Gửi các cụ bài của T.S Nguyễn Xuân Diện - Viện Hán Nôm. Em thấy bài viết rất hay ạ!
NHẤT CHI MAI - NGỰ SỬ MAI
Hỡi khéo thay Mai!
Danh xưng Ngự sử truyền thanh bạch
Thoả chí nam nhi chiếm bảng xuân.
Đó là 3 câu thơ trong bài NON MAI, lời bài hát cổ nhất của Ca trù, tương truyền do Đức Tổ Ca trù Mãn Đường Hoa Công Chúa làm để ca ngợi tưởng nhớ chồng. Năm 2001, tôi may mắn tìm được hai văn bản chép bài Non mai trong sách Ca trù thể cách (AB.564) và Ca trù tạp lục (VHv. 2940) tại kho sách cổ Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Mai có vẻ đẹp thanh khiết và cao quý như phẩm chất của quan Ngự sử, vì vậy gọi mai là NGỰ SỬ MAI.
Vì mai nở vào mùa xuân, trùng với kỳ thi Tiến sĩ nên bảng ghi danh người đỗ Tiến sĩ cũng gọi là Bảng Mai, hoặc Bảng Xuân.
"Cây nhất chi mai còn gọi là Mai trắng (Bạch mai, Hàn mai, Lưỡng nhị mai, nhị độ mai). Tên khoa học là Prunus mume Sieb. & Zucc, thuộc họ hoa hồng (Rosaceae). Ở đây cần phân biệt rõ, tuy tên dân dã là mai nhưng thực sự là một loài cùng họ với đào, anh đào, mơ, mận. Nó hoàn toàn khác với giống mai vàng miền Nam có tên khoa học là Ochna integerrima thuộc chi Mai (Ochna), họ Mai (Ochnaceae).
Cây nhất chi mai là loài mai quý hiếm, chỉ sống ở những nơi có mùa đông và giá lạnh. Nhất Chi Mai chậm lớn, gốc xù xì, thân đen óng, nụ màu đỏ, khi nở thì chuyển dần sang màu trắng với nhiều tầng cánh xếp vào nhau và cũng là lúc đẹp nhất, tàn thì lại chuyển dần về màu đỏ. Nhất Chi Mai không có quả, việc chiết giống cũng rất khó khăn. Nhưng nếu bén rễ đâm chồi được, thì sức sống rất mãnh liệt, phi thường. Dường như, tiết trời càng lạnh, thì lại càng có sức sống hơn, thật kì lạ!
Chỉ cây nhất chi mai mới tái nở hoa vào tháng hai (âm lịch), sau khi tàn đợt nở đón xuân. Đúng lúc xuân tàn, thiên hạ đã hết hoa mai rồi, thì Nhất Chi Mai tái nở với những chồi lộc non tươi. Lần hai là chính vụ, còn lần đầu ví như Nhất Chi Mai nở để cổ vũ họ hàng hoa mai mà thôi. Có lẽ, đó là điều đặc biệt hơn cả, giống như tuyết rơi giữa mùa hè vậy…"(Hết trích).
Thơ của Thiền sư Mãn Giác đời Lý có câu:
Mạc vị Xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ “Nhất chi mai”
Vẫn được hiểu và dịch là:
Chớ bảo Xuân tàn, (muôn loài) hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước, một nhành mai.
Thực ra, hiểu và dịch đúng phải là:
Chớ bảo Xuân tàn, muôn hoa đều rụng sạch
Kìa kìa, đêm qua, trước sân hoa Nhất chi mai nở.
Vì trong bối cảnh trăm hoa đều rụng hết. Hết mùa hoa nở, thì chỉ còn mỗi hoa mai trắng vì nở lần thứ hai mà thôi. Chỉ Nhất chi mai mới còn nở hoa, dù cách hiểu nào cũng chỉ loài hoa ấy - Nhất chi mai. /.
Em thấy cụ này tán phét tào lao hết sức!
1. "Bẻ cong thơ" - "nhét chữ vào mồm" cụ sư: nhất chi mai là 1 cành mai (danh từ chung) thành Nhất chi mai (danh từ riêng, chỉ 1 giống cây)
2- cụ nào bảo cây mai này ra hoa 2 lần thì chăm & chụp cảnh nó nở hoa lần 2 lên đi! Hoa nó nở rải rác từ giữa mùa đông tới mùa xuân (tận tháng 3-4 DL thì có, chứ nở lần 2 tưng bừng như lần 1 này thì không có đâu ạ!
3- mà mai mốt gì mà vừa nhất vừa nhị? Cái tên Nhị độ mai, mà từ Nhị độ mai truyện của TQ, hay Nhị độ mai diễn ca thơ Nôm, có trong cả thơ Nguyễn Bính - chứ liên quan dek gì với cây mai này! Thấy thơ ca có nhất chi mai, nhị độ mai thì ôm cả vào cái tên cây là sao?
Trong các loại hoa mai, có mai tứ quý sau khi nở hoa, hoa rụng, kết hạt, tạo quả thì quả bung xòe như một bông hoa đỏ, nên đôi khi được gọi là "nhị độ mai - mai nở hai lần".
Em biết giống mai này từ ~ 40 năm trước vì nhà em có trồng (trồng từ bao giờ thì em không rõ). Các cụ gọi là Chi mai - chi là cành, chơi cây mai này không chơi hoa, hoa không cần nở trắng cành, mà chơi chủ yếu là dáng, cành và bộ rễ, hoa chỉ cần nở điểm lác đác thôi.
Cây chi mai này khác với giống Hàn mai trong thơ cổ - loại cây cứng cỏi, "vượt qua trăm loại hoa để nở hoa đầu tiên giữa mùa đông trong tuyết trắng" (có thơ đề
Tiên hướng bách hoa đầu thượng khai) - nên được gọi là Ngự sử mai (quan ngự sử dẫu chết cũng không uốn cong bút để chép sai sử sách) - cùng với Quân tử trúc, Trượng phu tùng hợp thành bộ Tuế hàn tam hữu.
hoa mai Trung Quốc là cây mai mơ. Từ điển Hán Việt Thiều Chửu giải thích
mai là “cây mơ, đầu xuân đã nở hoa, có hai thứ trắng và đỏ. Thứ trắng gọi là
lục ngạc mai, nở hết hoa rồi mới nẩy lá, quả chua, chín thì sắc vàng.
Kinh Thư có câu
nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai.
Giống hàn mai trong thơ cổ (có lẽ cả trong bài thơ của cụ sư) nó được tả rất nhiều
Khứ tuế Kinh Nam mai tự tuyết
Kim niên Kế Bắc tuyết như mai
Năm ngoái ở Kinh Nam (nay thuộc tỉnh Hồ Quảng), hoa mai trắng như tuyết
Năm nay ở Kế Bắc (nay là Bắc Kinh), tuyết trắng như hoa mai
hay
Mai tu tốn tuyết tam phân bạch
Tuyết khước thâu Mai nhất đoạn hương
Mai nên nhường tuyết ba phân trắng
Tuyết phải thua mai một bậc thơm
cây mai này, có lẽ giống cây mơ, cây mận hơn - chứ không phải cây mai cảnh này. Và "nhất chi mai" trong thơ của cụ sư kia chắc là một cành mơ, cành mận nở hoa trắng, chứ không phải là nhất chi mai tán láo của mấy ông gắn mác học giả thời nay!