Giữ gìn truyền thống bản sắc văn hóa
MA TÚY DƯỚI THỜI NGUYỄN
Nguồn: Lê Nguyễn.
Không thấy sử liệu nào nói đến thuốc phiện vào thời kỳ nước ta bắt đầu mở cửa buôn bán với phương Tây (thế kỷ XVI – XVII). Bộ Đại Việt sử ký toàn thư (1676 – 1760) của sử quán triều Lê và bộ Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (chương Quốc dụng chí và Hình luật chí) không đề cập đến thuế nha phiến hay hình phạt đối với tội buôn bán, sử dụng thuốc phiện. Một tài liệu khá chi tiết của sứ bộ Macartney đến Việt Nam năm 1793 cũng không thấy nói đến thuốc phiện. Căn cứ vào những dữ kiện trên và những chỉ dụ do triều đình Huế ban hành vào đầu thế kỷ XIX, chúng ta có thể dự đoán là thuốc phiện đã bắt đầu du nhập vào Việt Nam khoảng cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX và nhanh chóng lan tràn ngay trong thời vua Gia Long (1802 – 1820).
Năm Minh Mạng nguyên niên (1820), vào tháng Bảy âm lịch, nhà vua đã dụ rằng: “Thuốc phiện là thứ thuốc độc từ nước ngoài đem lại, những phường du côn lêu lổng lúc mới hút cho là phong lưu, rồi chuyển thành thói quen, thường thường nghiện mà không thể bỏ được. Quan thì bỏ cả chức vụ, dân thì phá hết sản nghiệp, thậm chí gầy mòn thành tật, tổn thương cơ thể, sinh mệnh. Nên bàn để nghiêm cấm đi” (Đại Nam thực lục chính biên- Tập Hai - NXB Giáo Dục 2004, trang 77). Theo quy định của triều đình lúc đó, những người bị bắt quả tang hút, cất giấu hay buôn bán thuốc phiện, nếu là quan lại thì bị cách chức, nếu là dân thì bị xử tội đồ (đày làm khổ dịch). Cha, anh không răn cấm con em, xóm giềng biết mà không tố cáo, đều bị xử trượng (đánh bằng gậy). Tuy hình phạt khá nặng như thế nhưng hiệu quả vẫn chưa thực triệt để. Tháng Ba âm lịch năm 1824, vua Minh Mạng lại ban hành thêm quy định mới với nhiều hình phạt nặng nề hơn. Những khách buôn ngoại quốc bán thuốc phiện, lại dịch, quân dân cố ý hút trộm đều bị tội mãn lưu (đày đi xa 3.000 dặm), cha anh không ngăn cấm con em, hàng xóm không tố giác đều bị tội mãn trượng (đánh 100 gậy). Đặc biệt, các quan chức hút trộm đều bị phạt trượng và cách lưu, mãi mãi không được tái bổ dụng. Gia sản người phạm tội bị tịch thu, sung thưởng cho người cáo giác.
Năm 1838, Ngọc Vân quận chúa (tức công chúa Angmey, con vua quá cố Nặc Ông Chân) tại Trấn Tây thành (Campuchia) cho thương nhân Mãn Châu nấu và bán thuốc phiện để kiếm lời, còn dân thì có nhiều người mở sòng đánh bạc. Sau khi tìm hiểu, vua Minh Mạng được biết: từ lâu, thuốc phiện và cờ bạc đã là hai nguồn thu chính giúp chính quyền Trấn Tây thành trả lương binh lính và rèn đúc khí giới. Hậu quả của tình trạng này khiến chẳng những dân Chân Lạp phải gánh chịu mà cả quan binh Việt Nam đang có mặt tại đây (để giúp đỡ, bảo vệ chính quyền Chân Lạp) cũng bị ảnh hưởng lây. Để chấn chỉnh, vua Minh Mạng một mặt chỉ thị cho tướng quân Trương Minh Giảng nghiêm cấm thuốc phiện và cờ bạc tại Trấn Tây thành, mặt khác sai xuất kho nơi đây một vạn quan thưởng cho quận chúa Ngọc Vân, đồng thời sai tỉnh Vĩnh Long xuất kho tỉnh ba vạn quan chở đến cấp cho trấn để thanh toán binh lương. Lối giải quyết có tình, có lý đó đã hạn chế được rất nhiều tệ nạn đang phát triển tại đây.
Trong việc buôn bán và sử dụng thuốc phiện vào thời kỳ này, tình hình Việt Nam không giống Trung Quốc. Ở Trung Quốc, thuốc phiện được những thế lực tư bản phương Tây – chủ yếu là thực dân Anh - mang đến. Còn ở Việt Nam, thuốc phiện do những thương buôn người Trung Hoa lén lút đưa vào. Chính vì thế mà khi cuộc Chiến tranh nha phiến diễn ra vào năm 1839 giữa Anh và Trung Hoa, triều đình Huế không tỏ chút nao núng khi ngăn chặn triệt để nạn mua bán và hút thuốc phiện trong xứ. Trái lại, lúc đó, điều mà vua Minh Mạng lo sợ lại chính là phản ứng của Pháp và Tây Ban Nha, theo gương của Anh, do việc vua chủ trương cấm đạo và giết đạo. Nhà vua đã cử một phái đoàn sang Pháp và Anh để thăm dò tình hình, đồng thời “giải độc” dư luận về việc này (xin xem bài “Sứ mạng kỳ lạ của sứ bộ VN tại Pháp năm 1840”). Kể từ khi lên ngôi, vua Minh Mạng đã có những nhận định sáng suốt về tác hại của thuốc phiện và hạ quyết tâm tiêu diệt tận gốc. Có thể còn có khoảng cách giữa chính sách của nhà vua và sự thực hiện của quần thần, nhưng dù sao đây cũng chính là một điểm son đáng ghi nhận trong quãng thời gian 20 năm cầm quyền của ông.
Hai mươi năm sau ngày vua Minh Mạng thăng hà, khi vừa chiếm xong Gia Định và Biên Hòa, chính quyền Pháp đã hợp pháp hóa việc buôn bán và hút thuốc phiện, coi đó là công cụ tạo nên lợi nhuận một cách đơn giản và hữu hiệu nhất. Ngày 28 tháng 12 năm 1861, Đề đốc Pháp Bonard ban hành một bản quy định (disposition) gồm 84 điều khoản liên quan đến việc mua bán thuốc phiện tại Nam kỳ (Bulletin officiel de la Cochinchine française 1862 – 1863). Từ đó, việc nhập khẩu thuốc phiện vào Nam kỳ sẽ thông qua hai cảng Sài Gòn và Chợ Lớn, chính quyền thuộc địa thu 10% thuế trên trị giá thuốc phiện nhập khẩu. Hàng năm, chính quyền cho tổ chức đấu giá trưng thầu thuốc phiện. Người trúng thầu sẽ đứng ra độc quyền nhập khẩu, nộp thuế cho Nhà nước, phân phối cho mạng lưới bán sỉ và bán lẻ thuốc phiện, kể cả những nhà hút. Người trưng thầu có quyền tổ chức cả một đội ngũ “viên chức sở trưng thầu” để giám sát mạng lưới bán sỉ và bán lẻ thuộc trách nhiệm của mình.Trong thập niên 1860, một người Hoa là Ban Hap, cư ngụ tại Chợ Lớn, thường xuyên trúng thầu thuốc phiện và độc quyền nấu rượu tại Nam kỳ. Chính tay tư bản Hoa kiều này là người đầu tiên xây dựng nhà lầu tại Sài Gòn vào năm 1864.
Năm 1860, doanh số thuốc phiện nhập khẩu vào Nam kỳ lên đến 500.000 quan Pháp, trong khi tổng trị giá những hàng nhập khẩu khác cũng chỉ đến 1.000.000 quan. Năm 1862, Pháp cho nhập vào Nam kỳ 260 thùng thuốc phiện. Đây là một tỷ lệ rất lớn nếu chúng ta biết rằng trong năm này, tổng số thuốc lá nhập khẩu cũng chỉ đến 453 thùng. Điều đáng buồn hơn nữa là từ năm 1865, vua Tự Đức đã bỏ lệ cấm hút thuốc phiện mà cho trưng thầu để lấy thuế, hàng năm thu trên 300.000 quan. Nhà chép sử giải thích việc làm này như sau: “Nay tha cấm mà đánh thuế rất nặng để cho người bán ít đi mà người hút cũng ít theo. Tức là không cấm mà cấm” (Quốc triều chính biên). Đây là một lối giải thích gượng ép khá buồn cười, có lẽ lý do chính là triều đình thấy thực dân Pháp đã hợp pháp hóa việc mua bán thuốc phiện tại Nam kỳ rồi, có cấm cũng không mấy hiệu quả. Cũng không loại trừ trường hợp nhà vua thu thuế á phiện để có đủ tiền xây dựng Khiêm lăng cho mình. Tám năm sau, vào tháng Sáu âm lịch năm 1873, triều đình ban hành trở lại lệ “cấm thuốc nha phiến”: “Hễ cử nhân, tú tài, học trò có hút thời cho hạn trong một năm phải chữa ngay, ai không tuân thời tước tịch, bắt chịu xâu thuế, học trò không được dự khóa nữa” (Quốc triều chính biên). Tuy nhiên, sự cấm đoán trễ tràng đó không đem lại hiệu quả, việc hút thuốc phiện đã trở thành một thói quen phổ biến trong dân chúng, nhất là giới trung lưu. Năm 1881, một nhà nấu á phiện được chính quyền thuộc địa xây dựng trên đường Paul Blanchy, nay là đường Hai Bà Trưng. Đoạn dốc trên đường này, từ phía sau Nhà hát thành phố hướng về đường Lê Duẩn, gần với sở nấu á phiện xưa, vẫn được người Sài gòn thập niên 1940 trở về trước gọi là “Dốc nhà nấu”.
Đầu thế kỷ XX, thuốc phiện cùng với rượu và muối đã trở thành ba ngành công quản của thực dân Pháp. Nhà nước độc quyền mua và bán cho công chúng. Mức tiêu thụ hàng năm khoảng 160.000 kg thuốc phiện nhưng Nhà nước chỉ thực sự phân phối 60.000 kg, số còn lại xuất phát từ những tay buôn lậu chuyên nghiệp. Tuy vậy, thực dân Pháp cũng đã thành công lớn qua việc tận dụng sản phẩm độc quyền này để vừa nuôi bộ máy thuộc địa, vừa thực hiện chính sách ngu dân làm suy yếu tinh thần, sức khỏe của tầng lớp thanh niên thích “đi mây về gió”. Bên cạnh những dân nghiện bản xứ, một số sỹ quan, binh lính và cả viên chức Pháp cũng làm quen với thuốc phiện rồi nghiện ngập thực sự. Năm 1892, một người Pháp tên là Jean Robert đã xuất bản quyển sách nhan đề “Souvenir d’un fumeur d’opium” (Hồi ức của một người hút thuốc phiện) mô tả những kỷ niệm đáng nhớ về ả phù dung của chính ông ta.
Ngày nay, song song với những tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ đời sống, những tác hại do chính con người gây ra cũng ngày càng to lớn hơn. Thuốc phiện ngày xưa đã trở thành “đàn em” của những héroine, cocaine có tác dụng khốc liệt hơn và con người sẽ tự hủy diệt mình nếu không sớm ngăn chặn hiểm họa do những loại ma túy này gây ra.
#KoD