Đúng là một vấn đề nhận được sự quan tâm của nhiều cụ, mợ, đấy là tín hiệu khá tích cực. Ở đây một số cụ, mợ có nêu mấy vấn đề có liên quan nhưng thực ra là mức độ và quy mô khác nhau. Em có vài ý kiến thế này:
1. Theo số liệu 2021 thì nước ta có 237 cơ sở giáo dục đại học (172 công lập với khoảng 1.450.000 người học và 65 ngoài công lập với khoảng 330.000 người học), như thế có thể thấy mặc dù về số lượng thì cơ sở đại học ngoài công lập chiếm tỷ lệ không quá ít, nhưng số người học thì ít hơn rất nhiều. Ở đây có nhiều lý do, trong đó có ảnh hưởng bởi sự phân bố ngành học và mức chi phí (học phí). Hầu hết (nếu không muốn nói là tất cả) các trường đại học ngoài công lập chỉ tập trung đào tạo một số ngành "hot" trong thời gian ngắn hạn, chứ không tham gia đào tạo các ngành mà xã hội tại thời điểm này ít quan tâm hơn, như một số ngành kỹ thuật, nhiều ngành xã hội,... (em nhấn mạnh "tại thời điểm này", có thể tính bằng 10-15 năm, nhưng sau thời gian này, rất có thể xã hội sẽ lại cần nguồn nhân lực trình độ cao ở lĩnh vực đó). Lý do này dễ hiểu từ sự đầu tư ngắn hạn của khối ngoài công lập, áp lực lợi nhuận,...
Đây là nội dung điều hành, quản lý, nhìn xa, nhìn trước của Nhà nước đối với khối trường đại học công lập. Cần có sự tính toán, đặt hàng, đi trước để đảm bảo 10 năm sau đất nước không bị động với nguồn nhân lực trình độ cao.
2. Về chuyện tự chủ đại học thì có nhiều chuyện để bàn, để nói. Trong tổng số 237, mới có 23 cơ sở GD đại học thực hiện thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động theo Nghị quyết 77, hiểu là thí điểm thực hiện tự chủ.
Bản thân nội hàm tự chủ đại học bao gồm rất nhiều khía cạnh, ít nhất là có 16 mảng việc tự chủ, trong đó tự chủ về nguồn thu chỉ là 1 mà thôi. Vì thế tự chủ đại học là vấn đề rất rộng, mà trong đó tự chủ nguồn thu chỉ là một mảng nhỏ, trong tự chủ nguồn thu thì tự chủ mức học phí lại là mảng nhỏ nữa...
Nói vậy để thống nhất với nhau rằng chuyện mức học phí là quan trọng, nhưng đừng đánh đồng điều này với "tự chủ nguồn thu", càng chưa đến mức "tự chủ tài chính" và chỉ là một mảng nhỏ trong cả vấn đề "tự chủ đại học".
3. Đồng ý với ý kiến của một số cụ, mợ rằng "tài chính" có ý nghĩa lớn đối với chất lượng đào tạo. Khi ra sân chơi sòng phẳng của thế giới, ta cần chấp nhận các điều kiện chung, mà ở đó việc "động viên", "ý chí", "đóng góp mà không đòi hỏi đãi ngộ tương xứng" sẽ không thể là động lực cho sự phát triển bền vững.
Việc đầu tư xứng đáng cho giáo dục nói chung, đào tạo đại học nói riêng là việc lớn của đất nước, cần có chính sách đúng, kế sách tốt và thể hiện bằng con số cụ thể, chứ cứ chỉ là 0.x phần trăm của ngân sách thì cơ bản sẽ chỉ là hô khẩu hiệu.
Nhiều phép so sánh là khập khiễng, mức nhu cầu-yêu cầu tại từng nước khác nhau, vì thế mức đầu tư ở ta và ở các nước phát triển khác nhau, nhưng khi chênh lệch đầu tư lớn đến con số hàng chục, hàng trăm lần thì không thể có chất lượng tương đương được.
Sự đầu tư này phải đến từ đặt hàng của Nhà nước, từ yêu cầu thực tế của doanh nghiệp,... chứ không thể và không nên trông chờ vào học phí.
4. Việc dừng tăng học phí đại học trong năm học này, theo em là phù hợp, khi chúng ta vừa trải qua đại dịch, kinh tế đang phục hồi dần dần. Sự chia sẻ này là cần thiết, chứ không chỉ mang tính dân túy như có cụ, mợ kết luận.
Với việc không tăng học phí trong năm nay, nhưng có thể tăng trong các năm tới, các trường đại học không quá bị hao hụt khoản thu từ học phí. Ở khía cạnh khác, các trường đại học phải có kế hoạch để chi tiêu hiệu quả hơn, đồng thời có kế hoạch tăng chất lượng đào tạo, đầu tư cho con người, đầu tư cơ sở vật chất,...ít nhất là tương ứng với mức tăng học phí trong những năm tới.
5. Trong 10 năm vừa qua, giáo dục đại học của ta có nhiều nốt lặng, cũng có không ít điểm sáng. Nhưng nếu cứ trông chờ vào học phí thì khó phát triển lắm...