Trời đất miền Trung đến lạ! Mới đêm trước mưa như trút nước mà hôm sau đã trong vắt không một gợn mây. Tôi đứng giữa sân thành đội Đồng Hới, hít sâu vào lồng ngực làn gió mặn mòi của biển đông và đón nhận hơi thở tươi mới của một thành phố trẻ. Sức sống của một vùng đất từng in đậm những dấu tích của chiến tranh khiến cho ta càng thêm yêu, thêm quý, thêm trân trọng những con người bất khuất nơi đây. Những con người với nụ cười rạng rỡ đã trở thành biểu tượng của “vẻ đẹp tiềm ẩn” qua tác phẩm “Nụ cười Việt Nam” của nhiếp ảnh gia Vũ Quốc Khánh. Với nụ cười, nét đẹp hồn hậu ấy, chúng ta đã mở cánh cửa “hội nhập” đón bạn bè quốc tế với tất cả sự hiếu khách và thân thiện.
Đã có rất nhiều đoàn khách quốc tế đến Việt nam để khám phá “nụ cười của Phan Thị Như Quỳnh”. Khám phá nét đẹp tâm hồn của nàng trinh nữ Việt Nam. Tuy nhiên tự ngàn xưa, “hồng nhan” vốn “bạc phận”. Tấm thân ngọc ngà của mọi thiếu nữ đều khiến những gã đàn ông vô sỉ thèm khát chiếm đoạt. Điển hình cho “nhục vọng đê hèn” đó chính là sự bành trướng của các thế lực cầm quyền phương Bắc. Tên thất phu có thể thay đổi tên họ từ Hán, Đường, Tống, Nguyên… hay thay hình đổi dạng từ quân chủ, tam dân hay cộng sản, thì tham vọng vẫn không đổi. Ngay cả khi nhân dân hai nước Việt – Trung đang ca vang điệp khúc “núi liền núi, sông liền sông”, thì Bắc Kinh vẫn nuôi hy vọng thay chân người Mỹ để tiếp quản miền Nam đất Việt.
Nixon đến Trung Quốc năm 1972
Sau nhiều cuộc đi đêm với Hoa Thịnh Đốn và đặc biệt là sau chuyến viếng thăm năm 1972 của tổng thống Richard Nixon, Trung Quốc tự tin khẳng định chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Điều này cho thấy sự khốn nạn của hai đồng minh lớn của hai miền nam bắc Việt Nam. Người Mỹ mặc nhiên bỏ rơi lợi ích của chính quyền Sài Gòn khi tuyên bố các cụm đảo trong biển đông không nằm trong kế hoạch triển khai hải đảo tiền đồn của Hạm đội 7 năm 1970. Kế đó, sau khi bị thua tan tác trong trận “Điện Biên Phủ trên không” Mỹ chính thức rút hẳn Đệ thất hạm đội của mình ra khỏi Trường Sa năm 1973. Đúng một năm sau, Trung Quốc đập tan Hải quân Việt Nam cộng hòa trên vùng biển Hoàng Sa. Chính thức chiếm đóng quần đảo này cho đến hôm nay.
Việc tranh chấp chủ quyền trên Hoàng Sa đã có từ rất lâu, nhưng từ thập niên 60 của thế kỷ trước chính quyền Việt Nam cộng hòa đã có tuyên bố chính thức trước thế giới về chủ quyền của Việt Nam và cho quân đồn trú trên đảo này. Việc một nước đưa quân đến một vùng lãnh hải có chủ quyền của nước khác (khi đó là Việt Nam Cộng Hòa) chiếm đóng và tàn sát binh lính chính là hành động xâm lược. Dù dùng bất kỳ một lời lẽ nào thì Trung Quốc vẫn không thể chối cãi được. Cho dù chính quyền Sài Gòn là người “bên kia chiến tuyến” đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhưng hành động tuẫn tiết theo tầu của 50 binh lính và hạn trưởng Nguyễn Văn Thà (HQ 10 VNCH) cũng thể hiện tinh thần xả thân vì biển đảo của người Việt Nam. Tinh thần Đại Việt là bất khuất trước giặc ngoại xâm! Tinh thần này lại được thể hiện sâu sắc hơn, oanh liệt và bi trang hơn vào năm 1988. Với hình ảnh một “vòng tròn bất tử”, các chiến sỹ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã dựng lên một tượng đài Ái quốc trên đảo chìm Trường Sa.
Thái độ của Trung Quốc trước cuộc chiến Việt Nam thể hiện một bản chất xảo trá của kẻ bất lương. Trong suốt chiều dài cuộc chiến, Bắc Kinh đã vận dụng chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của Mỹ một cách tài tình. Họ bòn rút sức lao động của người dân Trung Quốc để nuôi một cuộc chiến. Trên danh nghĩa thì đây là chiến trường của hai cực thế giới vào thời gian đó. Bắc Kinh tham gia vào cuộc chiến với danh nghĩa là đồng minh Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thực tế là họ đang lợi dụng tình trạng rối loạn trong khu vực để củng cố vị trí của mình trên trường quốc tế, đồng thời tranh thủ rút ruột các nước anh em thông qua con đường vận tải liên vận. Khi mà Hải Phòng, cánh cửa duy nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi ra thế giới, bị Mỹ phong tỏa thì Trung Hoa đại lục chính là trạm trung chuyển của những chuyến hàng tiếp viện. Chiến trường lớn Hà Nội thì đói từng quả tên lửa, hậu phương Lớn Mạc Tư Khoa thì thốc tháo đổ khí tài lên các toa tầu chạy về Bai Can… còn Bắc Kinh thì tính bài “ngư ông đắc lợi”.
Tôi nhìn ông Trung tá Thông hí húi kiểm tra máy móc của chiếc UZA mà cười thầm. Chắc cụ già đang nhẩm tính quãng đường “ngon choét” phía trước và quyết định “bóp cổ” con la già đây. Đúng là đồ Liên Xô. Chẳng biết tốt xấu thế nào nhưng mỗi trăm cây lại uống cả hai chục lít xăng. Xót hết cả ruột!
“Mẹ! không tính thì tiễn với con nghiện này” Ông Thông lẩm bẩm: “Xe chạy là có định mức rồi. Tài chính nó chỉ tính km trên bản đồ thôi, chúng nó có biết thực tế chạy thế nào đâu? Nó cộng bản đồ thấy 1000 cây thì cho tiền chạy 2000 cả đi lẫn về. Đừng nói là nhầm đường, lùi lên lùi xuống là cũng bỏ mẹ. Khà khà..”
Vẫn cái giọng cười xả láng như phú nông được mùa, ông Thông nhìn tôi nháy mắt: “Ngày xưa thì bảo thiếu đã có Liên Xô, giờ thì lấy đếch đâu ra? Mày đi học ở bên ấy có thấy nó đi cái xe thế này không?”
“Vẫn chạy bình thường.” Tôi trả lời: “Nhưng mà cháu không đi!”
“Rồi cũng quen thôi, con ạ!” Ông Thông đá đá vào lốp trước, nhổ toẹt bãi nước bọt: “Chúng bố mày ngày trước mơ con GAZ 69 mà không được. Chúng nó cấp cho quả Hồng Kỳ. Tiên sư cái bọn Tầu! Cái đếch gì cũng làm nhái được. Thế mới tài!”. Ông ngửa mặt lên trời tặc lưỡi cái “chậc”, nói tiếp: “Hồi đánh Đồng Xoài, tao cũng phải vác khẩu AK nhái của chúng nó. Nặng vãi cả ***. Hình như nó đã nhái cả tầu vũ trụ nữa hay sao ấy. Bọn Mỹ té *** với thằng này…”
Mỹ không “té ***” với thằng nhà giầu mới nổi cũng là lạ! Trước khi ông Thông nhắc đến tham vọng vũ trụ của Trung Quốc, thì chương trình Thần Châu đã thành công. Đó là một bước tiến của khoa học, công nghệ của người Hoa. Và nó cũng đánh dấu một cuộc đua mới của thế giới. Một cuộc đua toàn diện hơn của những tham vọng khẳng định chủ quyền trên mọi mặt và ở mọi nơi.
Mỹ không “té ***” với kẻ đầu cơ quyền lực mới cũng là lạ! Sau khi ông Thông nhắc đến chiếc xe Hồng Kỳ nhái vài năm, Trung Quốc đã cho ra mắt chiếc limousine Hồng Kỳ copy kiểu dáng Rolls Royce một cách tài tình đến… đê tiện. Với chiếc xe “hoàng gia” này, ngài Hồ Cẩm Đào có thể vung vẩy tập trái phiếu chính phủ Mỹ trị giá 1145 tỷ USD trên quản trường Thiên An Môn. Mộng tưởng đến một ngày thống trị thế giới.
Mỹ không “té ***” với bậc thầy tráo trở này cũng là lạ! Ngay khi anh lính trẻ Nguyễn Văn Thông ghì chặt khẩu AK nhái ở Đồng Xoài, ngay khi thiếu tá ngụy quân Phạm Châu Tài vung vẩy khẩu colt gào thét tử thủ tại Bộ tổng tham mưu… ngay trong khi cuộc chiến Việt Nam sắp đi vào hồi kết, thì Trung Quốc đã chìa con bài tẩy của mình. Đó chính là lúc đại tướng quân lực Việt Nam Công Hòa Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của chính quyền miền Nam, nhận được một lời đề nghị thầm kín rất ngọt ngào: “Phía Bắc còn một đồng minh lớn sẵn sàng giúp đỡ ngài!”. Nếu Dương Văn Minh trong giờ phút hấp hối của thể chế Cộng Hòa tại miền Nam là một con người khác, một con người chấp nhận bỏ qua quyền lợi dân tộc, một con người theo chủ nghĩa vũ trang cự đoan… thì mọi chuyện rất có thể sẽ khác.
4 vùng chiến thuật
Sau hiệp định Paris, nước Việt Nam chính thức bị phân chia vì thế lực lượng đấu tranh trực tiếp với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam. Trên lý thuyết là Việt Nam đã có hòa bình và mọi tranh chấp đều mang tính nội bộ. Dựa trên các điều khoản quốc tế thì Dương Văn Minh có thể thành lập một chính quyền mới theo đường lối “trung lập” với chính thể Quốc – Cộng liên hiệp. Để làm điều đó, ông ta chỉ cần bỏ Sài Gòn giữ Cần Thơ và dựa vào vùng 4 chiến thuật chưa bị mất mà cố thủ. Chiến sự khi đó sẽ giằng co thêm một thời gian nữa. Đây chính là nhận định hết sức thuyết phục mà Francois Vanuxem đã mở lời với Minh Lớn. Cũng theo lời của viên tướng Pháp đội lốt ký giả này thì Trung Quốc đã sẵn sàng tạo sức ép để “Áp đạt giải pháp trung lập hóa miền Nam”. Mưu đồ duy trì sự phân chia lãnh thổ Việt Nam là quá rõ ràng. Chỉ tiếc là mưu đồ ấy lại nằm trong đầu của những đồng chí Trung Quốc, người bạn, người anh lớn của chúng ta trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Chủ Nghĩa Xã Hội. Quả là “Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Tuy nhiên người Trung Quốc không hiểu một đạo lý rất hiển nhiên là Người Việt Nam dù đứng ở đâu và trong hoàn cảnh nào thì vẫn nghĩ đến quốc gia dân tộc. Và Dương Văn Minh cũng là một người Việt Nam. Sau khi tự bán mình làm công cụ cho người Mỹ sát hại anh em Ngô Đình Diệm rồi bị thất sủng đi đày ở Thái Lan, chắc hẳn ông ta quá hiểu nỗi nhục của kẻ tôi đòi cho ngoại bang. Chính vì thế ông đã làm một việc mà nên làm cho tổ quốc, đó là nói lời khai tử cho quân lực Cộng Hòa. Đặt dấu chấm hết cho một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Rất tiếc là còn rất nhiều đồng bào ở Hải ngoại đã không hiểu và cố tình không hiểu điều này!
Đã có rất nhiều đoàn khách quốc tế đến Việt nam để khám phá “nụ cười của Phan Thị Như Quỳnh”. Khám phá nét đẹp tâm hồn của nàng trinh nữ Việt Nam. Tuy nhiên tự ngàn xưa, “hồng nhan” vốn “bạc phận”. Tấm thân ngọc ngà của mọi thiếu nữ đều khiến những gã đàn ông vô sỉ thèm khát chiếm đoạt. Điển hình cho “nhục vọng đê hèn” đó chính là sự bành trướng của các thế lực cầm quyền phương Bắc. Tên thất phu có thể thay đổi tên họ từ Hán, Đường, Tống, Nguyên… hay thay hình đổi dạng từ quân chủ, tam dân hay cộng sản, thì tham vọng vẫn không đổi. Ngay cả khi nhân dân hai nước Việt – Trung đang ca vang điệp khúc “núi liền núi, sông liền sông”, thì Bắc Kinh vẫn nuôi hy vọng thay chân người Mỹ để tiếp quản miền Nam đất Việt.
Sau nhiều cuộc đi đêm với Hoa Thịnh Đốn và đặc biệt là sau chuyến viếng thăm năm 1972 của tổng thống Richard Nixon, Trung Quốc tự tin khẳng định chủ quyền của mình trên quần đảo Hoàng Sa. Điều này cho thấy sự khốn nạn của hai đồng minh lớn của hai miền nam bắc Việt Nam. Người Mỹ mặc nhiên bỏ rơi lợi ích của chính quyền Sài Gòn khi tuyên bố các cụm đảo trong biển đông không nằm trong kế hoạch triển khai hải đảo tiền đồn của Hạm đội 7 năm 1970. Kế đó, sau khi bị thua tan tác trong trận “Điện Biên Phủ trên không” Mỹ chính thức rút hẳn Đệ thất hạm đội của mình ra khỏi Trường Sa năm 1973. Đúng một năm sau, Trung Quốc đập tan Hải quân Việt Nam cộng hòa trên vùng biển Hoàng Sa. Chính thức chiếm đóng quần đảo này cho đến hôm nay.
Việc tranh chấp chủ quyền trên Hoàng Sa đã có từ rất lâu, nhưng từ thập niên 60 của thế kỷ trước chính quyền Việt Nam cộng hòa đã có tuyên bố chính thức trước thế giới về chủ quyền của Việt Nam và cho quân đồn trú trên đảo này. Việc một nước đưa quân đến một vùng lãnh hải có chủ quyền của nước khác (khi đó là Việt Nam Cộng Hòa) chiếm đóng và tàn sát binh lính chính là hành động xâm lược. Dù dùng bất kỳ một lời lẽ nào thì Trung Quốc vẫn không thể chối cãi được. Cho dù chính quyền Sài Gòn là người “bên kia chiến tuyến” đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhưng hành động tuẫn tiết theo tầu của 50 binh lính và hạn trưởng Nguyễn Văn Thà (HQ 10 VNCH) cũng thể hiện tinh thần xả thân vì biển đảo của người Việt Nam. Tinh thần Đại Việt là bất khuất trước giặc ngoại xâm! Tinh thần này lại được thể hiện sâu sắc hơn, oanh liệt và bi trang hơn vào năm 1988. Với hình ảnh một “vòng tròn bất tử”, các chiến sỹ Hải quân Nhân dân Việt Nam đã dựng lên một tượng đài Ái quốc trên đảo chìm Trường Sa.
Thái độ của Trung Quốc trước cuộc chiến Việt Nam thể hiện một bản chất xảo trá của kẻ bất lương. Trong suốt chiều dài cuộc chiến, Bắc Kinh đã vận dụng chiến lược “lấy chiến tranh nuôi chiến tranh” của Mỹ một cách tài tình. Họ bòn rút sức lao động của người dân Trung Quốc để nuôi một cuộc chiến. Trên danh nghĩa thì đây là chiến trường của hai cực thế giới vào thời gian đó. Bắc Kinh tham gia vào cuộc chiến với danh nghĩa là đồng minh Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thực tế là họ đang lợi dụng tình trạng rối loạn trong khu vực để củng cố vị trí của mình trên trường quốc tế, đồng thời tranh thủ rút ruột các nước anh em thông qua con đường vận tải liên vận. Khi mà Hải Phòng, cánh cửa duy nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đi ra thế giới, bị Mỹ phong tỏa thì Trung Hoa đại lục chính là trạm trung chuyển của những chuyến hàng tiếp viện. Chiến trường lớn Hà Nội thì đói từng quả tên lửa, hậu phương Lớn Mạc Tư Khoa thì thốc tháo đổ khí tài lên các toa tầu chạy về Bai Can… còn Bắc Kinh thì tính bài “ngư ông đắc lợi”.
Tôi nhìn ông Trung tá Thông hí húi kiểm tra máy móc của chiếc UZA mà cười thầm. Chắc cụ già đang nhẩm tính quãng đường “ngon choét” phía trước và quyết định “bóp cổ” con la già đây. Đúng là đồ Liên Xô. Chẳng biết tốt xấu thế nào nhưng mỗi trăm cây lại uống cả hai chục lít xăng. Xót hết cả ruột!
“Mẹ! không tính thì tiễn với con nghiện này” Ông Thông lẩm bẩm: “Xe chạy là có định mức rồi. Tài chính nó chỉ tính km trên bản đồ thôi, chúng nó có biết thực tế chạy thế nào đâu? Nó cộng bản đồ thấy 1000 cây thì cho tiền chạy 2000 cả đi lẫn về. Đừng nói là nhầm đường, lùi lên lùi xuống là cũng bỏ mẹ. Khà khà..”
Vẫn cái giọng cười xả láng như phú nông được mùa, ông Thông nhìn tôi nháy mắt: “Ngày xưa thì bảo thiếu đã có Liên Xô, giờ thì lấy đếch đâu ra? Mày đi học ở bên ấy có thấy nó đi cái xe thế này không?”
“Vẫn chạy bình thường.” Tôi trả lời: “Nhưng mà cháu không đi!”
“Rồi cũng quen thôi, con ạ!” Ông Thông đá đá vào lốp trước, nhổ toẹt bãi nước bọt: “Chúng bố mày ngày trước mơ con GAZ 69 mà không được. Chúng nó cấp cho quả Hồng Kỳ. Tiên sư cái bọn Tầu! Cái đếch gì cũng làm nhái được. Thế mới tài!”. Ông ngửa mặt lên trời tặc lưỡi cái “chậc”, nói tiếp: “Hồi đánh Đồng Xoài, tao cũng phải vác khẩu AK nhái của chúng nó. Nặng vãi cả ***. Hình như nó đã nhái cả tầu vũ trụ nữa hay sao ấy. Bọn Mỹ té *** với thằng này…”
Mỹ không “té ***” với thằng nhà giầu mới nổi cũng là lạ! Trước khi ông Thông nhắc đến tham vọng vũ trụ của Trung Quốc, thì chương trình Thần Châu đã thành công. Đó là một bước tiến của khoa học, công nghệ của người Hoa. Và nó cũng đánh dấu một cuộc đua mới của thế giới. Một cuộc đua toàn diện hơn của những tham vọng khẳng định chủ quyền trên mọi mặt và ở mọi nơi.
Mỹ không “té ***” với kẻ đầu cơ quyền lực mới cũng là lạ! Sau khi ông Thông nhắc đến chiếc xe Hồng Kỳ nhái vài năm, Trung Quốc đã cho ra mắt chiếc limousine Hồng Kỳ copy kiểu dáng Rolls Royce một cách tài tình đến… đê tiện. Với chiếc xe “hoàng gia” này, ngài Hồ Cẩm Đào có thể vung vẩy tập trái phiếu chính phủ Mỹ trị giá 1145 tỷ USD trên quản trường Thiên An Môn. Mộng tưởng đến một ngày thống trị thế giới.
Mỹ không “té ***” với bậc thầy tráo trở này cũng là lạ! Ngay khi anh lính trẻ Nguyễn Văn Thông ghì chặt khẩu AK nhái ở Đồng Xoài, ngay khi thiếu tá ngụy quân Phạm Châu Tài vung vẩy khẩu colt gào thét tử thủ tại Bộ tổng tham mưu… ngay trong khi cuộc chiến Việt Nam sắp đi vào hồi kết, thì Trung Quốc đã chìa con bài tẩy của mình. Đó chính là lúc đại tướng quân lực Việt Nam Công Hòa Dương Văn Minh, tổng thống cuối cùng của chính quyền miền Nam, nhận được một lời đề nghị thầm kín rất ngọt ngào: “Phía Bắc còn một đồng minh lớn sẵn sàng giúp đỡ ngài!”. Nếu Dương Văn Minh trong giờ phút hấp hối của thể chế Cộng Hòa tại miền Nam là một con người khác, một con người chấp nhận bỏ qua quyền lợi dân tộc, một con người theo chủ nghĩa vũ trang cự đoan… thì mọi chuyện rất có thể sẽ khác.
Sau hiệp định Paris, nước Việt Nam chính thức bị phân chia vì thế lực lượng đấu tranh trực tiếp với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là Mặt trận Giải phóng Dân tộc Miền Nam. Trên lý thuyết là Việt Nam đã có hòa bình và mọi tranh chấp đều mang tính nội bộ. Dựa trên các điều khoản quốc tế thì Dương Văn Minh có thể thành lập một chính quyền mới theo đường lối “trung lập” với chính thể Quốc – Cộng liên hiệp. Để làm điều đó, ông ta chỉ cần bỏ Sài Gòn giữ Cần Thơ và dựa vào vùng 4 chiến thuật chưa bị mất mà cố thủ. Chiến sự khi đó sẽ giằng co thêm một thời gian nữa. Đây chính là nhận định hết sức thuyết phục mà Francois Vanuxem đã mở lời với Minh Lớn. Cũng theo lời của viên tướng Pháp đội lốt ký giả này thì Trung Quốc đã sẵn sàng tạo sức ép để “Áp đạt giải pháp trung lập hóa miền Nam”. Mưu đồ duy trì sự phân chia lãnh thổ Việt Nam là quá rõ ràng. Chỉ tiếc là mưu đồ ấy lại nằm trong đầu của những đồng chí Trung Quốc, người bạn, người anh lớn của chúng ta trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Chủ Nghĩa Xã Hội. Quả là “Tri nhân tri diện bất tri tâm”. Tuy nhiên người Trung Quốc không hiểu một đạo lý rất hiển nhiên là Người Việt Nam dù đứng ở đâu và trong hoàn cảnh nào thì vẫn nghĩ đến quốc gia dân tộc. Và Dương Văn Minh cũng là một người Việt Nam. Sau khi tự bán mình làm công cụ cho người Mỹ sát hại anh em Ngô Đình Diệm rồi bị thất sủng đi đày ở Thái Lan, chắc hẳn ông ta quá hiểu nỗi nhục của kẻ tôi đòi cho ngoại bang. Chính vì thế ông đã làm một việc mà nên làm cho tổ quốc, đó là nói lời khai tử cho quân lực Cộng Hòa. Đặt dấu chấm hết cho một cuộc chiến huynh đệ tương tàn. Rất tiếc là còn rất nhiều đồng bào ở Hải ngoại đã không hiểu và cố tình không hiểu điều này!
Chỉnh sửa cuối: