Em trích 1 vài đoạn về duyên may của ông:
Chương 4. TÌM VIỆC LÀM TRÊN ĐẤT KHÁCH
Tôi đến Nam Vang đúng vào dịp người dân Campuchia làm lễ chịu tuổi (khoảng tháng 3 âm lịch năm 1933). Các chùa chiền trang hoàng đẹp lộng lẫy. Nhạc ngũ âm vang lên suốt đêm ngày. Tôi biết nhiều tiếng Campuchia, quen dần cách chào hỏi với hai bàn tay chắp trước ngực. Nhiều người tin tôi là dân Campuchia. Tôi tập cho thích nghi phong tục, tập quán địa phương để dễ tìm việc làm. Tôi đã trải qua cái Tết xa nhà đầu tiên. Buồn não nuột. Nhưng giống như người đã phóng lao thì theo lao. Bây giờ, tôi chỉ mong có việc gì để làm nuôi sống được bản thân trên đất khách và dành dụm được tiền trở về xứ.
Lẫn trong dòng người đi làm mướn, đi buôn bán, tôi đã đến được Bat-đom-boong. Đây là vựa lúa gạo lớn nhất Campuchia lúc đó. Hàng ngày có nhiều ghe chài chuyển lúa về Phnôm Pênh, Sài Gòn. Tôi mừng thầm trong bụng và dò ra bến cảng. Thấy tôi to, cao, người chắc nịch, một người dân địa phương hỏi:
– Anh làm được phu khuân vác không?
Tôi gật đầu, mừng quá nói như líu lưỡi:
– Tôi làm được, hãy cho tôi làm!
Thế là tôi nhập trong đội phu khuân vác lúa, gạo từ kho xuống các ghe chài. Ngày đầu tiên, chủ rất ngạc nhiên khi thấy tôi vác nhanh và vác khỏe hơn những người phu khác. Đến cuối ngày, những người phu khác được trả từ một đến một hào rưỡi, thì tôi được trả hai hào. Anh em làm chung không ghen tị, mà còn nể tôi làm khỏe được trả công như vậy là xứng đáng. Tôi có sức khỏe và chịu cực giỏi là nhờ những năm tháng theo cha đi làm xáng. Cho nên công việc khuân vác nặng nhọc vất vả cũng như khi tôi làm xáng thôi.
Tôi làm việc cần mẫn, nhanh nhẹn trong đội phu khuân vác tại bến cảng, nên dần dần ai cũng biết. Một hôm, có một người Ấn Độ đi tìm người biết tiếng Việt Nam để mướn làm phiên dịch. Ông này từ Ấn Độ sang Campuchia làm ăn và đến Bát-đom-boong xin phép mở cúp khai thác gỗ. Rừng Campuchia bạt ngàn, nhiều gỗ quý. Gỗ quý được dùng vào việc cất chùa chiền và nhà cửa cho giới quý tộc và nhà giàu. Vì thế gỗ quý bán rất có giá. Nhưng muốn vào rừng khai thác gỗ, phải giao dịch với Sở Kiểm lâm. Ông chủ người Ấn Độ đang lúng túng, vì số người ở Kiểm lâm đều là người Việt. Được người ta giới thiệu, ông chủ tìm đến tôi. Tôi bỏ nghề khuân vác, theo ông chủ Ấn Độ làm phiên dịch.
Đây là một dịp may hiếm có đối với tôi. Ông chủ người Ấn Độ hiền lành, phúc hậu. Ông tìm hiểu tôi qua người chủ trước đây và số anh em phu khuân vác, biết tôi hiền lành, chăm chỉ, thật thà, hay giúp đỡ và thương người. Ông hài lòng và cử tôi làm phiên dịch đại diện cho ông khi giao dịch với Kiểm lâm. Mỗi tháng, ông chủ Ấn Độ đến phát lương một lần cho những người thợ xẻ gỗ, đốn cây và đóng thuế cho Kiểm lâm. Sau khi xong các công việc ấy, đến phần tôi, bao giờ ông chủ cũng dành nhiều ưu ái. Khi thì ông thưởng cho tôi bộ quần áo, khi thì năm ba đồng, kèm theo lời khen và chúc sức khỏe. Tôi học nói tiếng Ấn Độ và nghe được tiếng, nên giữa tôi và ông chủ Ấn Độ có mối quan hệ gần gũi, thân tình hơn.
Một hôm, ông chủ Ấn Độ từ Phnôm-Pênh đi Bat-đom-boong phát lương cho thợ. Vì vội vàngvề Phnôm-Pênh, , ông bỏ quên chiếc vali. Đến tối, tôi dọn dẹp nhà cửa mới thấy chiếc vali ấy. Không biết vali gì, tôi mở ra xem, thì ra đó là vali tiền, giấy còn mới cứng. Có nhiều tờ bạc 100 đồng của Ngân hàng Pháp.
Sống tha phương, làm thuê kiếm từng đồng và dành dụm để một ngày về đoàn tụ với gia đình, giờ đây, đứng trước một đống bạc mà làm đến cả đời chắc gì đã có được; tôi bâng khuâng suy nghĩ mông lung trong đêm, không chợp mắt nổi: Có nên lấy vali tiền này rồi trốn đi không? Nếu trốn thì trốn đi đâu, có thoát được không? Nếu trở về quê thì đưa đầu cho người ta bắt vì tội giết chết người. Đã sợ cảnh tù đày mới bỏ xứ ra đi. Nay ở tù vì tội ăn cắp tiền ông chủ thì nỗi nhục làm sao rửa được? Bao nhiêu câu hỏi xoáy trong đầu. Tôi nghĩ đến gương mặt phúc hậu của ông chủ và lòng tốt của ông đối với tôi. Bộ quần áo tôi đang mặc là của ông cho. Mới tháng trước, ông đã thưởng cho tôi 5 đồng, ngoài tiền lương. Tôi quyết định không mó đến một đồng nào trong vali của ông chủ mà ôm giữ cẩn thận cho ông.
Gần sáng, tôi nghe tiếng xe hơi thắng lại dưới sân nhà. Tôi biết đó là xe ông chủ, tôi nhổm dậy, bước ra cửa. Ông chủ chạy vội lên cầu thang. Tôi cất tiếng trước để trấn an ông chủ:
– Vali ông để quên lại, còn đây.
Ông chủ như định thần lại, nét mặt ông hết căng thẳng, ông nhìn tôi chăm chăm. Tôi lôi chiếc vali từ mùng ra, đặt trước mặt ông và từ tốn nói:
– Ông chủ đếm lại đi!
Ông chủ Ấn Độ nhận chiếc vali từ tay tôi, chiếc vali không khóa từ trước. Nét mặt ông vui và có vẻ như xúc động khi thấy chiếc vali vẫn y nguyên. Ông rút trong vali một xấp tiền đưa cho tôi trước khi từ giã tôi để trở lại Phnôm-Pênh. Tôi đỡ tay ông và nói:
– Ông chủ về mạnh giỏi, đi đường cẩn thận. Lần khác ông chủ cho, tôi sẽ nhận, lần này thì không thể nhận được.
Tôi bước theo ông chủ ra tận xe dưới nhà sàn. Ông vẫn nắm bàn tay tôi một cách tin cậy và trìu mến. Tôi cảm nhận được bao điều thân thiết trong cách nắm tay ấy. Khi xe nổ máy, ông quay một vòng tay lái quanh sân, rồi giơ tay vẫy từ giã tôi. Tôi cũng vẫy tay lại và thấy lòng mình thanh thản.
Đến kỳ phát lương tháng sau, ông chủ người Ấn Độ trở lại Bat-đom-boong. Như mọi lần, ông đỗ xe dưới nhà sàn, tôi chạy ra cửa đón ông. Vừa thấy tôi, ông tươi cười, nụ cười tôi cảm nhận được không phải giữa chủ và người làm công, mà nụ cười thân tình như người chú, người cha trong gia đình với con cái. Ông đưa tay về phía tôi và nói:
– Anh theo tôi về Phnôm-Pênh. Việc trên này có người khác thay!
Tôi giật thót người. Nụ cười vừa nở vụt tắt. Tôi suy nghĩ: lẽ nào tiền trong cặp ông có bị mất, ông đưa tôi về Phnôm-Pênh để hỏi tội. Mới phút trước, thái độ ông thân tình lắm mà. Thấy tôi suy tư, ông vòng tay qua vai tôi và nói:
– Anh về Phnôm-Pênh làm việc với tôi, mỗi tháng anh làm công việc của tôi, trở lại Bat-đom-boong phát lương cho thợ, đóng thuế cho Kiểm lâm.
Niềm vui đến thật bất ngờ và lúc này nó lớn lao như một cuộc đổi đời. Mới mấy tháng trước là một phu khuân vác, rồi làm phiên dịch, trông coi thợ cho ông chủ đã là công việc khá “sang” rồi, nay lại về ở thủ đô cùng ông chủ, đến tháng thay ông chủ đi phát lương… Tôi thật sự được người chủ tin dùng. Tôi nhủ thầm trong bụng: ở hiền gặp lành!