[Funland] Nhạc của các cụ mợ 7x, 8x xưa...

bear in car

Xe buýt
Biển số
OF-481974
Ngày cấp bằng
4/1/17
Số km
926
Động cơ
202,832 Mã lực
E khó ngủ quá, mời cccm cùng nghe với e ạ :). Bài này phản ánh đúng tâm trạng của e lúc này :-? Gần đúng thôi ạ :D
People Are Crazy
Billy Currington

This old man and me, we're at the bar and we
We're having us some beers and swapping 'I don't cares'
Talking politics, blonde and red-head chicks
Old dogs and new tricks and habits we ain't kicked
We talked about God's grace and all the hell we raised
Then I heard the ol' man say;
"God is great, beer is good and people are crazy"
He said "I fought two wars,
Been married and divorced"
"What brings you to Ohio?"
He said "Damned if I know"
We talked an hour or two about every girl we knew
What all we put 'em through
Like two old boys would do
We pondered life and death
He lit a cigarette
He said "These damn things will kill me yet;
But God is great, beer is good and people are crazy"
Last call it's two a.m., I said goodbye to him
I never talked to him again
Then one sunny day, I saw the old man's face
Front page obituary, he was a millionaire
He left his fortune to some guy he barely knew, his kids were mad as hell
But me, I'm doing well
And I drop by today, to just say thanks and pray,
And I left a six-pack right there on his grave and I said;
'God is great, beer is good, and people are crazy"
God is great, beer is good, and people are crazy.
God is great, beer is good, and people are crazy.
 

VICEM 2

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-593477
Ngày cấp bằng
6/10/18
Số km
16
Động cơ
130,950 Mã lực
Tuổi
25
Nhạc ngày xưa có những bài nghe đi nghe lại vẫn thấy hay
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
A Whiter Shade Of Pale


"A Whiter Shade of Pale" là đĩa đơn đầu tiên của ban nhạc Rock người Anh Procol Harum, được phát hành 12 tháng 5 năm 1967. Phần nhạc do Gary Brooker và Matthew Fisher viết, phần lời được viết bởi Keith Reid.

Đĩa trở thành quán quân trong những dĩa đơn tại Anh vào ngày 8 tháng 6 năm 1967 trong 6 tuần liền. Nó cũng leo lên được hạng 5 bên Hoa Kỳ. Nó là một trong số khoảng gần 30 dĩa đơn mà đã bán được trên 10 triệu bản.

Vào năm, tờ Rolling Stone xếp "500 bài nhạc vĩ đại nhất vào mọi thời đại". Vào năm 1977, bản này cùng với bản Bohemian Rhapsody của ban nhạc Queen được chọn làm những đĩa đơn nhạc Pop hay nhất từ năm 1952–1977 tại giải Brit. Vào năm 1998 bản này cũng được đưa vào Grammy Hall of Fame. (wiki)

Keith Reid thành lập nhóm Procol Harum vào năm 1967 với Gary Brooker. A Whiter Shade of Pale là một trong số khoảng 15 bài hát Reid viết lời cho album đầu tiên của họ. Reid nghĩ ra cái tựa cho bài hát này tại một bữa tiệc. Ông tình cờ nghe người nào đó nói với một phụ nữ: “You’ve gone a whiter shade of pale” (Em đã chuyển dần sang trắng bệch) và cụm từ này in sâu trong tâm trí ông. Cụm từ “A whiter shade of pale” sau đó được sử dụng rộng rãi trong tiếng Anh, được một số nhà biên soạn từ điển chú ý đến. Vì thế, cụm từ này ngày nay thường được sử dụng trong các ngữ cảnh độc lập với bài hát.

Cảm hứng từ nhạc cổ điển của Bach

Ca sĩ trưởng nhóm Gary Brooker vốn yêu thích nhạc cổ điển và nhạc jazz nhiều năm trước khi thành lập nhóm Procol Harum. Chuyên gia âm nhạc cổ điển Maarten ‘t Hart cho rằng A Whiter Shade of Pale là một “tác phẩm chuyển thể đầu tiên” của bài Ich steh mit einem Fuß im Grabe, BWV 156 của nhà soạn nhạc lỗi lạc Johann Sebastian Bach. Ngoài ra, đoạn dạo đầu bằng đàn organ Hammond trứ danh của Matthew Fisher bắt nguồn từ bài Sleepers, Wake!Air on the G String cũng của Bach. Phần nhạc cũng vay mượn ý tưởng từ ca khúc nổi tiếng When a Man Loves a Woman của Percy Sledge. Đĩa đơn đầu tay A Whiter Shade of Pale của ban nhạc rock Anh quốc Procol Harum được phát hành ngày 12–5– 1967. Nó lập tức vươn tới hạng nhất trên bảng xếp hạng đĩa đơn Anh quốc và giữ vị trí đó suốt sáu tuần. Trong những năm sau đó, A Whiter Shade of Pale đã trở thành một nhạc phẩm kinh điển có sức sống lâu dài. Nó là một trong những ca khúc chủ đề của hiện tượng xã hội Summer of Love của dân Hippie nước Anh năm 1967. A Whiter Shade of Pale là một trong số chưa tới 30 đĩa đơn hiếm hoi bán được hơn 10 triệu bản trên khắp thế giới. Năm 2004, tạp chí Rolling Stone xếp ca khúc này hạng 57 trong danh sách 500 ca khúc hay nhất mọi thời đại (Thế Giới Văn Hóa)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Mời cccm nghe Always của Atlantic Starr, giai điệu nghe như mật trót vào tai ý


"Always" là bản ballad của ban nhạc R & B của Mỹ Atlantic Starr. Ca khúc là đĩa đơn thứ hai trong album thứ 7 của nhóm "All in the Name of Love". Đĩa đơn đứng ở vị trí số 1 trên cả bảng xếp hạng Billboard Hot 100/ Billboard Hot R & B / Hip-Hop trong tháng 6 năm 1987 (wiki)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Bài "Lonely" của Akon được giới trẻ ưa thích là bản cover của "Mr.Lonely" -Bobby Vinton


Vinton bắt đầu viết bài hát trong khi phục vụ trong quân đội. Bài hát mô tả một người lính được gửi ra nước ngoài và không có liên lạc với nhà của mình. Ca sĩ than thở hoàn cảnh và mong muốn có ai đó để nói chuyện cùng. Đĩa đơn của Vinton được phát hành giống khi cuộc chiến tranh tại Việt Nam đang leo thang và nhiều binh sĩ đã trải qua một tình cảnh tương tự. (wiki)

Bản cover tiếng Pháp nổi tiếng của Johnny Hallyday

 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Mời cccm nghe họ phối nhạc hay thế nào :D

"Baby Come Back" là một bài hát của ban nhạc rock Mỹ "Player". Được phát hành vào cuối năm 1977, bài hát là bài hit lớn nhất của họ, đứng vị trí số một trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ và đứng thứ 10 trên bảng xếp hạng R & B năm 1978. Đây là single mang lại thành công thương mại cho ban nhạc, dành vị trí quán quân từ bài "How Deep Is Your Love" của Bee Gees (wiki)

 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Giai điệu quen thuộc mà mãi em mới tìm được vì không nhớ tên bài hát (mà bài này cũng chả có mấy tí lời để hát. Cccm sẽ thấy các bậc cha chú chúng ta từng phiêu như nào nhé :-*)


I feel love
là bài hát do ca sĩ người Mỹ Donna Summer trình diễn. Summer cũng đồng sáng tác ca khúc này cùng với Giorgio Moroder và Pete Bellotte vào tháng Năm năm 1977.

Báo Slant xếp I feel love hạng số 1 trong danh sách 100 bài hát vũ vĩ đại nhất vào năm 2006. Còn báo nhạc Rolling Stone xếp I feel love hạng thứ 418 trong danh sách 500 bài hát hay nhất mọi thời đại. (st)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Cccm đã quen thuộc với bàn hát There's a kind of hush do The Carpenters cover ;;). Dưới đây là một bản cover khác trước đó, còn chính chủ thì ít người biết đến


"There is a Kind of Hush" là một bài hát nổi tiếng được viết bởi Les Reed và Geoff Stephens, trở thành bài hát hit năm 1967 cho Herman's Hermits và một lần nữa vào năm 1976 cho The Carpenters (wiki)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Honesty

"Honesty" là một bài hát của ca sĩ và nhạc sĩ người Mỹ Billy Joel. Columbia Records phát hành bài hát này là đĩa đơn thứ ba từ album thứ sáu 52nd Street (1978) vào năm 1979. "Honesty" được viết bởi Joel, trong khi sản xuất được Phil Ramone xử lý. Bài hát không được phát hành tại Mỹ; tuy nhiên, nó xuất hiện trên các ấn bản Greatest Hits Tập 2 bán tại Hà Lan và Nhật Bản, thay thế bài hát "Don't Ask Me Why" (1980). "Honesty" là bản ballad piano nói về sự thiếu thốn hiển nhiên của sự xấu hổ.

Bài hát đã nhận được những đánh giá tích cực nhất từ các nhà phê bình âm nhạc về lời bài hát và giai điệu piano. Nó cũng nhận được sự so sánh với các bài hát khác của Joel. "Honesty" đạt vị trí thứ 24 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ, trở thành hit thứ ba liên tiếp thứ ba của album. Nó đã đi đến số 1 tại Pháp và cũng đã được chứng nhận vàng của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm của Nhật Bản cho doanh số bán tải nhạc chuông của hơn 100.000 đơn vị. Joel biểu diễn ca khúc này nhiều lần với Elton John và sau đó là Bryan Adams. "Honesty" đã được cover bởi các nghệ sĩ khác nhau, bao gồm cả nghệ sĩ R & B, Beyoncé.

Năm 1987, Billy Joel đã tạo nên lịch sử, trở thành một trong những nghệ sỹ người Mỹ đầu tiên đưa toàn bộ giai đoạn sản xuất của mình đến Liên Xô biểu diễn kể từ khi xây dựng Bức tường Berlin (st)


If you search for tenderness
It isn't hard to find
You can have the love you need to live
But if you look for truthfulness
You might just as well be blind
It always seems to be so hard to give

Honesty is such a lonely word
Everyone is so untrue
Honesty is hardly ever heard
And mostly what I need from you

I can always find someone
To say they sympathize
If I wear my heart out on my sleeve
But I don't want some pretty face
To tell me pretty lies
All I want is someone to believe

Honesty is such a lonely word
Everyone is so untrue
Honesty is hardly ever heard
And mostly what I need from you

I can find a lover
I can find a friend
I can have security until the bitter end
Anyone can comfort me
With promises again
I know, I know

When I'm deep inside of me
Don't be too concerned
I won't ask for nothin' while I'm gone
But when I want sincerity
Tell me where else can I turn
'Cause you're the one I depend upon

Honesty is such a lonely word
Everyone is so untrue
Honesty is hardly ever heard
And mostly what I need from you
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Even The Nights Are Better


"Even the Nights Are Better" là tiêu đề của một bài hát nổi tiếng từ năm 1982 của nhóm nhạc rock Úc Air Supply. Được phát hành đĩa đơn vào giữa năm 1982, "Even the Nights Are Better" lọt vào bảng xếp hạng Billboard của Mỹ, nơi nó trải qua bốn tuần ở vị trí số 1 trong tháng 7 và tháng 8. Đây là bài hát thứ ba của Air Supply đạt top trong bảng xếp hạng này. Nó cũng đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng AC của Canada. Vào tháng 9 năm 1982, bài hát đạt vị trí cao nhất ở vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành hit thứ 5 liên tiếp của nhóm trong bảng xếp hạng pop Mỹ. Tại Vương quốc Anh, nơi nhóm nhạc không được thành công như họ đã làm ở Úc và Mỹ, bài hát đạt vị trí 44 trên UK Singles Chart (wiki)

Cover của Anne Murray

 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Mon mec à moi

Em nhớ nghe bài này lần đầu trên MTV châu Á từ rất lâu ạ, giờ nghe lại vẫn thấy hay như xưa


"Mon mec à moi" là tên của bài hát được thu âm năm 1987 bởi ca sĩ người Pháp Patricia Kaas. Đây là đĩa đơn thứ ba của cô từ album đầu tay của cô, "Mademoiselle chante ..." Được phát hành vào tháng 11 năm 1988, bài hát xếp đầu trong top 5 bài hit của Kaas ở Pháp, là đỉnh cao sự nghiệp của cô trong bảng xếp hạng Singles Chart của Pháp

Lời hát được viết bởi Didier Barbelivien và âm nhạc sáng tác bởi François Bernheim. Trong bài hát, cô gái kể chuyện kể về tình yêu của cô với người bạn trai, người nói với cô nhiều điều dối trá mà cô vẫn tin vì tình yêu dành cho anh (st)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Comment te dire adieu (Sao đành vĩnh biệt)

Em nghĩ là bản cover tiếng Pháp của Françoise Hardy là cccm quen tai nhất


Trong nguyên tác, bản nhạc này ban đầu là một ca khúc tiếng Anh mang tựa đề ‘‘It hurts to say goodbye’’ của hai tác giả Arnold Goland (nhạc) & Jacob Jack Gold (lời). Ca sĩ đầu tiên ghi âm bài này là Margaret Whiting phát hành trên tập nhạc The Wheel of Hurt vào năm 1966.


Bản nhạc này ăn khách một năm sau đó (lọt vào Top Ten Hoa Kỳ) nhờ vào phiên bản cover của Vera Lynn.


Người đầu tiên đặt lời tiếng Pháp cho bài hát này không phải là Serge Gainsbourg mà là tác giả Canada Michèle Vendôme. Cô đã chuyển lời thành ca khúc Avant de dire Adieu (Trước khi thốt lời vĩnh biệt) cho Ginette Reno, giọng ca nổi tiếng nhất vùng Québec thời bấy giờ. Về phần Françoise Hardy, sau một năm bận rộn với vòng lưu diễn tại Canada, Nam Phi (Johannesburg, Pretoria, Cape Town) và liên hoan ca khúc quốc tế tại Rio de Janeiro (Brazil), đến khi trở về Paris cô khám phá giai điệu của bài "It hurts to say goodbye" ghi âm với một ban nhạc hòa tấu.

Vào lúc ấy, Françoise Hardy không hề biết là bản nhạc này đã có sẵn một phiên bản tiếng Pháp, cho nên mới yêu cầu ông manager (nhà quản lý Lionel Roc) tìm cho ra một ngòi bút trứ danh để đặt lời tiếng Pháp cho ca khúc này. Năm 1968 đánh dấu sự gặp gỡ giữa ca sĩ Françoise Hardy với tác giả Serge Gainsbourg. Tên tuổi của ông lúc bấy giờ đang lên như diều gặp gió sau khi thành công với các bài hát sáng tác cho France Gall (kể cả Poupée de Cire và Les Sucettes) và những bản nhạc mà ông viết cho thần tượng điện ảnh Brigitte Bardot vào cuối năm 1967 (Harley Davidson, Comic Strip, Bonnie & Clyde …..)

Tác giả Serge Gainsbourg chấp nhận đề nghị của ca sĩ Françoise Hardy. Ông đặt thêm lời tiếng Pháp cho bài hát này thành ca khúc Comment te dire adieu (Sao đành vĩnh biệt) mà về ngữ cảnh và cách dùng ca từ rất khác với phiên bản đầu tiên của tác giả Michèle Vendôme (Avant de dire Adieu / Trước khi thốt lời vĩnh biệt). Tác giả Gainsbourg ở đây dùng cùng lúc hai thủ pháp rất tinh tế, ông tạo điểm nhấn bằng cách ngắt chữ ra làm đôi và đẩy dồn phần sau lùi xuống ở đầu câu kế tiếp (contre-rejet).

Qua việc kết hợp hai thủ pháp ấy, ông tạo ra một cách chơi chữ rất lạ, hàm chứa những âm tiết khác biệt mà vẫn làm giàu vần điệu, nổi tiếng là khó dùng vì ít thông dụng và khan hiếm. Cách đặt lời tài tình ấy đã thuyết phục được ngay Françoise Hardy. Cô ghi âm bài hát này làm ca khúc chủ đạo và album phòng thu thứ 9 của cô khi được phát hành cuối năm 1968 cũng có cùng một tựa đề là Comment te dire adieu (Sao đành vĩnh biệt).

Từ một bản ballad trong tiếng Anh, bài hát được chuyển ngữ và chuyển nhịp thành một ca khúc nhạc pop trẻ trung trong nhịp điệu những vẫn có chiều sâu về mặt nội dung ca từ. Bản nhạc Comment te dire adieu trở nên cực kỳ ăn khách. Ngoài tiếng Pháp, Françoise Hardy còn ghi âm thêm bài này trong tiếng Ý (Il Pretesto 1969) và tiếng Đức (Was mach’ ich ohne dich 1970). Thế nhưng, bản nhạc này sau đó có thêm hàng trăm phiên bản khác kể cả tiếng Thụy Điển (Sa Synd du Maste Ga 1969), tiếng Phần Lan (Kai Viela Kohdataan 1973), tiếng Nhật (Sayonara O Oshiete 1985), tiếng Tiệp (Jedno Tajemství 1999, hay tiếng Hà Lan (Wanneer zie ik je weer 2015) …..

Trong tiếng Việt bài này từng được dịch thành bài Mưa rơi với những câu mở đầu như : Tiếng mưa rơi chiều nay, buồn phiền nhớ ai / Gió vi vu hàng cây, mưa làm nắng phai / Trời còn mưa mưa mãi, anh xa xôi rồi / Nghẹn ngào rưng rưng khóe môi …… bài hát này từng được nhiều ca sĩ hải ngoại ghi âm trong đó có Lâm Thúy Vân, Trung Hành, Hạ Vy, Don Hồ dưới dạng đơn khúc hay liên khúc.


Làm sao nói lời vĩnh biệt (Comment te dire adieu) : nhưng lời vĩnh biệt ấy được dành cho ai ? Trong vòng nhiều thập niên, Françoise Hardy hát bài này và từng câu chữ như thể được viết cho hoàn cảnh của mình, vì bản thân cô có một mối quan hệ khá phức tạp với chồng là Jacques Dutronc. Hai người vẫn còn giữ nguyên tờ giấy hôn thú, nhưng trong thực tế họ sống ly thân từ năm 1990. Về phần tác giả Gainsbourg, ở ngoài đời, tánh tính của ông không hạp với Jacques Dutronc, nếu không nói là hai người rất ghét nhau và có lẽ cũng vì thế mà Françoise Hardy không có được nhiều cơ hội để làm việc thêm với tác giả này mặc dù sự hợp tác của họ rất thành công.

Thật ra, tác giả Gainsbourg đã viết lời bản nhạc ‘‘Sao đành vĩnh biệt’’ là để nhắn nhủ với người tình cũ : người ấy chính là ngôi sao màn bạc Brigitte Bardot. Hai người quen nhau vào cuối năm 1967 và dù rằng lúc đó Brigitte Bardot đã có chồng (bà kết hôn với nhà triệu phú người Thụy Sĩ Gunter Sachs vào năm 1966) nhưng Bardot và Gainsbourg vẫn có một mối quan hệ đam mê say đắm trong vòng 3 tháng liền (86 ngày theo ghi chép của Serge Gainsbourg).

Khi biết được tin là vợ ông đang ngoại tình, nhà triệu phú (bị cắm sừng) lúc ấy đang ở nước ngoài vội bay tới Pháp, buộc Brigitte Bardot phải lập tức theo ông về nhà, và ông đe dọa kiện Gainsbourg ra toà nếu hai người cho phát hành các bài hát ghi âm trong khoảng thời gian này (trong đó có đĩa nhạc Je t’aime moi non plus mà đa số thính giả đều biết đến qua phiên bản ghi âm sau đó với Jane Birkin).

Tuy nhà triệu phú Gunter Sachs và Brigitte Bardot ra toà ly dị vào tháng 10 năm 1969, nhưng trong một thời gian dài bà và tác giả Gainsbourg không hề gặp lại nhau. Khi chấp bút đặt lời cho bài hát "Sao đành vĩnh biệt", tác giả Serge Gainsbourg khóc thương cho một mối tình tuy ngắn ngủi nhưng lại đầy đam mê cháy bỏng hừng hực lửa tình. Theo ông đó là những ngày tháng đẹp nhất trong đời mình. Bài hát này đã giúp cho tên tuổi của Serge Gainsbourg và Françoise Hardy ngự trị trên đỉnh cao, nhưng cũng dự báo cho làn sóng nhạc trẻ những năm 1960 sắp đến lúc thoái trào, và câu chuyện thật của tình khúc này mới được tiết lộ một thời gian sau. (st)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Just the Way You Are (trùng tên với bài hit của Bruno Mars :D)


"Just the Way You Are" là một bài hát của Billy Joel; nó là ca khúc thứ ba trong album The Stranger (1977). Nó đã trở thành single đầu tiên của Joel lọt US Top 10 và UK Top 20 (đạt # 3 và # 19 tương ứng), cũng như golden single đầu tiên của Joel ở Mỹ.

"Just the Way You Are" giành được hai giải Grammy cho thu âm của năm và bài hát của năm vào năm 1979.

Bài hát được Joel viết cho người vợ đầu tiên của mình và cũng là người quản lý kinh doanh của anh ấy vào thời điểm đó, Elizabeth Weber. Sau khi Joel và Weber chia tay năm 1982, Joel hiếm khi biểu diễn ca khúc này và công khai tuyên bố rằng anh không thích bài hát này sau khi ly hôn với người vợ đầu tiên (wiki)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
The Winner Takes It All


The Winner Takes It All - được viết bởi Björn Ulvaeus và Benny Andersson, với Agnetha Fältskog hát chính. Ulvaeus phủ nhận bài hát nói về vụ ly hôn của anh và Fältskog, nói rằng bài hát nói về kinh nghiệm của một vụ ly hôn, nhưng đó là hư cấu. Không có người chiến thắng hay kẻ thua cuộc trong trường hợp của chúng tôi. Rất nhiều người nghĩ rằng nó chính là chuyện của chúng tôi, nhưng nó không phải".

Fältskog cũng đã nhiều lần nói rằng mặc dù "The Winner Takes It All" là bài hát ABBA yêu thích của cô và có phần lời hát tuyệt vời, câu chuyện không phải của cô và Ulvaeus: không có người chiến thắng trong ly hôn của họ, đặc biệt liên quan đến các con của họ.

"The Winner Takes It All" là thành công lớn cho ABBA, xếp # 1 tại Bỉ, Ireland, Hà Lan, Nam Phi và Vương quốc Anh. Nó đã lọt vào Top 5 ở Áo, Phần Lan, Pháp, Tây Đức, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Zimbabwe, trong khi đứng đầu trong Top 10 tại Úc, Canada, Ý, Tây Ban Nha và US Top 10 (đạt vị trí thứ 8, sau đó tồn tại 26 tuần trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhiều hơn bất kỳ single nào khác của ABBA ) Đây cũng là lần thứ hai ABBA có bài hát xếp thứ nhất trên Billboard Adult Contemporary (lần một là "Fernando") (wiki)

Cover của Mireille Mathieu

 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
"Uptown Girl" là một bài hát được viết và thể hiện bởi Billy Joel, phát hành lần đầu năm 1983 cho album của anh An Innocent Man. Đĩa đơn đã đạt được tới vị trí #3 trên các bảng xếp hạng Billboard ở Hoa Kỳ, #1 ở Anh và giữ nguyên vị trí này trong 5 tuần. Đây là ca khúc bán chạy thứ hai ở Anh năm đó chỉ sau ca khúc "Karma Chameleon" của Culture Club, chính là ca khúc đã bị Joel đánh bại vị trí quán quân.

Năm 1988, tạp chí Rolling Stone đã bầu chọn "Uptown Girl" ở vị trí 99 trong số 100 đĩa đơn quan trọng nhất của thời kì 1963-1988; đồng thời nó cũng đứng thứ 19 trong số những đĩa đơn bán chạy nhất ở Anh trong thập niên 1980.(wiki)

Uptown Girl có giai điệu không quá đặc sắc nhưng vẫn nổi tiếng, có một MV (video nhạc) vang danh trong những năm 1980. Điều đặc biệt ở ca khúc này là câu chuyện hậu trường hấp dẫn, gắn với 2 siêu mẫu Christie Brinkley và Elle Macpherson.

Cả Brinkley và Macpherson đều là những siêu mẫu tuyệt sắc và nổi tiếng bậc nhất trong thập niên 80. Cả hai đều có quan hệ tình cảm với Billy Joel, nam ca sĩ hát Uptown Girl. Bài hát này đến với đông đảo khán giả Việt Nam qua bản hát lại của nhóm nhạc Westlife, nhưng câu chuyện hậu trường khiến công chúng quan tâm lại thuộc về bản gốc của Joel.

Trong MV đó, Joel mặc bộ đồ thợ sửa xe nhảy nhót cùng các vũ công nam, cũng hóa trang thành thợ sửa xe, đại diện cho tầng lớp lao động. Anh cưa đổ cô nàng vô cùng xinh đẹp và sang trọng, khiến nàng bước khỏi xe hơi để ngồi lên yên xe máy của mình. Cô nàng đó là Christie Brinkley. Ai cũng nghĩ chính siêu mẫu này là nàng thơ của bài hát. Thực tế không đơn giản như vậy.

Joel gặp cả Brinkley lẫn McPherson trong một kỳ nghỉ ở vùng biển Caribbe thơ mộng. Đi cùng 2 cô gái còn có một người mẫu trẻ khác chưa nổi tiếng tên Whitney Houston, về sau trở thành ca sĩ huyền thoại.

Có thể, tất cả họ đều là nguồn cảm hứng cho bài hát, bởi tên gốc của bài hát làUptown Girls chứ không phải chữ “girl” số ít như trong cái tên chính thức sau này. Trong kỳ nghỉ đó, Joel đang ngồi chơi piano. Khi ngẩng đầu lên, ông nhìn thấy cả 3 người đẹp đang đứng bên chiếc đàn say sưa ngắm ông chơi nhạc. Joel phải làm gì? Ông cảm ơn Chúa đã cho mình may mắn đó và chọn McPherson để hẹn hò.

Hoàn cảnh ra đời bài hát không quá phức tạp. Theo lời Joel kể sau này, khi bắt đầu sáng tác ca khúc, ông vẫn đang trong mối quan hệ với McPherson, người mới chỉ 19 tuổi. Nhưng đó không phải là một tình cảm sâu nặng và cả hai không tính đến chuyện ở bên nhau dài lâu.

Khi McPherson đến châu Âu theo đuổi sự nghiệp thời trang đỉnh cao, họ chia tay. Gần như cùng lúc đó Joel chuyển sang hẹn hò với Brinkley, lần này là một mối tình nghiêm túc hơn. Nam ca sĩ sửa sang lại bài hát, và khi hoàn thành, Uptown Girl thực sự nói về Brinkley dù nó được gợi cảm hứng bởi McPherson


(vợ chồng Christie Brinkley - Billy Joel)

Những ca từ đầu tiên nảy ra trong đầu Joel khi sáng tác Uptown Girl là “cô nàng phố thị ơi, anh đã đi vòng quanh thế giới”, nói về chính chuyến đi đưa ông đến với các người đẹp. Phần nhạc dạo đầu mang âm hưởng nhạc cổ điển.

2 năm sau khi Joel mời Brinkley đóng vai nữ chính trong MV này, họ kết hôn. Cuộc hôn nhân kéo dài được 9 năm, kết thúc một phần vì một vụ ngoại tình của Joel, phần khác do nam ca sĩ quá bận rộn không thể chăm sóc được vợ (Thể thao & Văn hóa)


Tiếp mạch cảm hứng về siêu mẫu của Billy Joel, Westlife đã quyết định chơi trội khi mời hẳn siêu mẫu Claudia Schiffer về đóng MV ca khúc. Cô là một trong 5 siêu mẫu huyền thoại thập niên 90, cùng với Naomi Campbell, Linda Evangelista, Christy Turlington, Cindy Crawford.


Cover trong Glee

 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi

"Lettre à France" là đĩa đơn của ca sĩ người Pháp Michel Polnareff được phát hành năm 1977. Vào thời điểm đó, nghệ sĩ đã xa Pháp, sống ở California vì vấn đề tài chính kể từ năm 1973. Tiêu đề chính (có nghĩa là "Thư Pháp "bằng tiếng Anh) do đó là một lời than van đầy hoài niệm về đất nước của ông. Sau đó nhờ bán được 476.000 bản, thành công của bài hát cho phép Polnareff quay trở lại Pháp để giải quyết vấn đề thuế của mình (wiki)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Do It Again (cccm nghe mà không lắc lư thì ...^#(^)


"Do It Again" là một bài hát được sáng tác bởi Walter Becker và Donald Fagen, do nhóm nhạc rock Mỹ "Steely Dan" trình bày, được phát hành dưới dạng đĩa đơn từ album đầu tay năm 1972 của họ "Can't Buy a Thrill". Phát hành vào năm 1972, bài hát ra mắt trên Billboard Hot 100 vào ngày 18 tháng 11 năm 1972, và vươn tới vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng của Mỹ vào năm 1973, khiến nó trở thành single xếp hạng cao thứ hai của Steely Dan (wiki)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Brother Louie

"Brother Louie" là một bài hát về một mối tình đa chủng tộc. Bài hát được đặt tựa và được hát bởi Errol Brown và Anthony Wilson của nhóm Hot Chocolate, và đứng thứ 7 trong bảng xếp hạng Singles Anh cho ban nhạc năm 1973


Được cover bởi ban nhạc Mỹ "Stories" khoảng sáu tháng sau bài hit của Hot Chocolate ở Anh, và phiên bản của Stories đã đạt vị trí số 1 trên Billboard Hot 100 tại Mỹ và bán được hàng triệu bản và đạt danh hiệu gold disk


Cccm thích bản nào hơn?
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
Taka takata


"Taka takata" là một bài hát ban đầu được thu âm bởi Paco Paco, một ca sĩ người Tây Ban Nha sống ở Brussels. Bài hát được phát hành như một đĩa đơn vào năm 1972 và là một hit ở châu Âu. Trong cùng năm đó, bài hát đã được chuyển thể sang tiếng Pháp dưới tiêu đề "Taka takata (La femme du Toréro)" của Claude Lemesle và Richelle Dassin. Phiên bản tiếng Pháp được thu âm bởi Joe Dassin. Ông phát hành nó vào năm 1972 trên album Joe và một đĩa đơn. Đĩa đơn "Taka takata" của Joe Dassin xếp thứ 1 ở Phần Lan, thứ 9 ở Hy Lạp trong bảng xếp hạng đĩa đơn quốc tế , thứ 4 ở Pháp, Thụy Sĩ (wiki)
 

Hitchhiker

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-533741
Ngày cấp bằng
24/9/17
Số km
7,368
Động cơ
559,178 Mã lực
Nơi ở
Ha Noi
"Mambo Italiano" là một bài hát nổi tiếng được viết bởi Bob Merrill vào năm 1954 cho ca sĩ người Mỹ Rosemary Clooney. Merrill đã viết nó dưới thời hạn ghi âm, viết vội vã trên một khăn ăn giấy trong một nhà hàng Ý ở thành phố New York, và sau đó sử dụng điện thoại trả tiền để hát giai điệu, nhịp điệu và lời bài hát cho một nghệ sĩ dương cầm tại phòng thu. Bài hát của Merrill nhại rõ ràng nhạc mambo chính gốc, tận dụng cơn sốt mambo năm 1954 ở New York, đồng thời tạo bệ phóng cho tài năng thanh nhạc của Clooney. Đây cũng là một ví dụ về sáng tác theo một xu hướng bắt đầu trong Thế chiến II bởi ca sĩ nhạc jazz người Mỹ gốc Louis Prima, trong đó lời hát vô nghĩa với âm Ý - Mỹ được sử dụng để biếm họa một cách chụp mũ về của người Mỹ gốc Ý như một sắc dân dễ thương, hơi thô lỗ, yêu thích niềm vui. Mặc dù nền tảng gia đình của Clooney là người Mỹ gốc Ireland (trong khi Merrill là Do Thái), cô ấy có thể thực hiện âm "Ý hóa" với giọng hoàn toàn thuyết phục, bắt chước từ các nhạc sĩ người Mỹ gốc Ý và gia đình của họ

Bài hát đã trở thành hit cho Clooney, vươn tới vị trí thứ 10 trong bảng xếp hạng Billboard Hot 100 và đứng thứ nhất trong bảng xếp hạng Singles Anh vào đầu năm 1955


Cover quen thuộc của Bette Midler

 
Thông tin thớt
Đang tải
Top