Theo Toàn Thư, vào năm Giáp Dần (1374): “
[Tổ chức] thi Đình cho các Tiến sĩ. Ban cho Đào Sư Tích đỗ trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ bảng nhãn, Trần Đình Thám đỗ thám hoa, bọn La Tu đỗ hoàng giáp cập đệ và đồng cập đệ. Tất cả đều được ban yến và áo xếp, cho quan chức theo thứ bậc khác nhau. Dẫn ba vị đỗ đầu đi chơi phố 3 ngày. Theo lệ cũ: thái học sinh 7 năm thi một lần, chỉ lấy 30 người thôi. Thi trạng nguyên thì không có lệ định sẵn. Nhưng thuộc quan ở tam quán, thái học sinh, thị thần học sinh, tướng phủ học sinh và người có tước phẩm đều được vào thi cả.” (Toàn thư II, 168)
Xét bổ nhiệm tân khoa, Thượng hoàng kết luận trường hợp Ứng Long và người em cọc chèo Hán Anh như sau:
“Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám phạm thượng, bỏ không dùng”. (Toàn thư II, 183)
Qua bài “Thu trung bệnh”,
Lâm bệnh vào mùa thu, Ứng Long diễn tả thất vọng ê chề trước quyết định của Nghệ tông:
Lâm bệnh vào mùa thu
Gió bắt đầu vi vu chuyển hơi mát lạnh,
Trời đất chớm thu gợi tình nơi đất khách.
Người Tiến sĩ mới đỗ năm Long Khánh thứ hai,
Vốn là học trò cũ nơi Tam quán Kiều Tài.
Thân trẻ trung đâu dám phụ lòng Hàn Trung Hiến,
Nhiều bệnh thêm thương Mã Trưởng Khanh.
Mọi chuyện đều trái ý, đêm dài thêm mãi,
Mối buồn chất chứa, trằn trọc đếm mấy canh tàn.
Ông tiết lộ thân phận thuộc lại Tam quán lúc thi đỗ. Như vậy, Ứng Long tham gia hệ thống vương quyền từ trước khi dự thi.
Đây là khoa thi Thái Học sinh lần đầu tiên chuyển danh xưng thành Tiến sĩ, do Thượng Hoàng Nghệ Tông tổ chức tại cung Thiên Trường (nay thuộc Nam Định). Triều đình thực hiện khảo thí đồng bộ với hàng loạt công việc qui mô khác như quyên thóc, thi lại viên, tu sửa thuyền chiến, tuyển đinh, đào kênh ở Thanh Nghệ, chọn võ quan…. Tất cả đều hướng về chiến dịch trừng phạt Chiêm Thành.
Bị từ chối bổ dụng, Ứng Long đã phụ lòng mong mỏi của nhạc phụ dù tai vạ xảy ra ngoài cả ý muốn lẫn khả năng vượt qua của Ông. Lúc này, nhà thơ mới 19 tuổi. Hành động của Thượng hoàng vô tình biến Ứng Long thành một người bi quan, thiếu tự tin: cá tính khiến Ông gặp nhiều trở ngại trên đường đời.
Số phận Hán Anh không khá hơn. Ứng Long tiễn Thái học sinh Hán Anh đi Hồng châu, nghĩa là, vị Tiến sĩ mới chưa có chức vụ gì, phải về quê chờ thời
Tiễn Thái học sinh Nguyễn Hán Anh về Hồng Châu
Đêm qua còn lật đật chuyện trò dưới ánh đèn,
Sáng nay đã lên ngựa vượt gió sớm.
Mắt trông ngóng chỉ canh cánh nhìn lên cửa khuyết phía bắc.
Lòng muốn về thà gửi nơi khe nước miền đông.
Trăng sáng sân hòe, tội nghiệp chim thước còn đậu,
Trời thu cao trên bờ lau, nhớ cánh hồng biệt dạng.
Nếp trắng tinh, chanh thơm ngát, rượu quê vừa tới,
Thương tôi dấu chân cô độc lấm bụi trần.
Câu 3 thể hiện lòng trông ngóng phân bổ nhiệm vụ từ nhà vua. Nguyên Đán có thể đã giữ Ứng Long lại vì đang tìm cơ hội cho chàng. Thân phận Ứng Long dù sao vẫn dễ chịu hơn tình cảnh người em đồng hao. Tuy vậy, Ông khốn khổ chờ đợi mệnh vua đến nỗi thấy về quê vẫn thích hơn. Câu 5 tội nghiệp chính mình, câu 6 nhớ bạn, nhưng Ông thương thân nhiều hơn thương tri kỷ. Không biết nếp, chanh, rượu có làm dịu lòng Hán Anh? Riêng Ứng Long ca ngợi thú quê mùa nhưng thừa nhận vẫn mong danh vọng.
Cuộc chiến gia nhập quan trường tạo cảm giác như xông trận, Ứng Long tự so mình với chim hồng bay trên quan ải khi nằm chờ việc tại nhà vợ như sau:
Ngày thu gợi cảm hứng
Gối khách nơi đình hòe, lại làm thân chim hồng biên ải,
Tóc mai nhà thơ như sương, muốn rối như cỏ bồng,
Ngoài cửa khép, mưa suốt ngày kéo dài vạn dặm,
Gió thu đưa lá rụng bay qua trước mắt.
Thây kệ người với tình đời mỏng như quạt lụa,
Nỗi buồn không tên xui ta luôn cạn chén.
Nằm bên cửa sổ phía tây, vừa trọn giấc ngủ đầy,
Lại ngâm nga thơ mới dạy chú tiểu đồng.
Bài thơ có gần đủ các yếu tố buồn như “vạn lý”, “lạc diệp”, “thu”, “khách”… trong bài “Đăng cao 登高” của Đỗ Phủ. Khác một điều là Ứng Long luôn cạn chén còn cụ Đỗ không dám đụng đến rượu do bệnh tật.
Ba chữ “phế bất dụng” gãy gọn dẫn người đời sau lầm lạc. Nghệ tông bác bỏ chức vụ xứng đáng cho Ứng Long, nhưng Nguyên Đán vẫn đưa vị Tiến sĩ trẻ vào Trung Thư sảnh, cơ quan đầu não do quan Tư Đồ điều khiển. Theo định chế Hoa Hạ, từ đời Tùy, Nội Sử (tức Trung Thư) chịu trách nhiệm trù hoạch chính sách, soạn thảo văn thư cho hoàng đế;
Lê Tư Nguyễn Phi Khanh (1355 – 1428?) quê thôn Chi Ngại (thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nay), trú làng Nhị Khê (thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội nay). Dưới triều Trần, Phi Khanh tên Ứng Long. T…
www.google.com