Nhà Rothschild bảo họ là Do Thái, thực ra họ là dân Khazar. Nguyên quán của họ là Khazaria, một quốc gia kẹp giữa Hắc Hải và Lý Hải phần lớn ngày nay là Georgia. Họ tự nhận là Do Thái vì người Khazar theo chỉ thị của Vua theo tín ngưỡng Do Thái từ năm 740, nhưng dĩ nhiên họ không thể hoán chuyển các gene Mông Cổ Á Châu của họ thành các gene Do Thái.
Khoảng 90% người trên thế giới tự xưng là Do Thái thực ra là người Khazar, hoặc như họ thích được gọi hơn, là người Do Thái Ashkenazi. Những người này nói láo với thế giới rằng đất Israel là của họ vì quyền cố hương (birthright), trong khi thực tế quê hương đích thực của họ ở cách trên 800 dặm, mãi tận Georgia (The History of the House of Rothschild).
Triều đại thứ 9 (717-802) gọi là triều đại Isaurian (717-802) do hoàng đế Leo III (685-741) còn gọi là Leo the Isaurian (Isauria là Syria ngày nay) thành lập, tháng 8.720 cho thái tử (718-775) tham chính. Thái tử sau thành hoàng đế Constantine V (741-775). Sau khi quân Khazar chiến thắng Ả Rập, để làm thân, Leo III cầu hôn cho thái tử lúc ấy mới 14 tuổi cưới công chúa Tzitzak con của đại hãn (khagan) Khazar của Bihar, xứ rộng nhất và đông dân nhất ở miền đông Ấn Độ có con sông Hằng chảy qua, gồm những xứ Đức Phật Thích Ca từng sinh sống như Anga, Videha, Magadha, Vaishali. Áo cưới của cô dâu sau thành thời trang cho nam tử Constantinople mang tên
tzitzakion. Năm 732 Tzitzak đổi tên là Irene (nghĩa là Hòa Bình). Con của họ sinh năm 750 lên ngôi hoàng đế hiệu là Leo IV (775-780) biệt hiệu là Leo người Khazar.
Như vậy trễ nhất là vào tk VIII dân tộc Khazar đã có chứng tích trong lịch sử. Nguyên thủy người Khazar theo Shamanism Tengri (**), sau vì bị đế quốc Byzantine ép theo Công giáo và các vương quốc Ả Rập ép theo Hồi giáo, đến tk VIII hay IX, để tìm một lối thoát cho cảnh một cổ đôi tròng này, họ chọn một giải pháp hay nhất là không theo cả Công giáo lẫn Hồi giáo mà theo Do Thái giáo, lấy nó làm quốc giáo.
Giữa 965 và 969 họ bị nhiều dân tộc khác như Rus, Kipchak và cuối cùng là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan: 1162-1227) tiêu diệt gần hết, nay không còn là một chủng tộc có văn hóa riêng biệt nữa.
Số còn sót chạy lên Ba Lan qua Ukraine thành cái nôi của Do Thái Tây phương, một tạp chủng Mông, Hung, Thổ (Duy Ngô Nhĩ và Magyar) tự nhận là Do Thái Ashkenazi nghĩa là Do Thái Nhật Nhĩ Man (Ashkanaz = germanic), định cư dọc sông Rhine từ Alsace ngược lên. Từ ngữ Ashkenazi dẫn xuất từ khóm chữ Hi Bá Lai “nusach Ashkenz” nghĩa là lễ chế cổ truyền (nusach) của người Do Thái Ashkenazi ghi trong sách kinh (siddur) của họ. Vào đầu tk XII, họ thành những gia đình thế lực nhất tại Ý, Đức, Thụy Sĩ, Anh, Hòa Lan, Hy Lạp. Từ tk XI đến tk XIX một số khác đến sinh sống tại Tây Âu, Hung Gia Lợi, Ba Lan, Belarus, Lithuania, Ukraine và Nga. Tại Nga cộng đồng Khazar chiếm một vùng rộng ngang với Thụy Sĩ ở Birobidjan, phía đông Tây Bá Lợi Á, bao bọc bởi con sông Ô Hứa A Mẫu Hà (Amur Darya), Tàu và Mông Cổ, năm 1934 được Liên Bang Xô Viết công nhận là Khu Tự Trị (Okrug) Birobidjan Yevrei, nói tiếng Yiddish, một thứ Đức ngữ pha tiếng Hi Bá Lai, do đó tính chất DT Ashkenazi gọi là
Yiddishkeit. Dĩ nhiên họ nói cả tiếng Nga.
Một số khác chạy sang Tây Ban Nha định cư đến tk XV bị trục xuất và tản mát sinh sống tại các quốc gia ven bờ Địa Trung Hải, vùng Ba Nhĩ Cán (Balkan) và Tây Âu. Họ nói thứ tiếng Tây Ban Nha lai Hi Bá Lai gọi là Ladino, vẩn giữ phong tục tập quán và nghi thức tôn giáo của họ. Một ngành Khazar di cư sang Tàu và Nhật.
Trong Giáo Hội La Mã, các Giáo hoàng Nhà Medici, Giovanni di Lorenzo de Medici (Leo X: 1513-1521) và Giulio di Medici, (Clement VII: 1523-1534) là Khazar. Có nguồn tin cho rắng các Giáo hoàng Pius XII (1939-1958) và John Paul II cũng là Khazar nhưng không được xác định.