[TT Hữu ích] 23-1-1973 – ký tắt Hiệp định hoà bình Paris

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Chuyến bay bí mật đầu tiên chở Kissinger trên máy bay của Tổng thống diễn ra vào cuối tuần 20 và 21 tháng Hai, 1970. Ông ta gặp Lê Đức Thọ tại một biệt thự tư gần Paris.

Vào buổi chiều trước ngày bí mật lên đường, Kissinger cố ý xuất hiện để được nhiều người nhìn thấy, và chụp hình đăng báo, tại một cuộc gặp gỡ đông người ở Georgetown, cặp kè một người đẹp. Sáng sau bí mật đi Paris, ở đấy khoảng từ 14 đến 18 tiếng, rồi lại trở về Washington ngay. Vừa trở về, Kissinger lại cố tình xuất hiện ở chỗ đông người. Như thế, không ai, ít nhất là báo giới, nghi ngờ rằng giữa hai lần xuất hiện, ông ta đã có mặt tại Paris.

Phần khó nhất là việc chuyên chở Kissinger tới Paris và trở về. Mỗi chuyến đi, bao giờ cũng bắt đầu và chấm dứt nhờ nhóm phụ trách chiếc máy bay của Tổng thống. Nhưng việc đưa đón Kissinger tại Pháp là trách nhiệm của Thiếu tướng Vernon “Dick” Walters, Tuỳ viên quân sự bộ Quốc phòng tại đại sứ quán Mỹ ở Paris, người sau này trở thành Phó Giám đốc CIA. Thông thạo nhiều ngoại ngữ, và thường thông dịch cho các Tổng thống, Walters che giấu khả năng tình báo của mình dưới diện mạo một doanh nhân. Vai trò của ông trong các cuộc họp bí mật của Kissinger được giữ kín mãi đến khi ông về hưu, và viết trong hồi ký Nhiệm vụ thầm lặng (Silent Missions).
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Máy bay của Tổng thống Hoa Kỳ không dễ dàng tới Paris với lý do một chuyến bay huấn luyện. Chính quyền Pháp dưới thời Charles de Gaulle đã phản ứng gay gắt việc Hoa Kỳ đóng vai xếp lớn của NATO. Lấy lý do bảo vệ chủ quyền của một quốc gia độc lập, de Gaulle đã yêu cầu máy bay quân sự Mỹ phải có giấy phép đặc biệt mỗi khi bay qua không phận Pháp. Nước Pháp còn tổ chức lại hệ thống kiểm soát không lưu, và không còn căn cứ không quân Mỹ trên đất Pháp nữa. Do đó, không thể khơi khơi chở Kissinger tới Pháp, mà không cho Pháp biết lý do chính đáng.
Do cố vấn của Walters, và được Nixon cho phép, Kissinger đã nói thật dự án bí mật của mình với Tổng thống Pháp Pompidou, và phụ tá thân cận của ông là Michel Jobert. Pompidou đã giúp Kissinger bằng cách cho phép máy bay của Tổng thống Mỹ chở Kissinger được đáp xuống nhiều phi trường tại Pháp, và cho đậu tại những nơi khuất nẻo. Chính vào thời gian dư luận thế giới cho rằng liên lạc ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Pháp căng thẳng, Tổng thống Pháp đã tích cực giúp Kissinger. Thiếu sự giúp đỡ này, sứ mạng đi đêm của Kissinger khó có thể thành tựu.
Tại Paris, để Kissinger không bị lộ diện, Walters đã xếp đặt cho Kissinger và thường là hai phụ tá ở ngay tại căn hộ nhỏ của ông ở Neuilly. Trong khi ấy, Albertazzie tìm cách qua mặt bộ Quốc phòng, và Bộ ngoại giao.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Chuyến đi đầu tiên vào ngày 20 tháng Hai, 1970 là một thí dụ điển hình. Theo lộ trình chính thức, chiếc máy bay của Tổng thống bay từ phi trường không quân Andrew ở ngoại ô Washington tới Wiesbaden, Đức. Dự định cất cánh 10 giờ sáng, mãi 10:30 Kissinger mới tới, khiến chuyến đi hơi vội vàng. Albertazzie không thể nói cho cơ quan kiểm soát không lưu ở Andrew, và cơ quan đặc biệt theo dõi Air Force One tại bộ Quốc phòng, là máy bay sẽ vòng xuống phía Nam Atlantic để thả Kissinger xuống phi trường không quân Pháp tại Avord, 100 dặm về phía Nam Paris. Công việc này phải mất thêm một giờ bay. Thêm một tiếng trong chuyến đi thường lệ 7 tiếng, không đến nỗi quá lâu để thành vấn đề. Sở dĩ chọn Avord, vì nơi đây là căn cứ của loại máy bay vận tải chở nhiên liệu tiếp dầu trên không. Ban đêm, chiếc Boeing 707 của Tổng thống Mỹ trông không khác các máy bay tiếp dầu.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Đợi đến khi máy bay tới gần Âu châu, quyền kiểm soát không lưu chuyển từ Trans-Oceanic ở New York sang cơ quan kiểm soát ớ Shannon, Ireland, Albertazzie mới xin đổi đường bay, ghé Paris trước khi tới Wiesbaden. Gần đến Paris, Albertazzie lại xin đổi phi trình, đáp xuống Avord, thay vì Paris. Trước đó, Walters đã xin Pháp chấp thuận, nên không gặp rắc rối gì. Nhưng cơ quan theo dõi Air Force One tại bộ Quốc phòng không biết những thay đổi này.
Tại Avord, SAM 26000 được hướng dẫn tới đậu tại một khu hẻo lánh. Kissinger và hai phụ tá lên một máy bay nhỏ của Pháp để tới phi trường Villacoublay gần Paris. Tại đây, Walters đợi sẵn, đưa Kissinger và các phụ tá về nhà mình nghỉ qua đêm, để sáng mai gặp Lê Đức Thọ, trước khi quay trở lại Avord để về Mỹ. Về phần SAM 26000, sau khi thả Kissinger tại Avord, bay đến Wiesbaden nghỉ qua đêm, rồi hôm sau quay lại đón Kissinger.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Trong chuyến về, Albertazzie cũng phải tìm cách để không bị lộ tẩy. Ra khỏi không phận Đức, Albertazzie báo cho Wiesbaden là máy bay đã tới Shannon, để Wiesbaden không còn trách nhiệm với SAM 26000 nữa. Nhưng Albertazzie lại báo cho Shannon là máy bay đang trên đường tới Avord, trước khi tới Shannon, và yêu cầu không cần báo cho ai biết.
Do thói quen không đúng giờ của Kissinger, bí mật đã suýt bị lộ tại Avord. Thay vì gặp lúc 3 giờ chiều như hẹn trước, mãi 6:30 Kissinger mới trở lại, vào lúc Albertazzie không thể chờ đợi lâu thêm nữa. Thế là máy bay phải bay thẳng về Mỹ, thay vì đáp xuống Shannon. Nhưng trên giấy tờ vẫn ghi về từ Shannon. Trước khi rời Avord, SAM 26000 đã được đổ gần bốn chục ngàn lít xăng, nhưng Pháp không lấy tiền, giúp nội vụ không bị phát giác khi thanh toán hoá đơn.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Chuyến đi nào của Kissinger cũng đại khái căng thẳng như vậy. Trong khoảng thời gian 1970-1971, có tất cả 13 chuyến đi, nhưng bí mật vẫn không bị lộ. Mãi đến ngày 25 tháng 1, 1972, Tổng thống Nixon mới cho biết trong một diễn văn được phát đi trên toàn quốc, rằng đã có những cuộc mật đàm tại Paris giữa Mỹ và Bắc Việt. Không riêng giới truyền thông bị qua mặt, cả các nhân vật cao cấp trong chính quyền cũng không biết gì. Trong số này có Bộ trưởng quốc phòng Melvin Laird, và Bộ trưởng ngoại giao Willam Rogers, và ngay cả phần lớn bộ tham mưu Nhà Trắng.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Trên trời, tiếng nói của phi công là luật. Hành khách có thể ở địa vị cao hơn, nhưng phi công là người duy nhất chịu trách nhiệm về an ninh của khách và máy bay. Trong trường hợp chở Kissinger đi mật đàm, phi công còn nắm trong tay quyền quyết định giữ kín hay lộ bí mật về một mưu toan của tồng thống. Đó là chuyện xảy ra trong chuyến đi vào tháng Ba năm 1970.
Từ đầu đến thời gian này, Albertazzie vẫn chở Kissinger bằng máy bay của Tổng thống SAM 26000, chính là chiếc máy bay đã chở Tổng thống Kennedy tới Dallas vào buổi sáng ngày 22 tháng 11 năm 1963, và buổi chiều chở xác ông về lại Washington. Lần này, Albertazzie muốn thử đi bằng chiếc máy bay phòng hờ, giống hệt chiếc thứ nhất, mang số hiệu SAM 970. Chiếc máy bay này mới được tu bổ trong hai tháng ở New York. Albertazzie muốn sử dụng nó cho một chuyến bay thử đường xa, trước khi chở Tổng thống. Chuyến bay thử cũng là một lý do tốt để che đậy mục tiêu thật của chuyến đi.
Kế hoạch dự trù giống hệt chuyến bay đầu tiên ngày 20-2-1970. Cũng đi từ Andrew, rồi xin đổi đường bay khi đến Âu châu, tạt qua thả Kissinger xuống Avord vào ban đêm, trước khi tới Wiesbaden.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Kissinger thích SAM 970 hơn SAM 26000, vì tuy bề ngoài giống hệt nhau, nhưng bên trong mới được tu bổ và trang trí thích hợp hơn. Nhưng không ai ngờ chuyện căng thẳng đã xảy ra.
Nửa đường trên Đại tây dương, kỹ sư phi hành Joe Chappell báo cho Albertazzie biết hệ thống thuỷ lực bị giảm áp (dò dầu thuỷ lực). Đến khi áp lực xuống thấp hơn nữa, anh ta sẽ phải châm thêm dầu.
Một giờ sau, Chappell cho biết: “Tôi đã châm thêm dầu. Nhưng dầu không giữ được lâu”.
Albertazzie ra lệnh cho Chappell châm thêm nữa, và canh chừng chuyện này. Một lát sau, Chappell trở lại báo cáo: “Thưa đại tá! Chúng ta thực sự gặp rắc rối. Dầu châm vào bao nhiêu, vơi đi bấy nhiêu. Và tôi đã hết dầu để châm thêm”.
Albertazzie khẽ chửi thề. Hệ thống thuỷ lực làm mọi chuyện trên các máy bay kiểu mới. Từ chuyện máy bay nâng hay hạ cánh tà, trợ lái, hạ bánh xe và thắng hơi khi đáp. Albertazzie thử vài động tác, quả nhiên hệ thống bơm dầu không còn tác dụng. Từ đây trở đi, chỉ còn bắp thịt đối phó với động cơ.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
SAM 970 giờ đây đã bay quá nửa đường trên Đại Tây dương, không còn đủ nhiên liệu để trở lại Mỹ. Bắt buộc phải hạ cánh xuống một nơi nào đó tại Âu châu, nhưng ở đâu? Tại Avord, nơi Kissinger vẫn được thả xuống là tiện hơn cả, nhưng ở đây không đủ phương tiện sửa chữa, khiến bí mật sẽ bị lộ. Chỉ có mấy nơi ở Âu châu đủ phương tiện, là: Shannon, London, Paris, Frankfurt, Rome.
Được hỏi ý kiến, Kissinger đáp: “Tôi không cần phải nói rằng Tổng thống không muốn chuyến đi này bị thay đổi. Mặc dù những khó khăn, công tác này phải được bảo tồn. Nói giản dị là phải tìm ra một cách nào đó để đưa tôi tới Paris mà không bị lộ”. Kissinger quay sang ra lệnh cho Haig, người tháp tùng: “Liên lạc với Tổng thống để xin chỉ thị”.
Tại Nhà Trắng, Nixon mau chóng trả lời: “Chuyến đi không thể bỏ được. Phải thực hiện bằng mọi giá”. Ông bảo Kissinger và Haig liên lạc với Dick Walters ở Paris, xem ý kiến của ông ta như thế nào. Liên lạc vô tuyến được thiết lập từ SAM 970 đang bay trên Atlantic tới Paris, qua Phòng Tình hình tại Nhà Trắng.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Chỉ còn 3 giờ bay, Albertazzie đã lấy quyết định đáp xuống phi trường nhộn nhịp Rhein-Main ở Frankfurt. Tại đây có đường băng dài, cần cho máy bay có thể ngừng với bộ thắng thiếu hơi trợ lực, và có không lực Mỹ đóng ở đó, có phương tiện sửa chữa của Lufthansa, và nhất là không quá xa Paris.
Quyết định của Albertazzie đến với Walters ở Paris vào lúc 8 giờ tối. Còn có mình ông ta; nhân viên đã về hết và văn phòng đã đóng cửa. Ông ta quyết định, chỉ có một người có thể giúp được, là Tổng thống Pompidou.
Viên hiến binh canh cửa điện Elysée ngạc nhiên báo cho Michel Jobert, phụ tá thân cận nhất của Tổng thống Pompidou là có Walters đang đợi ở cửa. Sau khi biết chuyện, Jobert xin lỗi chạy đi một lát, rồi trở lại hướng dẫn Walters vào phòng của Tổng thống Pompidou, để trình bày cho ông biết những gì đang xảy ra.
Phản ứng của Tổng thống Pháp là với tay lấy điện thoại gọi cho phi hành đoàn của ông tại phi trường Villacoublay, nơi đậu của chiếc Mystère 20, là máy bay riêng của ông. Nói xong, ông bảo Walters: “Tới Villacoublay. Họ đợi và đưa ông tới Frankfurt, để chở Kissinger về đây”.
Walters tới Villacoublay, máy bay của Tổng thống Pompidou và đại tá Calderon đợi sẵn. Chiếc phản lực Mystère vọt lên khỏi phi đạo, phóng tới Frankfurt, Đức.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Mấy phút trước khi tới phi trường Rhein-Main, Calderon liên lạc được với Albertazzie, đang lúc ông này sửa soạn cho chiếc Boeing hạ cánh. Calderon theo sau.
Albertazzie kể: Tôi đã nói qua radio với chỉ huy trưởng không lực Mỹ tại Rhein-Main là tôi đến bất ngờ trong một chuyến bay mật, và tôi không muốn được chú ý nhiều khi hạ cánh. Tôi không cho biết chuyện chúng tôi gặp rắc rối về kỹ thuật. Tôi chỉ nói xin cho người đẩy tới một cái thang, và ngay cả việc gặp ông ta, tôi cũng không muốn.
SAM 970 dùng tối đa chiều dài đường băng khi hạ cánh, mặc dầu đã phải cho hai động cơ đẩy phản hồi. Rồi rời phi đạo, đi khá xa hướng về phía không lực Mỹ.
Chiếc máy bay nhỏ của Tổng thống Pompidou đã đến trước. Walters nhảy xuống, ra hiệu tắt tất cả các đèn pha. Rồi SAM 970 dừng lại. Kissinger không có cặp kính quen thuộc, cổ áo kéo lên, cùng các phụ tá vội vàng leo lên chiếc Mystère.
Trên đường về Paris, Calderon mời Walters vào phòng lái để hỏi ý kiến về việc sẽ phải đối phó với một vấn đề mới. Nhìn quang cảnh bất thường mới diễn ra tại Rhein-Main, Calderon nghĩ là sẽ có chuyện rắc rối cho Tổng thống Pompidou; máy bay của ông không hề có thói quen hạ cánh không báo trước tại các phi trường Đức. Chắc chắn phía Đức sẽ tới, và đặt ra nhiều câu hỏi. Trả lời như thế nào?
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,787 Mã lực
Đó là chuyện ngoài dự trù. Im lặng giây lát để suy nghĩ, rồi một ý kiến chợt đến với Walters. Ông ta nói với Calderon:
“Nói với họ chuyện này liên hệ tới một người đàn bà. Họ sẽ tin chuyện này đối với người Pháp, và sẽ giữ bí mật”.
 

Gcar

Xe lăn
Biển số
OF-38790
Ngày cấp bằng
21/6/09
Số km
11,534
Động cơ
572,214 Mã lực
Liên quan đế vấn đề kỹ thuật, muốn cụ Ngao5 và các cụ làm rõ hơn khái niệm "ký tắt", ở các post trên đây cụ Ngao5 xài từ ký tắt, là từ Việt, nhưng không rõ từ này dịch tiếng Anh là gì?
Có phải là:
- ký nháy
- ký nhỏ dưới từng góc/chân trang giấy, từ tiếng Anh là "small sign". Như sau khi thương thảo HĐ hoàn tất, các bên hay ký "small sign" vào từng trang của bản thương thảo hoàn thiện cuối cùng của HĐ, và chờ ký chính thức của người được ủy quyền ký HĐ.
có trong từ điển luôn. Nó là văn bản ngoại giao nên là "ký lớn" luôn chứ không phải ký nhỏ!

ký tắt

  1. Thông qua một hiệp ước bằng chữ ký đầu tiên của những ngườitoàn quyền thương lượng trước khi họ báo cáo về chính phủ họ để cử người lần cuối cùng vào văn bản chính thức.
o intial an agreement
 

Hà Tam

Xe điện
Biển số
OF-339987
Ngày cấp bằng
24/10/14
Số km
4,196
Động cơ
328,298 Mã lực
có trong từ điển luôn. Nó là văn bản ngoại giao nên là "ký lớn" luôn chứ không phải ký nhỏ!

ký tắt

  1. Thông qua một hiệp ước bằng chữ ký đầu tiên của những ngườitoàn quyền thương lượng trước khi họ báo cáo về chính phủ họ để cử người lần cuối cùng vào văn bản chính thức.
o intial an agreement
Cụ Ngao5 và cụ Gcar có thể cho coi văn bản Hiệp định, phần có ký tắt, ký chính thức?
 

Gcar

Xe lăn
Biển số
OF-38790
Ngày cấp bằng
21/6/09
Số km
11,534
Động cơ
572,214 Mã lực
Cụ Ngao5 và cụ Gcar có thể cho coi văn bản Hiệp định, phần có ký tắt, ký chính thức?
bản ký tắt chắc là bí mật rồi, chỉ có bản chụp bản chính thức (không có chữ ký LĐ Thọ và Kissinger) ở đây, trang 52:http://www.archives.gov.vn/content/magazine/Lists/Magazines/Attachments/38/Hiep dinh PARIS 1973 tap2.pdf

Còn chi tiết lễ ký tắt thì ở đây:

http://plo.vn/thoi-su/chinh-tri/chuyen-chua-ke-ve-buoi-ky-tat-hiep-dinh-273417.html

Cuộc họp thỏa thuận: hai bên ký tắt toàn văn hiệp định ngày 23-1, sau đó bốn bên ký chính thức ngày 27-1, tiếp đến Hội nghị quốc tế ký công nhận hiệp định ngày 26-2-1973. Phía Việt Nam chịu trách nhiệm in các hiệp định, nghị định bằng tiếng Việt, phía Mỹ in các văn kiện bằng tiếng Anh để ký.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top