn Hải Dương (nay là phường Niệm Nghĩa, quận Lê Chân, TP Hải Phòng). Nhờ có trí dũng hơn người, ông làm quan đến chức Tứ Dương Hầu của triều đình nhà Mạc.

Theo các tài liệu lịch sử, năm 1546, vua Mạc là Mạc Phúc Hải chết, con trưởng là Mạc Phúc Nguyên lên nối ngôi. Vì vua còn nhỏ tuổi, Phạm Tử Nghi có chủ trương lập Mạc Chính Trung là con thứ của Mạc Đăng Dung nối ngôi nhưng các đại thần nhà Mạc không nghe. Phạm Tử Nghi bèn cùng với Mạc Văn Minh là cháu Mạc Đăng Dung đưa Mạc Chính Trung về Hoa Dương, huyện Ngự Thiên (nay thuộc Thái Bình) lập triều đình riêng. Quân nhà Mạc đã nhiều lần tấn công nhưng đều bị Phạm Tử Nghi đánh bại.

Theo Văn hoá Yên Hưng - Di tích, văn bia, câu đối, đại tự (NXB Chính trị Quốc gia 2008, do Lê Đồng Sơn chủ biên, trang 371), về sau Phạm Tử Nghi đưa Mạc Chính Trung ra chiếm cứ vùng Yên Quảng (Quảng Ninh ngày nay) và đánh cả sang vùng Quảng Đông, Quảng Tây của nhà Minh. Minh sử quyển 321, tờ 29a - một sách lịch sử theo thể kỷ truyện do Trương Đình Ngọc biên soạn vào đời Thanh (Trung Quốc) chép rằng rằng: “Mạc Chính Trung đem gia thuộc chạy sang Khâm Châu quy phục nhà Minh, còn Tử Nghi thu tàn binh trốn ra Hải Đông”. Cũng Minh sử chép rằng năm 1547, Phạm Tử Nghi phao tin là Mạc Phúc Nguyên chết, phải đón Chính Trung về nối ngôi nên kéo quân sang Châu Khâm và Châu Liêm. Tổng đốc Quảng Đông sai quân phục đánh, bắt sống được em của Tử Nghi là Tử Lưu, đuổi Phạm Tử Nghi về tận Vân Đồn ở Hải Đông. Nhiều sách sử của ta như Hoàng Việt địa dư chí, Hải Dương toàn hạt tỉnh chí, v.v. cũng chép tương tự như thế.

Về cái chết của Phạm Tử Nghi, Đại Việt sử ký toàn thư tập 4, trang 138 chép: “...Bấy giờ nhà Minh muốn đem quân sang, họ Mạc sợ lắm, mới sai kẻ tiểu tốt đi bắt được (Tử Nghi) chém đầu, sai đưa sang nước Minh. Đi đến đâu thường sinh ôn dịch, người và súc vật bị hại nên người Minh trả lại”. Đại Việt sử ký toàn thư chép năm ông mất là năm 1551. Còn trong ngọc phả Nam Hải đại vương (hiện lưu ở miếu Đôn Nghĩa, xã Vĩnh Niệm) thì ghi ông chết ngày 14-9 đời Mạc Diên Thành (1578-1585). Hàng năm, vào ngày này, nhân dân trong xã vẫn cúng giỗ ông.

Do công tích của Phạm Tử Nghi đối với lịch sử nên ông được các triều đại phong kiến Lê, Nguyễn sắc phong thượng đẳng thần. Tại Hải Phòng, ước có khoảng hơn 20 làng xã thờ Phạm Tử Nghi (hay còn gọi là đức Thánh Niệm) làm thành hoàng hoặc phúc thần.

Tại Quảng Ninh, từ lâu Phạm Tử Nghi đã được nhân dân vùng Hà Nam (Quảng Yên) tôn lập đền, miếu thờ như miếu Vu Linh (làng Yên Đông, phường Yên Hải), phối thờ tại đình Quỳnh Biểu (phường Liên Hoà), chùa Lái (phường Liên Vị)… Có nơi như làng Hải Yến (phường Phong Hải), làng Động Linh (xã Minh Thành) tôn Phạm Tử Nghi là thành hoàng làng thờ ở trong đình. Các nơi thờ Phạm Tử Nghi đều tôn ngài là Đức Thánh Niệm hay Linh ứng Đại vương, Đại Hải chi thần. Tại miếu Vu Linh hiện còn các đôi câu đối ca ngợi Phạm Tử Nghi như: Thánh đức linh thiêng, Đông Hải núi sông thiên cổ miếu/ Thần thông chính trực/ xã tắc vững bền bốn mùa hương hay Đức lớn yên dân thiên cổ thịnh/ Công cao hộ quốc vạn niên thường.
 

Hulkvn

Xe điện
Biển số
OF-430070
Ngày cấp bằng
15/6/16
Số km
3,081
Động cơ
234,413 Mã lực
Tuổi
26
Thi thoảng em sang tận Bắc Kinh mở mặt trận, oánh thật lực.
Tiếc là toàn thua nên không khoe.
Em oánh sâu nhất là 16 cm
gớm tôi học với ông từ bé lạ éo gì. Có 9 phân lúc hoành nhất mà dám lên đây chém 16. Ngày xưa gọi tên còn phải đệm thêm tên dụt nữa để phân biệt thằng khác. Phét. Vang cho phát giờ
 

745Li

Xe container
Biển số
OF-68374
Ngày cấp bằng
15/7/10
Số km
9,483
Động cơ
504,959 Mã lực
Nơi ở
Chuồng bò
Chỗ các nói phải tên tiếng anh là Wenshan ko ah, em đi 2 lần, 1 lần bay sang Côn minh rồi đi xe đến, một lần thì đi xe từ thanh thtỷ 400km thì đến. Bạn cũng rủ nhưng nể tình hữu hảo nên không đánh ah!
Hình như có hơn 120km từ cửa khẩu vào Văn Sơn thôi cụ ạ, đến hẳn Côn Minh thì mới 400km.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top