- Biển số
- OF-138332
- Ngày cấp bằng
- 13/4/12
- Số km
- 2,331
- Động cơ
- 390,417 Mã lực
Thưa các bác em mở Topic về hai con tầu rất có thể là đối thủ của nhau trên khu vực Biển Đông..
Hiện nay các tranh chấp biển đảo và các nguồn lợi trên biển của các quốc gia khu vực biển Đông đã làm dấy lên mối lo ngại về nguy cơ xảy ra xung đột quân sự. Bằng chứng cho thấy một số nước như Trung quốc - cường quốc mới nổi, đang không ngừng tăng chi phí quốc phòng, gia tăng sức mạnh quân sự, đặc biệt là lực lượng hải quân, chắc chắn không phải để bảo vệ chủ quyền đất nước, chống lại các cuộc tấn công từ bên ngoài mà chính là nhằm mở rộng kiểm soát khu vực biển Đông.
Việt nam cũng từng bước hiện đại hóa quân đội, tăng cường khả năng phòng thủ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, đặc biệt là nâng cao sức mạnh chiến đấu cho quân chủng hải quân. Nếu so sánh về vũ khí, khí tài quân sự giữa hải quân Việt nam và các cường quốc khác, rõ ràng cán cân không nghiêng về phía chúng ta. Vậy hải quân Việt nam có đủ mạnh để đương đầu với cuộc chiến tranh (giả sử) nếu nổ ra trong tương lai gần hay không?
Bằng kinh nghiệm xương máu trong các cuộc chiến tranh, chúng ta có thể tin chắc rằng: vũ khí, khí tài quân sự không bao giờ là yếu tố quyết định kết quả cuộc chiến. Chính tinh thần quyết chiến quyết thắng của cả một dân tộc nguyện hy sinh để bảo vệ Tổ quốc chính là yếu tố quyết định cho thắng lợi của dân tộc mình trước kẻ xâm lược.
Tuy nhiên để có một cái nhìn toàn diện hơn về lực lượng quân sự hải quân một số nước, chúng ta không nên có một cái nhìn phiến diện về một mặt nào đó mà cần đặt các xung đột trong bối cảnh chính trị toàn cầu, diễn biến từng giai đoạn của các mối quan hệ chiến lược cũng như thế mạnh địa, chính trị của chúng ta. Các so sánh trang thiết bị chỉ có tính tham khảo bởi khả năng tương đối của nguồn số liệu.
Hải quân Việt Nam hiện nay được cho là có khoảng 50 chiến hạm cỡ nhỏ với trang bị lạc hậu và khoảng vài trăm tàu xuồng chiến đấu trên sông. Các chiến hạm chủ yếu được chuyển giao từ Liên Xô cũ và một phần là chiến lợi phẩm từ hải quân VN Cộng hòa trước đây. Hiện nay Việt Nam đã tự đóng được vài chiến hạm nhỏ. Với mục tiêu từng bước hiện đại hóa hải quân, Việt Nam đã mua vài chiếc khu trục hạm lớp Gepard. Hải quân ta có khoảng 45 tầu chiến Petya là tàu khu trục cỡ nhỏ do Liên Xô chế tạo, trong đó có 18 Petya-I, 27 chiếc Petya-II. Phiên bản Petya-III dành cho xuất khẩu.
Việt Nam nhận 3 chiếc Petya-II đã qua sử dụng của Liên Xô và sau đó là 2 chiếc Petya-III vào năm 1978
Petya được thiết kế theo kiểu cổ điển từ thời chiến tranh thế giới thứ 2, mặc dù thời điểm nó sinh ra là vào thập niên 60, có lẽ do Petya không phải là lực lượng chiến đấu xung kích trong hải quân Xo Viết. Nhiệm vụ chính của Petya là tuần tra bờ biển và chống tàu ngầm. Tuy nhiên khả năng chống ngầm của Petya cũng còn hạn chế. Vũ khí
Petya-III có 2 tháp pháo với đại bác đôi 76,2 mm AK-726 với tầm bắn thẳng mục tiêu trên biển xa 8.2 km. AK-726 được điểu khiển bằng hệ thống tự động Fut-B có thể bắn hạ máy bay có tốc độ bay từ 350 – 650 m/s, ở độ cao từ 500 – 6000 m. Tầm bắn tối đa là 18,3 km. Tốc độ bắn là 45 viên trong 1 phút. Tuy nhiên đây là hệ thống pháo khá cũ được sản xuất vào các năm 1958 – 1964, cho nên có nhiều hạn chế về tầm bắn cũng như độ chính xác.
Tàu tên lửa Tarantul I Tàu phóng tên lửa lớp Tarantul I (Molniya) đã có mặt tại Việt Nam vào năm 1999. Và Việt Nam mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Hiện Việt Nam có khoảng 4 chiếc Tarantul 1, và 2 chiếc Tarantul thế hệ mới thuộc project 1412.8. Trong tương lai sẽ đóng thêm 20 chiếc Tarantul nữa Tàu chiến Tarantul dùng để tác chiến tại các vùng cửa biển và ven bờ. Tàu Tarantul trang bị nhiều loại vũ khí hiện đại và các khí tài tiên tiến, có khả năng độc lập tác chiến và chiến đấu hiệp đồng trong đội hình biên đội.
Hệ thống ra-đa trên tàu có: Ra-đa trinh sát băng HF, UHF, ra-đa nhận biết mục tiêu không-biển, ra-đa điều khiển, kiểm soát xạ kích cho tên lửa. 2 hệ thống phóng mồi bẫy và mồi bẫy nhiệt PK-10 cỡ 120 mm hoặc PK – 16 dùng để chống ra-đa và hệ thống trinh sát quang học của các hệ thống vũ khí của đối phương. Đạn mồi bẫy PK-16 cỡ 82mm, tầm hoạt động từ 200 mét đến 1800 mét. Tàu tên lửa Tarantul có lượng giãn nước 550 tấn, trang bị máy chính 2 trục, động cơ tua-bin khí 32.000 sức ngựa, 3 động cơ Diesel, công suất 500kW mỗi động cơ. Tàu có tầm hoạt động 2400 hải lý, hoạt động liên tục trong thời gian 10 ngày. Toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên tàu 44 người. Tàu còn trang bị các thiết bị điều hoà không khí, hệ thống thông gió tiên tiến nhất, bảo đảm cho tàu hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết. Việt Nam đã mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Sẽ có khoảng 20 chiếc sẽ ra đời tại Việt Nam Theo một số nguồn tin nước ngoài, 2 tàu Tarantul thế hệ mới cũng đã có mặt tại Việt Nam . Đây chính là 2 tàu đầu tiên thuộc Project 1241.8 “Thần Sấm”. Loại này có tầm hoạt động và hệ thống vũ khí tấn công hơn hẳn Tarantul 1. 2 chiếc này nằm trong hợp đồng mua 12 chiếc Taratul Project 1241.8 mà VN đã ký với Nga. Số còn lại sẽ do VN tự đóng theo công nghệ được chuyển giao . Theo một số chuyên gia nước ngoài phân tích, Với 2 chiếc Gepard (sẽ về Việt Nam cuối năm 2009) và trên 20 Tarantul hải quân Việt Nam sẽ tiến tới thành lập hạm đội biển Đông với trên dưới 30 chiến hạm hiện đại.
Hải quân Việt nam đã có 8 chiếc Khu trục hạm Gepard do Nga sản xuất.
Gepard 3.9 có rất nhiều cấu hình khác nhau được người Nga giới thiệu, và ta chọn cấu hình của Ghe đang được phía Nga đóng cho Việt Nam vì nó sắp xuất hiện tại biển đông. Tàu khu trục lớp Gepard 3.9 tải trọng 2.000 tấn, dài 102m, tốc độ tối đa đạt 23 hải lý/giờ, chở được một đội ngũ thủy thủ gồm 103 người và có tầm hoạt động là 5.000 dặm, Tàu được trang bị một hệ thống tên lửa 8 Uran-E chống tàu; một khẩu súng 76.2 mm AK-176 M; một hệ thống pháo phòng không Palma; 2 súng 30mm AK-630 M và các ốngphóng tên lửa chống ngầm. Tàu này có thể mang theo một máy bay trực thăng hải quân Helix Ka-28 hoặc Ka-31.Ghẻ đã được phía Nga thiết kế lại để có thêm tính năng tàng hinh.
Jiangwei-II Class
Tầu có trọng tải 2400T, dài 112m và có tốc độ 26 hải lý,vũ khí trên tầu bao gồm : 8 hệ thống phòng không tầm gắn HQ-7, 4 pháo 2x37mm nòng đôi tốc độ bắn 180 phát / phút, pháo chính trên tàu 100mm, hai dàn rocket chống ngầm type 87. Sức mạnh thật sự của lớp này là 8 quả tên lửa chống hạm YJ-83, có khả năng bay sát mặt biển, đầu nổ 165kg và tầm xa 160-180km. đây là tên lửa hiện đại của trung quốc theo nó có khả năng bay cách mặt nước 10-30m, và khả năng bay sát mặt nước 5m với tốc độ siêu âm 1.3-1.6m khi tân công, hệ thống điều khiển active/passive radar.
So sánh các chiến hạm tiêu biểu ở Đông Nam Á
DVO
Bài báo sẽ điểm qua 4 "gương mặt" nổi trội nhất trong số các chiến hạm chủ lực thuộc Hải quân các quốc gia Đông Nam Á, là Gepard 3.9, Formidable, Lekiu và Sigma.
Tiếp nối dòng bài về Hải quân các nước ASEAN, Đất Việt xin đi sâu vào phân tích ưu thế của các chiến hạm tiêu biểu trong khu vực, dựa trên các tiêu chí về khả năng tấn công, phòng vệ, cơ động và mức độ hiện đại...
Dưới đây là các phân tích cụ thể:
Khả năng tấn công
Nhìn chung, các chiến hạm tiêu biểu kể trên có vũ khí chủ lực là tên lửa chống hạm. Nếu Gepard 3.9 trang bị tên lửa Kh-35 và Formidable (của Singapore) trang bị tên lửa Harpoon, 2 chiến hạm còn lại sử dụng tên lửa Exocet. Bên cạnh đó, cũng cần xét tới uy lực của các pháo hạm.
Chiến hạm lớp Lekiu của Malaysia được trang bị 8 tên lửa Exocet Block 2, tầm bắn 70km đầu đạn nặng 165kg, một pháo 57mm tầm bắn 17km với tốc độ 220 viên/phút.
Còn Sigma của Indonesia có 4 tên lửa Exocet Block 2, một pháo Oto Melara 76mm với các tính năng như trên Formidable.
Formidable có 8 tên lửa Harpoon tầm bắn 130km đầu đạn 227kg, bên cạnh đó là 1 khẩu pháo Oto Melara 76mm tầm bắn 16km, bắn đạn pháo 6kg với tốc độ lên tới 120 viên/phút.
Gepard có 8 tên lửa Kh-35 Uran-E tầm bắn 130km, một pháo AK-176M 76mm tầm bắn 10km với tốc độ 120 viên/phút.
Về cơ bản các tên lửa cận âm như Exocet, Harpoon hay Uran-E khá giống nhau ở chỗ được radar tàu chiến hay máy bay dẫn đường ở pha đầu và tự sử dụng radar của tên lửa ở pha cuối. Tuy nhiên, do tầm hoạt động thấp, các tàu trang bị loại tên lửa Exocet phải tiếp cận đối phương gần hơn so với Gepard 3.9 và Formidable
Với các thông số (số lượng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tầm bắn) của tên lửa như đã nói, kết hợp với pháo hạm trang bị, có thể tạm xếp sức mạnh các tàu chiến theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, tiếp đó là Lekiu và Sigma.
Hệ thống phòng vệ của các tàu chiến trên đều có loại tầm gần và cực gần, cùng hệ thống chống ngầm.
Trong đó, chiến hạm lớp Lekiu có 2 pháo phòng không CWIS MSI 30mm tốc độ bắn 650 viên/phút, 16 tên lửa phòng không Sea-wolf tầm bắn 6km. Khả năng bảo vệ ở mức trung bình.
Sigma có 8 tên lửa phòng không Mistral với tầm bắn 5,3km tốc độ 800m/giây, về căn bản đây là loại tên lửa phòng không vác vai cải tiến nên không thể bằng các loại chuyên nghiệp như Aster hay Seawolf. Hơn nữa, các tên lửa này có cơ chế điều khiển đơn giản (bằng hồng ngoại) và số lượng tên lửa ít.
Gepard có 2 pháo phòng không AK-630 30mm, tổ hợp phòng không gồm 2 pháo AO-18KD 30mm và 8 tên lửa nạp sẵn Sosna-R tầm bắn 8km với tốc độ 1.200m/giây. Hệ thống bảo vệ 4 nòng 30mm kết hợp với 8 tên lửa (có thể hơn) giúp Gepard có khả năng bảo vệ tương đối tốt.
Còn Formidable có tên lửa phòng không Aster-15 với 32 quả tên lửa, loại tên lửa 2 tầng này có thể đánh chặn các loại tên lửa chống hạm cận âm bay thấp khác (ở cự ly 15km), các UAV (ở cự ly 30km).
Nhìn chung, dựa vào số lượng, cự ly đánh chặn và số lượng trang bị, có thể xếp theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, Lekiu và cuối cùng là Sigma.
Khả năng cơ động và dự trữ hành trình
Lekiu có lượng giãn nước 2.270 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn 164 người.
Sigma có lượng giãn nước 1.700 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn chừng 80 người
Formidable có tốc độ 27 hải lý/giờ, gần bằng 2 chiến hạm trên nhưng có lượng giãn nước lên tới 3.200 tấn, với thủy thủ đoàn 85 người.
Gepard 3.9 cũng không thua kém gì các tàu bạn khi có vận tốc tối đa là 28 hải lý/giờ, với lượng giãn nước 2.100 tấn, thủy thủ đoàn 103 người
Qua so sánh ta thấy về tốc độ tối đa thì các tàu tương đương nhau, tầm hoạt động cũng đều chừng 5000 dặm nhưng Formidable của Singapore có tải trọng gấp rưỡi các tàu còn lại với số lượng thủy thủ ít, do đó khả năng dự trữ thực phẩm sẽ vượt trội hơn các tàu khác, qua đó cũng góp phần nâng cao khả năng đi biển dài ngày.
Trong hạng mục này, Formidable vẫn đầu bảng, các tàu xếp sau khó phân "hơn thua".
Xét về tàng hình phụ thuộc vào các yếu tố như thiết kế, chất liệu, các thiết bị phụ trợ, vậy chúng ta tạm thời sẽ đánh giá khả năng tàng hình qua thiết kế hình dáng bên ngoài con tàu.
Chiến hạm Lekiu có thiết kế nhiều thiết bị đặt lộ thiên, điều này sẽ tăng phản xạ radar lên rất nhiều, qua đó khiến nó “nổi bật: trên màn hình theo dõi hơn các tàu khác.
Sigma có thiết kế tương đối ổn, giống như Gepard 3.9 nếu so Formidable có thiết kế "dấu biệt" vũ khí, phương tiện, khí tài vào bên trong. Bất cứ chuyên gia kỹ thuật quân sự nào nhìn vào sẽ cho điểm Formidable cao nhất trong các tàu kể trên.
Về khả năng thông tin liên lạc cũng như thiết bị trên tàu, sẽ khá là khó để kiểm chứng vì các thông số của nhà sản xuất chỉ ở mức tham khảo, nhưng cũng sẽ không khó nhận ra con tàu có tải trọng lớn nhất lại có số người điều khiển gần ít nhất là khả năng tự động hóa sẽ rất cao, đó là Formidable.
Vì vậy, trong hạng mục này, thứ tự lần lượt sẽ là: Formidable, Gepard 3.9 và Sigma, Lekiu.
Như vậy, không khó để nhận ra Formidable là chiến hạm hiện đại nhất Đông Nam Á, Gepard 3.9 cũng sử dụng những công nghệ khá hiện đại, nó có một số vượt trội so với các tàu của Malaysia hay Indonesia.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, những phép thử so sánh trên đây đơn giản chỉ dựa vào thông số kĩ thuật. Trong tác chiến, thành bại còn phụ thuộc vào kĩ năng của người sử dụng cũng như nghệ thuật quân sự. Hiện đại là quan trọng, con người là quyết định.
http://quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/So-sanh-cac-chien-ham-tieu-bieu-o-Dong-Nam-A/20117/156700.datviet
Hiện nay các tranh chấp biển đảo và các nguồn lợi trên biển của các quốc gia khu vực biển Đông đã làm dấy lên mối lo ngại về nguy cơ xảy ra xung đột quân sự. Bằng chứng cho thấy một số nước như Trung quốc - cường quốc mới nổi, đang không ngừng tăng chi phí quốc phòng, gia tăng sức mạnh quân sự, đặc biệt là lực lượng hải quân, chắc chắn không phải để bảo vệ chủ quyền đất nước, chống lại các cuộc tấn công từ bên ngoài mà chính là nhằm mở rộng kiểm soát khu vực biển Đông.
Việt nam cũng từng bước hiện đại hóa quân đội, tăng cường khả năng phòng thủ, bảo vệ chủ quyền quốc gia, đặc biệt là nâng cao sức mạnh chiến đấu cho quân chủng hải quân. Nếu so sánh về vũ khí, khí tài quân sự giữa hải quân Việt nam và các cường quốc khác, rõ ràng cán cân không nghiêng về phía chúng ta. Vậy hải quân Việt nam có đủ mạnh để đương đầu với cuộc chiến tranh (giả sử) nếu nổ ra trong tương lai gần hay không?
Bằng kinh nghiệm xương máu trong các cuộc chiến tranh, chúng ta có thể tin chắc rằng: vũ khí, khí tài quân sự không bao giờ là yếu tố quyết định kết quả cuộc chiến. Chính tinh thần quyết chiến quyết thắng của cả một dân tộc nguyện hy sinh để bảo vệ Tổ quốc chính là yếu tố quyết định cho thắng lợi của dân tộc mình trước kẻ xâm lược.
Tuy nhiên để có một cái nhìn toàn diện hơn về lực lượng quân sự hải quân một số nước, chúng ta không nên có một cái nhìn phiến diện về một mặt nào đó mà cần đặt các xung đột trong bối cảnh chính trị toàn cầu, diễn biến từng giai đoạn của các mối quan hệ chiến lược cũng như thế mạnh địa, chính trị của chúng ta. Các so sánh trang thiết bị chỉ có tính tham khảo bởi khả năng tương đối của nguồn số liệu.
Hải quân Việt Nam hiện nay được cho là có khoảng 50 chiến hạm cỡ nhỏ với trang bị lạc hậu và khoảng vài trăm tàu xuồng chiến đấu trên sông. Các chiến hạm chủ yếu được chuyển giao từ Liên Xô cũ và một phần là chiến lợi phẩm từ hải quân VN Cộng hòa trước đây. Hiện nay Việt Nam đã tự đóng được vài chiến hạm nhỏ. Với mục tiêu từng bước hiện đại hóa hải quân, Việt Nam đã mua vài chiếc khu trục hạm lớp Gepard. Hải quân ta có khoảng 45 tầu chiến Petya là tàu khu trục cỡ nhỏ do Liên Xô chế tạo, trong đó có 18 Petya-I, 27 chiếc Petya-II. Phiên bản Petya-III dành cho xuất khẩu.
Việt Nam nhận 3 chiếc Petya-II đã qua sử dụng của Liên Xô và sau đó là 2 chiếc Petya-III vào năm 1978
Petya được thiết kế theo kiểu cổ điển từ thời chiến tranh thế giới thứ 2, mặc dù thời điểm nó sinh ra là vào thập niên 60, có lẽ do Petya không phải là lực lượng chiến đấu xung kích trong hải quân Xo Viết. Nhiệm vụ chính của Petya là tuần tra bờ biển và chống tàu ngầm. Tuy nhiên khả năng chống ngầm của Petya cũng còn hạn chế. Vũ khí
Petya-III có 2 tháp pháo với đại bác đôi 76,2 mm AK-726 với tầm bắn thẳng mục tiêu trên biển xa 8.2 km. AK-726 được điểu khiển bằng hệ thống tự động Fut-B có thể bắn hạ máy bay có tốc độ bay từ 350 – 650 m/s, ở độ cao từ 500 – 6000 m. Tầm bắn tối đa là 18,3 km. Tốc độ bắn là 45 viên trong 1 phút. Tuy nhiên đây là hệ thống pháo khá cũ được sản xuất vào các năm 1958 – 1964, cho nên có nhiều hạn chế về tầm bắn cũng như độ chính xác.
Tàu tên lửa Tarantul I Tàu phóng tên lửa lớp Tarantul I (Molniya) đã có mặt tại Việt Nam vào năm 1999. Và Việt Nam mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Hiện Việt Nam có khoảng 4 chiếc Tarantul 1, và 2 chiếc Tarantul thế hệ mới thuộc project 1412.8. Trong tương lai sẽ đóng thêm 20 chiếc Tarantul nữa Tàu chiến Tarantul dùng để tác chiến tại các vùng cửa biển và ven bờ. Tàu Tarantul trang bị nhiều loại vũ khí hiện đại và các khí tài tiên tiến, có khả năng độc lập tác chiến và chiến đấu hiệp đồng trong đội hình biên đội.
Hệ thống ra-đa trên tàu có: Ra-đa trinh sát băng HF, UHF, ra-đa nhận biết mục tiêu không-biển, ra-đa điều khiển, kiểm soát xạ kích cho tên lửa. 2 hệ thống phóng mồi bẫy và mồi bẫy nhiệt PK-10 cỡ 120 mm hoặc PK – 16 dùng để chống ra-đa và hệ thống trinh sát quang học của các hệ thống vũ khí của đối phương. Đạn mồi bẫy PK-16 cỡ 82mm, tầm hoạt động từ 200 mét đến 1800 mét. Tàu tên lửa Tarantul có lượng giãn nước 550 tấn, trang bị máy chính 2 trục, động cơ tua-bin khí 32.000 sức ngựa, 3 động cơ Diesel, công suất 500kW mỗi động cơ. Tàu có tầm hoạt động 2400 hải lý, hoạt động liên tục trong thời gian 10 ngày. Toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên tàu 44 người. Tàu còn trang bị các thiết bị điều hoà không khí, hệ thống thông gió tiên tiến nhất, bảo đảm cho tàu hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết. Việt Nam đã mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Sẽ có khoảng 20 chiếc sẽ ra đời tại Việt Nam Theo một số nguồn tin nước ngoài, 2 tàu Tarantul thế hệ mới cũng đã có mặt tại Việt Nam . Đây chính là 2 tàu đầu tiên thuộc Project 1241.8 “Thần Sấm”. Loại này có tầm hoạt động và hệ thống vũ khí tấn công hơn hẳn Tarantul 1. 2 chiếc này nằm trong hợp đồng mua 12 chiếc Taratul Project 1241.8 mà VN đã ký với Nga. Số còn lại sẽ do VN tự đóng theo công nghệ được chuyển giao . Theo một số chuyên gia nước ngoài phân tích, Với 2 chiếc Gepard (sẽ về Việt Nam cuối năm 2009) và trên 20 Tarantul hải quân Việt Nam sẽ tiến tới thành lập hạm đội biển Đông với trên dưới 30 chiến hạm hiện đại.
Hải quân Việt nam đã có 8 chiếc Khu trục hạm Gepard do Nga sản xuất.
Gepard 3.9 có rất nhiều cấu hình khác nhau được người Nga giới thiệu, và ta chọn cấu hình của Ghe đang được phía Nga đóng cho Việt Nam vì nó sắp xuất hiện tại biển đông. Tàu khu trục lớp Gepard 3.9 tải trọng 2.000 tấn, dài 102m, tốc độ tối đa đạt 23 hải lý/giờ, chở được một đội ngũ thủy thủ gồm 103 người và có tầm hoạt động là 5.000 dặm, Tàu được trang bị một hệ thống tên lửa 8 Uran-E chống tàu; một khẩu súng 76.2 mm AK-176 M; một hệ thống pháo phòng không Palma; 2 súng 30mm AK-630 M và các ốngphóng tên lửa chống ngầm. Tàu này có thể mang theo một máy bay trực thăng hải quân Helix Ka-28 hoặc Ka-31.Ghẻ đã được phía Nga thiết kế lại để có thêm tính năng tàng hinh.
Jiangwei-II Class
Tầu có trọng tải 2400T, dài 112m và có tốc độ 26 hải lý,vũ khí trên tầu bao gồm : 8 hệ thống phòng không tầm gắn HQ-7, 4 pháo 2x37mm nòng đôi tốc độ bắn 180 phát / phút, pháo chính trên tàu 100mm, hai dàn rocket chống ngầm type 87. Sức mạnh thật sự của lớp này là 8 quả tên lửa chống hạm YJ-83, có khả năng bay sát mặt biển, đầu nổ 165kg và tầm xa 160-180km. đây là tên lửa hiện đại của trung quốc theo nó có khả năng bay cách mặt nước 10-30m, và khả năng bay sát mặt nước 5m với tốc độ siêu âm 1.3-1.6m khi tân công, hệ thống điều khiển active/passive radar.
So sánh các chiến hạm tiêu biểu ở Đông Nam Á
DVO
Bài báo sẽ điểm qua 4 "gương mặt" nổi trội nhất trong số các chiến hạm chủ lực thuộc Hải quân các quốc gia Đông Nam Á, là Gepard 3.9, Formidable, Lekiu và Sigma.
Tiếp nối dòng bài về Hải quân các nước ASEAN, Đất Việt xin đi sâu vào phân tích ưu thế của các chiến hạm tiêu biểu trong khu vực, dựa trên các tiêu chí về khả năng tấn công, phòng vệ, cơ động và mức độ hiện đại...
Dưới đây là các phân tích cụ thể:
Khả năng tấn công
Nhìn chung, các chiến hạm tiêu biểu kể trên có vũ khí chủ lực là tên lửa chống hạm. Nếu Gepard 3.9 trang bị tên lửa Kh-35 và Formidable (của Singapore) trang bị tên lửa Harpoon, 2 chiến hạm còn lại sử dụng tên lửa Exocet. Bên cạnh đó, cũng cần xét tới uy lực của các pháo hạm.
Chiến hạm lớp Lekiu của Malaysia được trang bị 8 tên lửa Exocet Block 2, tầm bắn 70km đầu đạn nặng 165kg, một pháo 57mm tầm bắn 17km với tốc độ 220 viên/phút.
Còn Sigma của Indonesia có 4 tên lửa Exocet Block 2, một pháo Oto Melara 76mm với các tính năng như trên Formidable.
Formidable có 8 tên lửa Harpoon tầm bắn 130km đầu đạn 227kg, bên cạnh đó là 1 khẩu pháo Oto Melara 76mm tầm bắn 16km, bắn đạn pháo 6kg với tốc độ lên tới 120 viên/phút.
Gepard có 8 tên lửa Kh-35 Uran-E tầm bắn 130km, một pháo AK-176M 76mm tầm bắn 10km với tốc độ 120 viên/phút.
Tên lửa đối hạm Harpoon.
Về cơ bản các tên lửa cận âm như Exocet, Harpoon hay Uran-E khá giống nhau ở chỗ được radar tàu chiến hay máy bay dẫn đường ở pha đầu và tự sử dụng radar của tên lửa ở pha cuối. Tuy nhiên, do tầm hoạt động thấp, các tàu trang bị loại tên lửa Exocet phải tiếp cận đối phương gần hơn so với Gepard 3.9 và Formidable
Với các thông số (số lượng trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu, tầm bắn) của tên lửa như đã nói, kết hợp với pháo hạm trang bị, có thể tạm xếp sức mạnh các tàu chiến theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, tiếp đó là Lekiu và Sigma.
Gepard 3.9 của Việt Nam.
[SIZE=-0]Formidable của Singapore.[/SIZE]
Khả năng phòng vệHệ thống phòng vệ của các tàu chiến trên đều có loại tầm gần và cực gần, cùng hệ thống chống ngầm.
Trong đó, chiến hạm lớp Lekiu có 2 pháo phòng không CWIS MSI 30mm tốc độ bắn 650 viên/phút, 16 tên lửa phòng không Sea-wolf tầm bắn 6km. Khả năng bảo vệ ở mức trung bình.
Sigma có 8 tên lửa phòng không Mistral với tầm bắn 5,3km tốc độ 800m/giây, về căn bản đây là loại tên lửa phòng không vác vai cải tiến nên không thể bằng các loại chuyên nghiệp như Aster hay Seawolf. Hơn nữa, các tên lửa này có cơ chế điều khiển đơn giản (bằng hồng ngoại) và số lượng tên lửa ít.
Gepard có 2 pháo phòng không AK-630 30mm, tổ hợp phòng không gồm 2 pháo AO-18KD 30mm và 8 tên lửa nạp sẵn Sosna-R tầm bắn 8km với tốc độ 1.200m/giây. Hệ thống bảo vệ 4 nòng 30mm kết hợp với 8 tên lửa (có thể hơn) giúp Gepard có khả năng bảo vệ tương đối tốt.
Còn Formidable có tên lửa phòng không Aster-15 với 32 quả tên lửa, loại tên lửa 2 tầng này có thể đánh chặn các loại tên lửa chống hạm cận âm bay thấp khác (ở cự ly 15km), các UAV (ở cự ly 30km).
Nhìn chung, dựa vào số lượng, cự ly đánh chặn và số lượng trang bị, có thể xếp theo thứ tự: Formidable, Gepard 3.9, Lekiu và cuối cùng là Sigma.
Mô phỏng các vị trí trên Formidable
[SIZE=-0]Bắn tên lửa Seawolf trên chiến hạm lớp Lekiu.[/SIZE]
Về nhiệm vụ chống ngầm, 3 tàu chiến lớp Formidable, Lekiu, Sigma lại đều dùng ngư lôi hạng nhẹ 324mm của cùng 1 nhà sản xuất còn khả năng của Gepard 3.9 hiện là ẩn số nên trường hợp này chưa thể đưa ra "xếp hạng".Khả năng cơ động và dự trữ hành trình
Lekiu có lượng giãn nước 2.270 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn 164 người.
Sigma có lượng giãn nước 1.700 tấn, tốc độ tối đa 28 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn chừng 80 người
Formidable có tốc độ 27 hải lý/giờ, gần bằng 2 chiến hạm trên nhưng có lượng giãn nước lên tới 3.200 tấn, với thủy thủ đoàn 85 người.
Gepard 3.9 cũng không thua kém gì các tàu bạn khi có vận tốc tối đa là 28 hải lý/giờ, với lượng giãn nước 2.100 tấn, thủy thủ đoàn 103 người
Qua so sánh ta thấy về tốc độ tối đa thì các tàu tương đương nhau, tầm hoạt động cũng đều chừng 5000 dặm nhưng Formidable của Singapore có tải trọng gấp rưỡi các tàu còn lại với số lượng thủy thủ ít, do đó khả năng dự trữ thực phẩm sẽ vượt trội hơn các tàu khác, qua đó cũng góp phần nâng cao khả năng đi biển dài ngày.
Trong hạng mục này, Formidable vẫn đầu bảng, các tàu xếp sau khó phân "hơn thua".
Sigma của Indonesia
[SIZE=-0]Lekiu của Malaysia[/SIZE]
Tính năng tàng hình và tự động hóa trên tàuXét về tàng hình phụ thuộc vào các yếu tố như thiết kế, chất liệu, các thiết bị phụ trợ, vậy chúng ta tạm thời sẽ đánh giá khả năng tàng hình qua thiết kế hình dáng bên ngoài con tàu.
Chiến hạm Lekiu có thiết kế nhiều thiết bị đặt lộ thiên, điều này sẽ tăng phản xạ radar lên rất nhiều, qua đó khiến nó “nổi bật: trên màn hình theo dõi hơn các tàu khác.
Sigma có thiết kế tương đối ổn, giống như Gepard 3.9 nếu so Formidable có thiết kế "dấu biệt" vũ khí, phương tiện, khí tài vào bên trong. Bất cứ chuyên gia kỹ thuật quân sự nào nhìn vào sẽ cho điểm Formidable cao nhất trong các tàu kể trên.
Về khả năng thông tin liên lạc cũng như thiết bị trên tàu, sẽ khá là khó để kiểm chứng vì các thông số của nhà sản xuất chỉ ở mức tham khảo, nhưng cũng sẽ không khó nhận ra con tàu có tải trọng lớn nhất lại có số người điều khiển gần ít nhất là khả năng tự động hóa sẽ rất cao, đó là Formidable.
Vì vậy, trong hạng mục này, thứ tự lần lượt sẽ là: Formidable, Gepard 3.9 và Sigma, Lekiu.
Theo dõi bắn tên lửa Aster trên Formidable
[SIZE=-0]Sigma của Indonesia có thiết kế khá "mượt"[/SIZE]
Kết luận tạm thờiNhư vậy, không khó để nhận ra Formidable là chiến hạm hiện đại nhất Đông Nam Á, Gepard 3.9 cũng sử dụng những công nghệ khá hiện đại, nó có một số vượt trội so với các tàu của Malaysia hay Indonesia.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, những phép thử so sánh trên đây đơn giản chỉ dựa vào thông số kĩ thuật. Trong tác chiến, thành bại còn phụ thuộc vào kĩ năng của người sử dụng cũng như nghệ thuật quân sự. Hiện đại là quan trọng, con người là quyết định.
http://quocphong.baodatviet.vn/Home/QPCN/So-sanh-cac-chien-ham-tieu-bieu-o-Dong-Nam-A/20117/156700.datviet
Chỉnh sửa cuối: