Bàn thêm về vấn đề trọng chứng hơn trọng cung, cần làm rõ "chứng" ở đây là gì? Có bài viết này của dân luật: Tại sao nhà làm luật lại lẫn lộn giữa chủ thể và một dạng thức biểu đạt của nó?
Theo quy định (Điều 64 Bộ luật hình sự) thì lời khai cũng được xác định là chứng cứ và được xem xét đánh giá ngang hàng với vật chứng, trong khi rất lạ là điều luật về chứng cứ lại không nhắc đến ‘nhân chứng’ như một phần tương ứng với ‘vật chứng’.
Thay vì nêu ra ‘nhân chứng’ điều luật lại quy định về ‘lời khai của người làm chứng’ trong khi đây là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.
Một đằng là ‘nhân chứng’ nói về chủ thể con người, còn đằng kia ‘lời khai’ là nói về một dạng thức biểu đạt của chủ thể trong môi trường hồ sơ pháp lý.
Tại sao nhà làm luật lại lẫn lộn giữa chủ thể và một dạng thức biểu đạt của nó?
Sự nhầm lẫn xem ra không phải là vô ý mà có mục đích, vì khi quy định như vậy và bằng cách tương tự nhà làm luật đã có thể đánh đồng trộn lẫn lời khai của người làm chứng và lời khai của bị can bị cáo để cùng được coi là chứng cứ.
Mục đích là nhằm sử dụng được cái có sẵn trong các vụ án đó là lời khai của bị can bị cáo.
Trong khi bị can vì đã là nghi phạm rồi thì không thể coi là nhân chứng được nữa (một chủ thể không ở hai tư cách), song khi tách bị can ra khỏi dạng thức biểu đạt là lời khai thì lại có thể sử dụng lời khai để kết tội.
Bằng cách đó nhà làm luật đã xác lập bổ sung thêm một loại chứng cứ mới là lời khai ngoài cái nguyên gốc chỉ bao gồm nhân chứng và vật chứng.
Điều này trái ngược với các nguyên lý khoa học tư pháp, làm giảm sút sự chính xác trong việc phán đoán, từ đó dẫn đến nhầm lẫn oan sai.
Và khi pháp luật quy định như vậy cho nên các cán bộ tư pháp vẫn hàng ngày vận dụng điều luật mà không thấy nó có vấn đề và vẫn xem là bình thường, theo kiểu làm sai mà không tự biết.
Lối làm án như vậy dẫn đến người ta lạm dụng việc lấy cung, coi đó là hoạt động điều tra trọng tâm chủ yếu để tạo lập bằng chứng kết tội phá án, mà từ đó dẫn đến bức cung nhục hình.