Gia phả của thiết giáp Trung Quốc trong 60 năm
Giai đoạn 1950 với xe tank hạng trung
T-54A ( nặng 36 tấn trang bị pháo nòng xoắn DT-10 cỡ nòng 100mm ) cung cấp bởi Liên Xô nhờ hiệp định Hữu nghị Trung-Xô
Type 59 ( ZTZ-59 ) giới thiệu lần đầu vào 1959 , dần dần thay thế các bộ phận Liên Xô bằng nội địa , khoảng 1800 chiếc còn đang hoạt động ( Type 59-II và Type 59-D )
Xe lội nước
PT-76 cũng được Liên Xô viện trợ vào giữa thập niên 50s , nặng 15 tấn và trang bị pháo nòng xoắn 76.2mm D-56T
Giai đoạn 1960 thì bắt đầu nghiên cứu tank T-62 ( nặng 37 tấn và pháo nòng xoắn 100mm ) thu được sau giao tranh đảo Trân Bảo trong xung đột biên giới Trung-Xô 1969
Type 62 ( ZTQ-62 ) được giới thiệu vào 1963 phát triển từ Type 59 nhưng trang bị tháp pháo Type-63 với pháo nòng xoắn 85 mm , đây là tank hạng nhẹ ( light tank ) để phù hợp tác chiến địa hình phía Nam
Type 63 ( ZTS-63 ) giới thiệu cùng năm với Type 62 , phát triển từ PT-76
Giai đoạn 1970 với việc phát triển xe tank chiến đấu Type 69 ( ZTZ-69-I ) , là xe tank bản địa ( indigenous ) đầu tiên của Trung Quốc nhưng tất nhiên đi kèm một số thiết kế của T-62 Liên Xô , phiên bản thử nghiệm vào 1974 và trang bị vào 1982 , chủ yếu để xuất khẩu . Type 69 nặng 37 tấn với pháo nòng trơn ( smoothbored ) 100mm là xe tank đầu tiên trang bị pháo nòng trơn
Giai đoạn 1980 có biến chuyển lớn khi Liên Xô và Trung Quốc trở mặt thành thù vào giữa 1960 và đương nhiên lúc này quan hệ Trung Quốc phương Tây trở nên nồng ấm , do đó kỹ thuật xe tank phương Tây du nhập với động cơ Đức 730 mã lực , hệ thống kiểm soát hỏa lực của Anh , bản quyền pháo L7 của Áo và hộp số động cơ từ Pháp , chương trình chuyển giao này đột ngột chấm dứt sau sự kiện Thiên An Môn vào 1989
Type 79 ( ZTZ-79 ) giới thiệu vào 1984 với trọng lượng 39 tấn và pháo nòng xoắn 105mm ( license L-7 ) , là mẫu tank đầu tiên trang bị các công nghệ phương Tây , chủ yếu xuất khẩu nhưng khoảng 200 chiến trang bị cho quân đội , cải tiến từ Type 69
Type 80 ( ZTZ-80 ) , mẫu thử nghiệm 1981 , là mẫu xe tank thế hệ hai đầu tiên của Trung Quốc , thiết kế lại hoàn toàn bánh lái ( wheeltrain )
T-72 Iraq ( nặng 41 tấn với pháo nòng trơn 125 mm ) được đồng minh Iran chuyển giao nhờ chiến lợi phẩm trong chiến tranh Iran-Iraq
Type 88 ( ZTZ-88 ) với trọng lượng 39 tấn nhưng vẫn trang bị pháo nòng xoắn 105 mm , chi tiết kỹ thuật tương tự Type 80 , đáng chú là tank đầu tiên trang bị tấm bọc nhiệt ( thermal sleeve ) cho nòng pháo , áp dụng triệt để hơn nữa công nghệ phương Tây
Giai đoạn 1990 là giai đoạn bản lề khi nền công nghiệp tank thiết giáp Trung Quốc bắt đầu dung hòa công nghệ Liên Xô và phương Tây
Type 85 ( ZTZ-85 ) là phiên bản nâng cấp của Type 88 nhưng là tank đầu tiên trang bị tháp pháo hàn và giáp composite ( ảnh hưởng từ giáp Combine-K của T-72 ) , ra mắt 1991 , nhưng vẫn trang bị pháo nòng xoắn 105mm
Type 96 ( ZTZ-96 ) được giới thiệu vào 1997 , trọng lượng 48 tấn và pháo 125mm nòng trơn , đang là xương sống của lục quân Trung Hoa , trang bị kèm giáp hộp ( modular armor ) , 2500 chiến đang trực chiến , rõ ràng Trung Quốc học tập rất nhiều thiết kế của T-72 và với " đại nhảy vọt " lên trọng lượng 46-48 tấn đặc trưng của T-72/90 cũng như pháo nòng trơn 125mm copy dòng 2A46 huyền thoại
Type 63A ( ZTS-63A ) cùng năm với Type 96 là phiên bản nâng cấp của Type-63 , có khả năng bơi 7 km với nhiệm vụ tái chiếm Đài Loan , 200 chiếc đang phục vụ
Giai đoạn 2000 và hiện nay
Al Khalid / Type-90 ( ZTZ-90 ) , giới thiệu 2001 , phiên bản xuất khẩu cho Pakistan với động cơ Ukraine và hộp số phương Tây , nặng 46 tấn và trang bị pháo 125 mm
Type 99 ( ZTZ-99 ) nặng đến 58 tấn , được giới thiệu cùng năm với Al Khalid , là mẫu tank tinh nhuệ ( elite ) có thể so sánh với các mẫu xe tank chiến đấu chủ lực ( MBT ) phương Tây , 850 chiếc được sản xuất
Type 15 ( ZTQ-15 ) trang bị cho các đơn vị địa hình cao nguyên ( plateaus ) và rừng rậm , là tank hạng nhẹ với pháo nòng xoắn 105mm nặng chỉ 33 tấn
Type 05 ( ZTD-05 ) trang bị 2006 , chỉ hoạt động trong các đơn vị lính thủy đánh bộ của hải quân Trung Quốc ( PLAN ) và đang dần thay thế đám Type 63A cũ , 250 chiếc đã sản xuất