Từ điển Hán Việt Thiều Chửu,chữ hối trong "hối đoái" lại được giảng theo nghĩa quay lại/rót vào (trang 61),như kiểu dòng tiền chảy vào một tk thì dùng "hối",chữ hối không mang nghia tiền tệ ở tất cả các chú dẫn trong tự điển này,quyền khác thì em không biết.
Chứ "hối" (TĐTC trang 579 )trong hối lộ (cả hối và lộ đều có bộ Bối) thì ở chữ hóa hối.Tác giả giảng nghĩa,hóa là của cải vàng ngọc,hối là lụa vải.Một nghĩa khác,đồng nghĩa với chữ lộ ở trên là đút của,đút lót hội lộ từ chữ này mà ra. Cũng không có nghĩa tiền tệ.
Có nhiều chữ hối khác nữa trong từ điển Thiều Chửu,không chữ nào có nghĩa là tiền tệ.
Chữ hối trong hối mại,đáng phải là chữ hối dùng trong kinh Dịch,chỉ cái xấu,cái đáng hổ thẹn.Mua cái xấu,cáng đáng hổ thẹn.Chứ chữ mại nó cũng đến mấy chữ mại,chọn một nghĩa khả dĩ ghép được thì hối mại nó thành ra bán cái hối hận,cái đáng thẹn.
Từ heo hắt em dùng chỉ về ngọn đèn có thể chưa "hợp tai" nhưng đã có người dùng,em nhớ là nhạc sến hay thơ Nguyễn Bính cũng có dùng 'heo hắt".Thành thử nói đến ngọn đèn heo hắt là em tưởng tượng đến một cảnh trí hoang vắng,hanh hao với ngọn đèn mong manh sắp tắt.Đại loại thế...còn nếu bảo đấy là sáng tạo của bạn phóng tinh viên,em cho rằng đấy cũng là một sáng tạo được của nó,nhưng dĩ nhiên,từ đấy đã trong từ vựng rồi.