[Funland] 25 năm trước, ngày 4/12/1998 bắt đầu xây dựng Trạm không gian quốc tế ISS

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Trạm không gian quốc tế dưới đây gọi tắt là ISS, được xây dựng nhằm thay thế Trạm không gian MIR (do Nga sản xuất) đã lạc hậu và hư hỏng
Nga, Mỹ và nhiều nước khác như Nhật, Pháp, Anh, Ý, Canada đã thoả thuận bắt tay xây dựng ISS
ISS ngày nay (2023), ISS gồm ba module chính: UNITY (Mỹ sản xuất), ZARYA (Nga sản xuất) và ZVEZDA (Nga sản xuất).
ISS (2).jpg

Sau 25 năm hoạt động và xây lắp, ISS đã nở rộng dần, và cho tới hôm nay có chiều dài 109 mét, rộng 74 mét, nặng 420 tấn
Viên gạch đầu tiên của ISS là Module ZARYA (do Nga sản xuất) sđược tên lửa đẩy Proton đưa lên không gian hôm 20/11/1998
Hai tuần sau, hôm 4/12/1998, Mỹ phóng tàu con thoi Endeavour số hiệu STS-88, chở module UNITY lên không gian. Endeavour có mang một dụng cụ đặc biệt là cánh tay robot tên là Canadarm (so Canada sản xuất) để dễ dàng lắp ghép hai module này
Vì thế, hôm qua 4/12/2023, người ta kỷ niệm 25 năm ngày xây dựng ISS trong bối cảnh căng thẳng Nga với phương Tây. Nga sẽ rút bỏ khỏi chương trình ISS vào năm 2028, các nước còn lại sẽ tiếp tục nuôi ISS thêm hai năm nữa và năm 2030, NASA đã chuẩn bị 1 tỷ USD để đưa ISS từ không gian chìm xuống biển Thái Bình Dương
ISS_Zvezda module (10).png

3 module chính của ISS ngày nay
Ngày đầu tiên chỉ có hai Module thôi
ISS_Zvezda module (16).jpg
ISS_Zvezda module (17).jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

minhmo

Xe cút kít
Biển số
OF-81131
Ngày cấp bằng
25/12/10
Số km
19,233
Động cơ
3,563,553 Mã lực
Nơi ở
chuồng sư tử
Em xin căn mặt tiền hóng thông tin về một vấn đề khá hóc búa này.
Cảm ơn cụ Ngao5 đã chia sẻ.


Hiện nay trên ISS đã có cánh tay robot Canadarm, mỗi năm NASA chi 125 triệu USD để bảo trì nó
ISS- Canadarm (1).jpg
Cắt phế được 10% thì ngon quá. :D
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Trở lại chuyến bay lắp ghép ZARYA với UNITY
ISS_Zarya module (10).jpg

Zarya được phóng lên bởi một tên lửa đẩy Proton hôm 20/11/1998
ISS_Zarya module (14).jpg

Hôm 4/12/1998, tàu con thoi Endeavour chuyên bay STS-88 đã chở theo UNITY trong bụng. Sau vài giờ, Endeavour đã nhìn thấy ZARYA và việc lắp ghép UNITY với ZARYA kéo dài 3 ngày, đến ngày 7/12/1998 thì hoàn thành
Trong hình trên thì ZARYA trống rỗng, không có nhiên liệu, thuần tuý chỉ là cái vỏ mà thôi
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Hôm 4/12/1998 (cách đây tròn 25 năm) tàu con thoi Endeavour xuất phát chở trong bụng module UNITY bay lên không gian
STS-88 Endeavour (1).jpg
STS-88 Endeavour (2).jpg

Toàn bộ Endeavour nặng 6.000 tấn. Khi khởi động phóng lên, sử dụng nhiên liệu rắn khoảng 2000 tấn, cháy trong 2 phút để đưa tàu lên được độ cao 45 km. Sau đó, tàu sử dụng hai bình nhiên liệu lỏng màu da cam (chứa hydro và oxy lỏng) để bay tiếp. Hai bình này có dung tích 2000 mét khối, tương đương hơn 2.000 tấn nhiên liệu và ô xy lỏng, sẽ được đốt cháy trong hai phút nữa để đưa tàu đến độ cao 80 km. Tại đây tàu sẽ nhả hai thùng nhiên liệu này, và người ta sẽ thu hồi nó khi rơi xuống biển
Từ độ cao 80 km, tàu sử dụng nhiên liệu mang trong bụng để tiếp tục bay tới độ cao 400 km, nơi ISS sẽ hình thành
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Lúc 3:35 a.m.EST hôm 2/4/1998, Endeavour xuất phát từ Trung tâm Không gian Kennedy ở tiểu bang Florida. Ảnh: Brian Cleary
STS-88 Endeavour (3).jpg
STS-88 Endeavour (4).jpg
STS-88 Endeavour (5).jpg
STS-88 Endeavour (6).jpg
STS-88 Endeavour (7).jpg
STS-88 Endeavour (8).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
STS-88 Endeavour (10).jpg

Phi hành đoàn ăn bữa cuối cùng trước khi xuất phát
STS-88 Endeavour (11).jpg
STS-88 Endeavour (12).jpg
STS-88 Endeavour (13).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
STS-88 Endeavour (14).jpg
STS-88 Endeavour (15).jpg
STS-88 Endeavour (16).jpg

Hai phi hành gia điều kiện tàu con thoi
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Zarya là một module của trạm không gian quốc tế ISS. Zarya trong tiếng Nga có nghĩa là "bình minh". Là một "khối hàng hoá chức năng" (Functional Cargo Block), viết tắt theo tiếng Nga là FGB, module này được tài trợ bởi Hoa Kỳ nhưng lại được Nga xây dựng và phóng lên. Nó được đưa lên quỹ đạo vào ngày 20 tháng 11 năm 1998 tại sân bay vũ trụ Baikonur Cosmodrome, Kazakhstan bởi một tên lửa đẩy Proton của Nga.
Là module đầu tiên của ISS đi vào quỹ đạo, FGB là mốc quan trọng đánh dấu một kỷ nguyên hợp tác mới trong công nghệ vũ trụ giữa hai cường quốc Nga và Mỹ sau nhiều thập niên đối đầu.
Sau khi ở trên quỹ đạo vài tuần, vào ngày 7 tháng 12 năm 1998 Zarya được kết nối với module Unity của Mỹ bởi tàu con thoi Endeavour.
Unity được phóng lên quỹ đạo trên tàu Endeavour vào ngày 4 tháng 12 năm 1998. Module này được chế tạo bởi Trung tâm không gian liên bang nghiên cứu và sản xuất Khrunichev (Khrunichev State Research and Production Space Center) ở Moskva theo một hợp đồng phụ với hãng Boeing.
Chức năng
Nhiệm vụ chính của Zarya là điều chỉnh hướng cho trạm, đảm bảo thông tin liên lạc với mặt đất cũng như cung cấp năng lượng cho module Unity trước khi những chức năng này được giao lại cho Zvezda, dự định được đưa lên quỹ đạo 6 tháng sau đó.
Tuy nhiên, do một sự đình trệ mà phải hai năm sau module thứ 3 này của trạm ISS mới được phóng lên. Zvezda là một module hậu cần (service module) cung cấp những điều kiện sống đầu tiên tạo tiền đề cho những phi hành đoàn đầu tiên sinh sống trên trạm. Hiện tại, chức năng chủ yếu của Zarya là để tích trữ hàng hóa cũng như là hành lang nối các bộ phận thuộc phần của Nga trên trạm.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Thông số kỹ thuật
Nặng 19.323 kg, Zarya dài 12,6 m, bề rộng lớn nhất của nó là 4,1 m. Thời gian hoạt động dự kiến là 15 năm, nhưng có thể còn lâu hơn. Nó nhận năng lượng từ 2 tấm năng lượng mặt trời kích thước 10,7 m × 3,4 m. Mỗi tấm được bao bởi một tấm kính có phủ một lớp chuyển đổi quang điện. Các tấm năng lượng mặt trời này được bung ra sau khi module được đưa vào quỹ đạo.
90% năng lượng được hấp thu từ bên bề mặt hướng về phía Mặt Trời, 10% còn lại là ở bề mặt kia thu được từ ánh sáng mặt trời bị phản xạ bởi Trái Đất. Năng lượng được nạp vào 6 ắcquy niken-cadmi trong hệ thống cung cấp năng lượng. Hệ thống này có thể cung cấp một công suất trung bình khoảng 3 kW điện.
Trong giai đoạn đầu của dự án ISS, hệ thống này dùng để cung cấp năng lượng cho 2 module Zarya và Unity. Sau này, với sự sáp nhập thêm của Zvezda, FGB được dùng để biến đổi năng lượng từ phần của Mỹ (128 Vdc) để sử dụng ở phần của Nga (28 Vdc). Ngoài ra, 16 thùng chứa nhiên liệu ngoài của Zarya còn có thể chứa tới hơn 6 tấn nhiên liệu.
Hệ thống điều chỉnh hướng của module gồm 24 vòi đẩy (steering jet) lớn và 12 vòi đẩy nhỏ. 2 động cơ lớn có thể dùng để nâng độ cao cho trạm cũng như để thay đổi quỹ đạo trước khi Zvezda được lắp ghép vào trạm.
Các cổng lắp ghép (docking port) của nó có thể cho phép sự lắp ghép với tàu chuyên chở người Soyuz cũng như tàu vận tải không người lái Progress đều của Nga. Module này đã được chỉnh sửa để có thể được nạp nhiên liệu bởi tàu vận tải Progress mỗi khi tàu này đậu vào cổng lắp ghép phía dưới của module.
 
  • Vodka
Reactions: ITI

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Module UNITY
ISS_Unity module (7).jpg

UNITY, còn một cái tên kỹ thuật khác là Node 1, là module đầu tiên hoàn toàn của Mỹ trên ISS. Module này là một khoang để kết nối các khu vực khác nhau của trạm ISS với 6 cổng kết nối ở 6 mặt khác nhau của nó.
Chức năng
Unity đặt nền tảng cho tất cả các module của Mỹ trên trạm với 6 cổng kết nối, mỗi cổng trên mỗi mặt. Trong đó, một cổng để kết nối với Zarya, các cổng còn lại để kết nối với các bộ phận và module của Mỹ trên trạm như phòng thí nghiệm Destiny, Node 3, Quest Joint Airlock, giàn Z1. Các nguồn tài nguyên quan trọng trên trạm không gian như chất lỏng, hệ thống hỗ trợ sự sống và kiểm soát môi trường, hệ thống điện và dữ liệu được dẫn qua Unity để phục vụ cho các khu vực làm việc và sinh hoạt trên trạm.
Kỹ thuật
Node 1 dài 5,5 m, đường kính 4,6 m, nhỏ hơn một chút so với Node 2 và Node 3, 2 module có chức năng tương tự được lắp ghép vào trạm sau này. Unity được chế tạo bằng nhôm. Hơn 50.000 thiết bị cơ học, 216 đường dây dẫn chất lỏng và khí, và 121 đường dây cáp điện chạy bên trong cũng như bên ngoài sử dụng khoảng 9,7 km đường dây đã được lắp đặt bên trong Unity.
Ngoài ra, 2 thiết bị kết nối (docking adapter) hình nón cũng được lắp vào mỗi đầu của Unity trước khi nó được phóng lên trên tàu Endeavour. Các thiết bị này, được gọi là thiết bị kết nối điều áp (pressurized mating adapter - PMA), cho phép hệ thống kết nối sử dụng bởi tàu con thoi cũng như các module của Nga lắp ghép vào các cửa cũng như các cơ cấu nối kết (berthing mechanism) của Node 1. Một trong các thiết bị hình nón trên được dùng để gắn kết Unity với Zarya trong khi cái còn lại được dùng như một "bến đậu" (docking port) cho các tàu con thoi. Unity cùng với hai thiết bị kết nối kể trên dài khoảng 36 feet và nặng khoảng 25.600 pound. Gắn vào bên ngoài của thiết bị kết nối giữa Unity với Zarya là các máy tính, các bộ điều biến - giải điều biến (multiplexer - demultiplexer) giúp cung cấp sự ra lệnh và điều khiển ban đầu của Unity.
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
ISS_Unity module (8).jpg

ISS_Unity module (11).jpg

10/1998 – Unity và các thành viên phi hành đoàn STS-88 tại trung tâm không gian Kennedy
ISS_Unity module (1).jpg
ISS_Unity module (2).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
ISS_Unity module (9).jpg

Unity được ghép vào hệ thống kết nối (docking system) của Endeavour
ISS_Unity module (12).jpg

Unity được nhấc lên bởi cánh tay robot tự động của tàu con thoi Endeavour
ISS_Unity module (13).jpg

Bên trong Unity
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Trong ba ngày 5, 6, 7/12/1998, các chuyên gia phi hành gia đã kết nối hai module ZARYA và UNITY với nhau. Công việc kết thúc hôm 7/12/1998
ISS_Unity module (4).jpg

6/12 cánh tay robot lắp ghép hai module
STS-88 Endeavour (17).jpg

Cảnh lắp ghép hai module UNITA và ZARYA trên không gian
STS-88 Endeavour (18).jpg
STS-88 Endeavour (19).jpg
STS-88 Endeavour (20).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
12/1998 – Cảnh lắp ghép hai module UNITA và ZARYA trên không gian
STS-88 Endeavour (21).jpg
STS-88 Endeavour (22).jpg
STS-88 Endeavour (23).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
12/1998 – Cảnh lắp ghép hai module UNITA và ZARYA trên không gian
STS-88 Endeavour (24).jpg
STS-88 Endeavour (25).jpg
STS-88 Endeavour (26).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
STS-88 Endeavour (28).jpg

6/12 cánh tay robot lắp ghép hai module
STS-88 Endeavour (28_2).jpg

Zarya sau khi được lắp ghép với Unity
STS-88 Endeavour (28_1).jpg

13/2/1998. một tuần sau khi Zarya được lắp ghép với Unity
 

BinhWalker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-753624
Ngày cấp bằng
20/12/20
Số km
4,953
Động cơ
22,680 Mã lực
Trạm không gian quốc tế dưới đây gọi tắt là ISS, được xây dựng nhằm thay thế Trạm không gian MIR (do Nga sản xuất) đã lạc hậu và hư hỏng
Nga, Mỹ và nhiều nước khác như Nhật, Pháp, Anh, Ý, Canada đã thoả thuận bắt tay xây dựng ISS
ISS ngày nay (2023), ISS gồm ba module chính: UNITY (Mỹ sản xuất), ZARYA (Nga sản xuất) và ZVEZDA (Nga sản xuất).
ISS (2).jpg

Sau 25 năm hoạt động và xây lắp, ISS đã nở rộng dần, và cho tới hôm nay có chiều dài 109 mét, rộng 74 mét, nặng 420 tấn
Viên gạch đầu tiên của ISS là Module ZARYA (do Nga sản xuất) sđược tên lửa đẩy Proton đưa lên không gian hôm 20/11/1998
Hai tuần sau, hôm 4/12/1998, Mỹ phóng tàu con thoi Endeavour số hiệu STS-88, chở module UNITY lên không gian. Endeavour có mang một dụng cụ đặc biệt là cánh tay robot tên là Canadarm (so Canada sản xuất) để dễ dàng lắp ghép hai module này
Vì thế, hôm qua 4/12/2023, người ta kỷ niệm 25 năm ngày xây dựng ISS trong bối cảnh căng thẳng Nga với phương Tây. Nga sẽ rút bỏ khỏi chương trình ISS vào năm 2028, các nước còn lại sẽ tiếp tục nuôi ISS thêm hai năm nữa và năm 2030, NASA đã chuẩn bị 1 tỷ USD để đưa ISS từ không gian chìm xuống biển Thái Bình Dương
ISS_Zvezda module (10).png

3 module chính của ISS ngày nay
Ngày đầu tiên chỉ có hai Module thôi
ISS_Zvezda module (16).jpg
ISS_Zvezda module (17).jpg
Biết bao giờ thế giới mới trở lại thời kỳ yên bình, cả thế giới cùng hợp tác vũ trụ, khoa học, phát triển vì loài người như 25 năm trước nhỉ?

Bây giờ thì Mỹ và đồng minh xây trạm mặt trăng (Lunar Gateway), Trung quốc thì xây Thiên Cung, các nước khác tụt hậu
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,069
Động cơ
1,121,055 Mã lực
Theo kế hoạch. 6 tháng sau khi Unity + Zarya hoàn thành, thì Modul Zvezda phải đưa lên quỹ đạo. Nhưng do phía Nga chậm trễ, nên phải hai năm sau thì Zvezda mới lên được
Module hậu cần Zvezda là một là đóng góp đầu tiên hoàn toàn của Nga cho Trạm không gian quốc tế. Zvezda đã trở thành nền tảng cho sự định cư đầu tiên của con người trên trạm. Trong tiếng Nga, Zvezda có nghĩa là "ngôi sao".
Zvezda được phóng lên bằng một tên lửa đẩy Proton vào ngày 11 tháng 7 năm 2000 tại bãi phóng Baikonur Cosmodrome, Kazakhstan. Ngày 25 tháng 7 năm 2000, nó được lắp ghép thành công vào module Zarya của trạm ISS, lúc đó mới chỉ có 2 module Zarya và Unity, ở độ cao khoảng 440 km.
Chức năng
Module hậu cần là nơi sinh hoạt chính ban đầu của các phi hành gia trên trạm. Nó có một hệ thống hỗ trợ sự sống, phân phối năng lượng điện và xử lý dữ liệu. Ngoài ra nó còn có hệ thống điều khiển bay cũng như hệ thống đẩy, giúp nó thực hiện các chức năng này thay cho Zarya khi nó vừa được lắp ghép vào trạm. Nó cũng có một hệ thống thông tin liên lạc có khả năng nhận được các lệnh điều khiển từ dưới mặt đất. Hiện tại, nhiều chức năng của Zvezda đang được hỗ trợ hoặc thay thế bởi các bộ phận của Mỹ. Tuy nhiên, nó vẫn là bộ phận trung tâm về mặt cấu trúc cũng như chức năng của phần của Nga trên trạm cũng như là nơi ở chính của các thành viên phi hành đoàn. Cơ quan không gian châu Âu (ESA) cung cấp một hệ thống quản lý dữ liệu, hoạt động giống như bộ não của Zvezda. Hệ thống máy tính này không chỉ điều khiển các chức năng của module hậu cần, mà còn đưa ra sự điều khiển đối với các bộ phận trên trạm của Nga cũng như lái và định hướng cho trạm cho tới khi phòng thí nghiệm Destiny được lắp ghép vào trạm trong chuyến bay STS-98. Destiny chứa các hệ thống đảm nhiệm việc quản lý và điều khiển các hoạt động của ISS. Việc điều khiển sự định hướng của ISS là sự phối hợp trách nhiệm của các bộ phận của Nga và Mỹ. Module hậu cần cung cấp sự đẩy cho trạm trong các hoạt động như việc nâng độ quỹ đạo định kỳ cho trạm. Hệ thống hoa tiêu của Zvezda cung cấp dữ liệu cho hệ thống điều khiển chuyển chuyển động trên Destiny hỗ trợ cho việc lái trạm ISS của Mỹ cho đến khi phần cứng của hệ thống định vị toàn cầu được đưa lên trạm trong một nhiệm vụ sau đó.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top