"Tổ đình" trong Phật giáo nó khác với Đình làng cụ ạ. Có 1 lần em được 1 bé giỏi tiếng tàu giải thích là "tổ đình" là nơi sư tổ của 1 đại tông phái sống và truyền đạo. Chẳng hiểu lắm về Phật giáo- dưng mà em cho rằng giải thích thế cũng phải; duy chỉ có điều là đi qua các chùa ở Việt Nam em thấy gọi là "tổ đình" hơi nhiều, chẳng lẽ Việt Nam lại là nơi phát sinh nhiều đại tông phái trong Phật giáo thế à?
Những ai từng sống ở HN thiết nghĩ không dưới một lần đi qua tổ đình Phúc Khánh. Cái tên "tổ đình" em mới biết, còn trước kia, thời đường Tây Sơn chưa mở rộng như bây giờ, quả thực đi qua em không biết đến sự tồn tại của một địa điểm linh thiêng đến như vậy. Sau, vào ngày rằm, mồng 1, đặc biệt là rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy, những ngày tổ chức giải hạn...đi làm về toàn bị tắc đường đoạn đó em mới biết. Mấy năm gần đây, những ngày đó chỉ khoảng 1km đường quanh cầu vượt ngã tư Sở, lượng người tập trung dễ đến hàng vạn (?)...vỉa hè, lề đường, thành cầu đều được trưng dụng làm nơi hành lễ, thậm chí có người đứng tận cổng tòa Mipec vái vọng.
Theo Đông Tác Giao Lưu, em được biết, Chùa Phúc Khánh còn có tên là chùa Sở theo địa danh cũ (nay tọa lạc tại phường Thịnh Quang, quận Đống Đa, tp Hà Nội). Chùa thuộc hệ phái Bắc tông. Chùa được dựng vào thời Hậu Lê, là một cơ sở đào tạo tăng tài cho Phật giáo. Sau đó gặp hỏa hoạn bị hư hỏng hoàn toàn. Có tài liệu cho rằng chùa nằm trong khu vực diễn ra trận Đống Đa năm 1789 nên bị đổ nát, sau được nhà sư Chiếu Liên xây dựng lại với sự hổ trợ của Đô đốc Trần Văn Lễ (thời Tây Sơn) người đã từng ém quân ở chùa. Đô đốc còn cho đúc quả đại hồng chung và pho tượng Cửu Long cúng chùa. Chùa đã qua nhiều lần trùng tu xây dựng vào các năm 1853, 1921, 1932, 1935, 1940, 1993, 1996, 1998. Năm 1940, Hòa thượng trụ trì Thích Trung Thứ đã cho kiến thiết ngôi chùa làm cơ sở đào tạo tăng tài và điểm An cư kiết hạ hàng năm của chư Tăng....Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia từ năm 1988.
Nếu đọc qua lịch sử chùa như trên, sẽ là câu hỏi: tại sao chùa Phúc Khánh lại được gọi là "tổ đình"? Sự linh thiêng (theo quan niệm của người dân hiện nay thể hiện qua sự sùng bái) bắt nguồn từ đâu? Và đúng là có sự linh thiêng như thế? (hay chỉ là người sau theo người trước?).....
Cụ, mợ nào biết về chùa, hay từng lễ, làm giải hạn....tại tổ đình Phúc Khánh chia sẻ giúp em...
Tổ Bằng Sở - Hòa thượng Thích Trung Thứ
Hòa thượng họ Phan, húy Trung Thứ, pháp danh Chân Như. Sinh năm 1871 tại làng Hoành Đông - huyện Giao Thủy - tỉnh Nam Định. Ngài vốn thuộc dòng dõi gia đình thi lễ, tổ tiên Ngài ở thời Hậu Lê có vị đã làm đến Quận công. Từ nhỏ Ngài đã được theo học chữ Nho, nhờ có tư chất thông minh, nên Tứ Thư, Ngũ Kinh cho đến Bách Gia Chư Tử Ngài đều thông suốt cả.
Tuy nhiên, Ngài đã không lấy văn chương thi phú làm phương tiện tiến thân nhập thế, mà tìm chốn thiền môn để tu thân cứu đời. Năm 19 tuổi (1890), Ngài đến chùa Liên Tỉnh ở Nam Định xin làm lễ thế phát, thụ giới Sa Di. Sau vài năm, Ngài được Bản sư cho thụ giáo với Hòa thượng chùa Thịnh Quang là một vị chân tu, giới luật tinh nghiêm. Vài năm sau, Ngài được thụ giới Cụ Túc tại Đại giới đàn chùa Linh Quang - Hà Nội. Ngài ở lại đây tu học một thời gian, trau dồi giới luật. Sẵn có trình độ Hán học uyên thâm, lại chí tâm tu trì, nên Ngài thâm nhập kinh tạng nhanh chóng và trở lên một bậc lương đống trong thiền gia.
Khi ngoài 40 tuổi, nhận thấy trong hàng ngũ thanh niên Phật tử nhiều người thất học, giáo lý không thông, giới luật không rõ, Ngài bắt đầu lưu tâm đến việc dìu dắt lớp hậu tiến. Do đó, khi Ngài an trụ ở chùa Bằng (xã Văn Bình - Thường Tín - Hà Nội), thì khai tràng thuyết pháp ở chùa Bằng, khi an trụ ở chùa chùa Sở (chùa Phúc Khánh - Ngã Tư Sở - Đống Đa - Hà Nội), liền khai tràng thuyết pháp ở chùa Sở. Quanh năm tận tụy với sứ mệnh hoằng dương chính pháp, không lúc nào ngơi nghỉ.
Ngài giảng kinh cốt cho người nghe được rõ nghĩa, không câu nệ lối thuyết giảng xưa theo tập tục, nên các đệ tử xuất gia cũng như tại gia đều nức lòng theo học. Trường học lúc nào cũng đông đảo. Ngài lại lưu tâm về khoa sư phạm, vừa có ân vừa có uy nên đệ tử vừa mến lại vừa sợ. Mỗi khi lên Phật điện, giảng đường hay xuống trai đường, ai nấy đều giữ uy nghi tế hạnh nghiêm trang như luật định.
Ngài lại ra làm Chủ hạ ở chùa Linh Quang - Bà Đá, tại đây Ngài đã kiểm san bộ Đại Bảo Tích để báo đức Tổ Linh Quang. Ngài lại được Tổ Vĩnh Nghiêm giao phó công việc đặc trách cắt nghĩa toàn bộ Phương Đẳng Bát Nhã, bộ Tứ Phần Hành Sự Sao là những bộ kinh luật lớn. Đây là công việc nặng nề, nếu không phải là người tinh thâm văn nghĩa, thấu hiểu giáo lý Phật đà và có tính nhẫn nại, chuyên cần thì không thể làm được.
Đối với chúng đệ tử tại gia, Ngài cũng để tâm săn sóc dạy bảo. Ngài lập ra một Ban tại gia Bồ tát, truyền giới Bồ Tát cho hàng thiện nam tín nữ, chỉ dạy họ hiểu nghĩa lý Phật pháp, biết quy củ Thiền gia, trợ thủ cho Tăng Ni tu hành. Ngài cũng quan tâm đến công tác từ thiện xã hội, lập ra một Ban Tế Thí, mỗi vị Bồ Tát tùy tâm tùy lực, cúng một số tiền, làm việc sinh lợi chân chính. Khi nào có thiên tai, hoạn nạn thì trích một phần quỹ cứu giúp. Thật là một phép phương tiện rất quý báu trong thiền gia ở nước ta thời bấy giờ.
Vốn là vị Thiền sư hằng quan tâm đến việc hoằng pháp độ sinh, Ngài là một trong những Hòa thượng hoạt động tích cực cho việc thành lập Hội Phật Giáo Bắc Kỳ, được chính thức ra đời vào ngày 5 tháng 12 năm 1934 tại chùa Quán Sứ - Hà Nội, do Hòa thượng Thích Thanh Hanh làm Thiền gia Pháp chủ. Để giúp Hội về mặt hành chính trong bước đầu thành lập, Ngài nhận chức Kỳ Túc Đạo Sư. Bấy giờ Hội hoạt động rất mạnh, nhiều trường Phật học lần lượt được mở tại các Tổ đình. Một lớp Đại học Phật giáo được mở tại chùa Sở (Phúc Khánh), chính thức khai giảng năm 1936 do Ngài làm Đốc giáo. Chương trình học trong 3 năm, sau khi tốt nghiệp, học Tăng có thể ở lại trường nghiên cứu thêm 5 năm - chương trình này gọi là Bác Học Cao Đẳng. Trong khi trường mới mở, thiếu thốn nhiều thứ, chẳng những Ngài đã bố thí pháp, không quản tuổi cao sức yếu thuyết giảng kinh pháp suốt ngày, mà còn cúng dàng tài vật cho chư Tăng tu học. Ngài lo cung cấp đầy đủ mọi thứ, chẳng quản nhọc nhằn, tất cả đều vì đạo pháp, vì sự thành tựu của phong trào chấn hưng Phật giáo nước nhà.
Về sau, khi chùa Bồ Đề ở Long Biên chuyển thành một cơ sở đào tạo Ni chúng, Ngài cũng hết lòng chăm sóc cho được thành tựu.
Tháng Chạp năm 1935, tờ Đuốc Tuệ - cơ quan ngôn luận của Hội ra đời do Cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm chủ nhiệm, Ngài được mời làm chủ bút, chịu trách nhiệm về nội dung bài vở. Tờ Đuốc Tuệ đã quy tụ được nhiều Tăng Ni và nhà văn tân - cựu học có khả năng tham gia viết bài, hoạt động cho đến trước ngày Cách mạng tháng tám thành công mới đình bản.
Ngoài việc hoạt động cho công cuộc hoằng pháp, đào tạo Tăng tài, bồi đắp các thế hệ kế thừa bằng các trường Phật học và diễn đàn Đuốc Tuệ, Ngài còn có công trùng tu một số chùa, nhất là tiếp nối Hòa thượng Trung Hậu trùng tu chùa Quán Sứ - nơi đặt trụ sở của Hội Phật Giáo Bắc Kỳ.
Ngày 25 tháng 2 năm 1942, Ngài cùng một số đệ tử mở cuộc hành hương chiêm bái Thánh tích Yên Tử. Bấy giờ Ngài đã ngoài bảy mươi, sức khỏe đã kém sút, nhưng Ngài vẫn quyết chí ra đi. Qua chùa Lân đến chùa Hoa Yên, các đệ tử thấy Ngài có vẻ suy yếu, đều xin Ngài nghỉ lại ở chùa Hoa Yên, nhưng Ngài không nghe, vẫn tiếp tục đăng sơn bái Tổ. Ngài theo nẻo am Ngọa Vân mà đi, khi lên đến Chân Cảnh, tự nhiên Ngài đứng ngẩn người ra không nói, không động. Các đệ tử theo sau vội vực Ngài về chùa Hoa Yên tìm thuốc men chạy chữa, rồi rước Ngài về chùa Bằng Sở điều dưỡng.
Đến 3 giờ 30 sáng ngày 16 tháng 3 năm 1942 Ngài viên tịch, hưởng thọ 71 tuổi đời, 50 tuổi đạo.
Tổ Bằng Sở là một cao Tăng uy danh vang khắp miền Bắc, công hạnh của Ngài đối với những lớp người sau không thể kể bàn được. Chỉ có thể nói phong trào chấn hưng Phật giáo miền Bắc ở giai đoạn đầu không thể thiếu Ngài mà thành công. Dù Ngài đã đi về nơi Tịnh Cảnh, nhưng sự nghiệp và công hạnh của Ngài còn mãi trong lòng Tăng Ni - Phật tử.
http://phatgiaohanoi.vn/detail/to-bang-so-hoa-thuong-thich-trung-thu.html