[Funland] Một thời Rừng Sác! - Đại tá Lê Bá Ước. (Đặc công rừng Sác)

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
CÂU CHUYỆN MỘT GIA ĐÌNH

Một đêm ba mươi trời tối đen như mực, lâu lâu một tiếng súng nổ lạc lõng từ bót phân, chi khu trên cầu Quán Chim. Cả ấp chiến lược chìm sâu trong giấc ngủ đầy nỗi lo âu trong bộ máy kềm kẹp và hàng rào kẽm gai của Mỹ - nguỵ, bỗng một phát pháo sáng loé lên từ hướng chi khu Long Thành. Trong ánh lửa chập chờn, nhận rõ hai chiếc ghe chèo đang nép mình bên bụi đước vàm Phước Thái. Tuyết Vân, người lính hậu cần nhanh tay bế cháu bé Lê Toàn Thắng vừa mới sinh được 15 ngày mà đã hai lần phải tắm mình dưới sông nước mặn tránh phi pháo, đặt vào chiếc thúng giữa ghe đậy lại bằng tấm lưới đăng. Ngồi trước mũi là người mẹ Nguyễn Kim Mến, đại đội phó quân y Đoàn 10, đầu đội khăn rằn tay cầm dầm ngoảnh lại nhìn đứa con trai đang yên giấc nằm gọn trong thúng sau lần cho bú cuối cùng. Đại đội trưởng trinh sát Phạm Kế Tiếp hai tay cầm chèo đang khom người sau lái là chồng của Tuyết Vân hôm nay cùng tổ trinh sát đưa đứa bé vào ấp chiến lược gởi cho ông Bảy đóng ghe, một cơ sở chí cốt của đặc côn Rừng Sác, nhà nằm sát mép nước bến Hồ Nam. Không còn cách nào khác hơn, bởi nơi chiến trường sông nước này sau tấn công Mậu Thân 68, địch tập trung phản kích ác liệt cả ngày lẫn đêm, hầu như không lúc nào ngớt tiếng gầm rú của động cơ máy bay, tàu chiến, bom đạn. Không còn một căn cứ nào an toàn, cả đơn vị phải lo dốc sức đối phó.
Lê Bảy kề tai dặn nhỏ Tám Tiếp:
- Chú Tám giúp anh cùng chị đưa cháu vào gởi trong ấp, mọi việc đã bàn với ông Bảy. Chờ nước lớn, lách qua tắc tránh Vịnh Cây Trường địch thường hay phục kích, coi chừng cháu khóc lộ đường đi.
Vẫn nét mặt vui tươi bình thản của anh lính trinh sát như khi bước vào trận chiến, Tám Tiếp nói vui:
- Anh Bảy yên chí, em bảo đảm cùng chị lo an toàn cho thằng “Việt C ộng con” này, đột nhập gài sâu ém sẵn vào lòng địch, chờ ngày nổ súng…
Mái chèo nhẹ nhàng lướt đi để lại phía sau từng vệt ánh sao lấp lánh trên mặt nước, trông vui mắt. Họ mất hút vào đêm đen sau đó vài phút.
Thế rồi ba tháng sau, thằng bé cứ lớn lên như thổi. Một sáng lành lạnh gió đông, ông nội nuôi sai cô Bảy Lợi theo ghe lưới đem ra rừng chiếc ảnh màu mới chụp với đôi mắt tròn xoe bụ bẫm ngồi dựa lưng vào ghế mây. Các cô chú Giải Phóng chuyền tay nhau xem gần khắp cả, Ban Hậu cần đóng quân bên bờ sông Thị Vải trầm trồ thèm khát được một lần hôn lên đôi má thằng bé thơm sữa đang sống trong vòng tay của gia đình cơ sở.
Lúc này Kim Mến đang lo chăm sóc thương bệnh binh ở trạm xá tại tắc Kỳ Quang, chỉ cách xa căn cứ vài trăm mét thì một chiếc trực thăng Ong Ruồi loại OV6 rà sát đọt cây phát hiện căn cứ, nện ngay hai quả pháo màu chỉ điểm. Biết là tình huống nguy hiểm sẽ xảy ra, chị liền điều động sơ tán hết thương binh ra xa. Lập tức từng cặp cá lẹp trực thăng phóng pháo lao tới… Oàng đùng… Oàng đùng… hoả tiễn 90 ly nổ tung, mịt mù khói lửa. Người nữ quân y sỹ trúng đạn nằm sóng soài trên mặt sình lầy khét lẹt thuốc súng. Một chân chị gãy lìa, dập nát, trên vai vẫn còn mang nặng túi cứu thương với khăn rằn quấn cổ. Chiếc ba lô tung toé, áo quần bay dính lên ngọn mắm, vẫn còn nhận rõ mấy mặt áo gối với đường kim mũi chỉ thật khéo tay mà chị đã tranh thủ may thêu với niềm hy vọng ngày về trao tặng ba đứa con thơ. Chị quê ở tận huyện Gò Quao, tỉnh Rạch Giá, tập kết ra Bắc rồi vượt Truờng Sơn về Nam năm 1967. Từ R được chị Ba Định – Phó Tư lịnh Quân Giải phóng Miền, ký quyết định điều về phục vụ tại trung đoàn 10 đặc công. Chị hy sinh đúng ngày 20 tháng 01 năm 1970 trong lúc tấm hình đứa con trai yêu quý vừa mới lọt lòng đã phải xa mẹ, chưa đến được tay chị. Đứa bé cũng chẳng bao giờ được nhìn thấy mặt mẹ từ đây…
Thuỷ triều cứ ngày hai buổi xuống, lên. Địch vẫn tăng cường chà xát quyết liệt hòng trục lực lượng “đặc công nguy hiểm” ra khỏi địa bàn. Nhưng tàu vận tải quân sự trên sông Lòng Tàu vẫn chìm tại bến cảng, kho xăng bốc lửa, kho đạn nổ tung… người này ngã xuống người khác tiếp tục lao lên phía trước…
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Hơn một năm sau đúng vào ngày 19 tháng 5, đại đội 12 hành quân tác chiến bằng xuồng lên tuyến Phú Hữu khi qua ngang Rạch Lá – Ông Kèo đụng địch phục kích án ngữ. Hai bên nổ súng dữ dội mấy phút, người đại đội trưởng Tám Tiếp trúng đạn ngã xuống dòng rạch cùng với mấy chiến sỹ bị thương trong tiếng pháo đạn chát chúa, tiếng máy bay tiếp viện vang động một vùng. Anh là con đồng chí bí thư Chi bộ xã Mỹ Lộc, huyện Cái Ngang, tỉnh Vĩnh Long. Người bí thư đã lãnh đạo khởi nghĩa 1940, bị Pháp bắt đi tù Côn Đảo khi Tám Tiếp vừa mới sinh được ba ngày, phải nằm với mẹ ngoài chuồng trâu, sau nhờ ông cậu nuôi dưỡng, đưa đi tập kết năm 54 cùng vượt Trường Sơn với Lê Bảy nay lại tiếp tục ra đi. Trong lúc này thì Tuyết Vân ở trạm xá đang chuyển bụng và một thằng bé trai ra đời đúng vào cái ngày mà cha nó hy sinh. Lê Bảy nhận được báo cáo, nổ máy đuôi tôm chạy xuôi xuống Bàn Thạch nơi đơn vị quân y đang đóng cùng với quân y sỹ Hai Diệp yên lặng đứng nhìn người mẹ đang mệt mỏi nằm thiêm thiếp chờ đợi chồng về để cùng đặt tên cho con. Anh em bàn với nhau đừng vội đưa tin dữ này đến sản phụ, đợi một ngày nào thuận lợi hơn.
Vài năm sau, cái gì đến rồi nó cũng đi qua theo thời gian. Trong hai cặp vợ chồng cùng là đồng đội, đồng chí ở Rừng Sác đã gãy mất một cành để lại mỗi bên 3 đứa con. Đứa thì cha hy sinh và đứa thì mẹ là liệt sỹ. Họ tìm gặp nhau trong cùng cảnh ngộ, xác định cùng nhau gánh vác trách nhiệm thay người đã mất khi hết chiến tranh, tuy trong lửa đạn ác liệt tình yêu của đôi trái tim còn lại vẫn nảy nở cùng nhịp đập và sau một bữa cơm thân mật trước mặt mươi anh chị em đơn vị trên chiếc sạp đước nơi Rừng Sác, anh em vui vẻ đọc lên vần thơ kháng chiến trở thành ca dao: “Thủ trưởng nhìn em thủ trưởng cười. Em xin đồng ý thủ trưởng ơi…” một sự lắp ghép mới vào mái ấm của tình thương trong chiến tranh. Đơn giản mà sâu nặng nghĩa tình.
Sau khi giải phóng miền Nam, Lê Bảy thường nói vui: “Thằng Mỹ rút quân còn mình thì phải đi gom quân…” Anh bay ra Hà Nội đón hai đứa con cùng Kim Mến. Xuống Quán Chim, qua Cần Giuộc vào Sài Gòn… tìm gom tất cả 6 con liệt sỹ mà ba của chung từng gởi cơ sở gia đình nuôi khi còn chiến tranh về chung sống trong một tổ ấm bao gồm ba phe, hai phái có con của anh, con của em và con của chúng ta. Tuyết Vân là một thương binh tự nguyện sớm phục viên ở nhà chăm lo gánh vác mọi bề nội trợ để cho chồng mình cùng với con gái, con rể, con trai tự nguyện tham gia trong quân ngũ ra biên giới phía Tây Nam thoe yêu cầu của Tổ Quốc. Chỉ bằng đồng lương sỹ quan cùng khoản trợ cấp chính sách khiêm tốn thời kỳ bao cấp, lại được anh em bạn bè hỗ trợ, còn chủ yếu là chăn nuôi, hai vợ chồng cố gắng xoay xở nuôi dưỡng bầy con 9 đứa khôn lớn dần với thời gian, được học hành chu đáo, tạo công ăn việc làm và dựng vợ gả chồng, cháu nội cháu ngoại nối nhau ra đời… Một ngày 27 tháng 7, Tuyết Vân ra dự lễ ngoài phường về đưa cho chồng hai chiếc bánh bao “Đây là tiêu chuẩn thêm cho hai liệt sỹ, mà mình giờ đến ba đứa cháu nhỏ hơi khó chia”.
17 năm sau giải phóng Lê Bảy mới tìm được liên lạc với bên nội gia đình ruột Tám Tiếp vì hoàn cảnh ly tán thất lạc của chiến tranh, bà nội 86 tuổi vẫn còn sống tỉnh táo, một sự trùng hợp khá lý thú là cứ hàng năm vào ngày 12 tháng 2 âm lịch thì phía cầu Ông Thìn, Long An bà ngoại ra nghĩa trang cúng cơm ông ngoại liệt sỹ đánh Pháp, còn ở cầu Chà Và, bà nội làm mâm cơm giỗ ông nội hy sinh nằm ngoài Côn Đảo, hai người chết khác năm lại cùng ngày cùng tháng, thế mà hai bà xuôi gia chỉ cách nhau vài mươi cây số mấy chục năm qua nay mới mừng mừng tủi tủi gặp lại nhau. Đón bà nội lên nhà nhân ngày giỗ Tám Tiếp, bà ôm đầu Lê Bảy kề má nhăn nheo qua nước mắt chỉ nói được một câu:
- Giờ con thay thằng Tám của má, con là con ruột của má...
Cậu Sáu, nguyên là cán bộ Quốc gia Tự vệ cuộc thời 45 nay 76 tuổi đã nuôi dạy Tám Tiếp lúc nhỏ, chậm rãi phát biểu mấy câu đầy ý nghĩa:
- Cậu mới đến nhà 2 cháu lần đầu, xin có 3 nhận xét. Một là, là người chỉ huy mà cháu thuỷ chung lập bàn thờ hơn 800 chiến hữu của mình điều này rất quý. Hai là, nhìn lên bằng Tổ quốc Ghi Công của Tám Tiếp thấy nhiều bụi màng nhện đóng, chứng tỏ tuy chưa tìm được bên nội mà hai cháu vẫn cho con thờ cúng từ lâu nay. Ba là, tên họ mấy đứa nhỏ trong khai sanh lấy hai họ Lê Phạm ghép lại để nhớ gốc gia tộc, cậu xin cám ơn và hoan nghênh hai cháu, đứa cháu dâu và cháu dượng...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Cả nhà vui mừng cảm động khi thấy được bằng Bà mẹ Việt Nam Anh Hùng Trần Thị Bích, tiêu chuẩn của 3 liệt sỹ, chồng hy sinh ngoài Côn Đảo năm 1942, người con thứ tư tập kết về bị Mỹ bắn tại Tây Ninh năm 1970 và Tám Tiếp con trai út ra đi năm 1972 tại Rừng Sác. Trong sự mất mát đau thương đó, con cháu vẫn thấy được niềm vinh hạnh lớn lao. Sau này, vợ chồng Lê Bảy và các con thường xuyên đến thăm nom bà nội ở Sài Gòn.
Một hôm từ Kiên Giang phía bên ngoại chỉ còn duy nhất cậu Chín Lộc du kích xã Vĩnh Hoà Hưng bị Mỹ bắt trong chiến đấu làm tù binh trại Phú Quốc sau được trao trả ở Thạch Hãn, khi ra miền Bắc, cậu hỏi thăm khắp nơi hi vọng tìm thấy người chị thứ Tư đi tập kết, nhưng anh có biết đâu Kim Mến đã cùng đồng đội vượt Trường Sơn về Nam và đã anh dũng hy sinh tại Rừng Sác. Cậu Chín bùi ngùi lặng lẽ và rất đỗi tự hào, lấy từ trong cặp ra trình cùng con cháu trong gia tộc bằng Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng, bà Nguyễn Thị Nhiễm là bà ngoại của 4 liệt sỹ, người anh thứ 2, chị Tư Mến, người anh thứ năm và đứa em trai út. Riêng người anh thứ hai, huyện uỷ viên bị giặc mổ bụng thả trôi sông Cái Đước, Giồng Riềng không còn xác.
Vậy là trên bàn thờ gia đình Lê Bảy, dưới chân dung Bác Hồ lồng kính có viết hai chữ nho sơn vàng “TRUNG, HIẾU” làm nội dung giáo dục truyền thống cho cháu con, hình ảnh ông bà nội ngoại, hai bên hai bằng Tổ quốc ghi công có ảnh Tư Mến, Tám Tiếp, bây giờ lại được thêm hai bằng Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng, qua hương khói nghi ngút trong ánh mắt sâu lắng của cháu con ẩn hiện hình bóng của tám liệt sỹ, những giòng máu trong gia tộc đã đổ ra trong chiến đấu hoà cùng sự nghiệp chung.
Cứ mỗi lần đám giỗ, đại tá Lê Bảy vị sỹ quan về hưu với mái đầu bạc trắng ngồi nhấp cốc rượu nồng cho vơi bớt nhớ thương bùi ngùi, kể lại câu chuyện hy sinh từng người cho gia đình nghe và đi đến kết luận là cha ông đã làm tròn đạo hiếu trung, giờ đây con cháu phải trọn nghĩa trung hiếu.
Trong mùa tuyển quân năm 1990, Lê Bảy gọi Lê Phạm Dũng ra ngồi đối diện, chậm rãi nói cho con nghe:
- Theo luật định thì con được miễn dđ nghĩa vụ qu ân sự vì đã có 2 năm học thiếu sinh quân, nhưng theo nguyện vọng của con và gia đình, cô chú ở phường đã lập danh sách, mà dã đi thì không phải chỉ hai năm trở về, sau huấn luyện sẽ bổ sung vào lực lượng công an tự nguyện cống hiến lâu dài cho sự nghiệp bảo vệ đất nước. Con suy nghĩ kỹ chưa?
- Thưa ba, con đã nghĩ kỹ, xin hứa làm theo lời ba.
Lê Bảy đưa ống quẹt ga và nói:
- Con vào đốt nén nhang hứa hẹn trước bàn thờ liệt sỹ, ba ruột của con, nhớ ngày 19 tháng 5 với nhiều ý nghĩa, ngày sinh của con và ngày tử của cha.
Phấn đấu mấy năm liền hiện nay Phạm Dũng đang làm nhiệm vụ ở huyện Nhơn Trạch trên mảnh đất mà Tám Tiếp đã vĩnh viễn nằm xuống trong sự đùm bọc yêu thương của cô chú và đặc biệt có tấm lòng của má Hai Điệp, Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc huyện, nguyên là mẹ nuôi lúc chị làm cơ sở biệt động đặc công của Rừng Sác tại thị trấn Long Thành. Chị bị địch bắt đày đi Côn Đảo đến khi giải phóng 30 tháng 4 mới được trở về. Một phụ nữ khi rất trẻ đã cực khổ bồng bế đứa con của liệt sỹ khi còn chiến tranh.
Và tiếp theo, một hôm Lê Toàn Thắng đứa bé ra đời đã mồ côi mẹ tại Rừng Sác nay tốt nghiệp Đài trưởng Hàng Hải đến thỏ thẻ với ba:
- Thưa ba nay con đã khôn lớn, giờ xin việc làm cũng khó, xuống tàu viễn dương thì gia đình ta không có khả năng chạy... Vậy ba cho phép con tự nguyện xin vào lực lượng Công an đường thuỷ, sẽ phát huy nghề nghiệp mình hơn.
- Ba rất tán thành nơi đây con có điều kiện cống hiến nhưng phải hiểu, vào làm lính lực luợng võ trang thì gian khổ đó, lương bổng chẳng là bao, nhưng con sẽ có dịp trở về dòng sông Thị Vải nơi mẹ ruột con đã nằm xuống dưới gốc đước ở tắc Kỳ Quang. Nhiệt tình tuổi trẻ phải biết hoà cùng dòng máu người mẹ và cô chú đã hy sinh trên sông nước Rừng Sác.
Hiện nay Thắng và Dũng đang phấn đấu từng bước trưởng thành trong vai người lính công an bảo vệ đất nước thời bình và cũng vừa được kết nạp vào Đ ảng c ộng sản Việt Nam.
Điểm lại trong cái tổ ấm bé nhỏ này đã kinh qua cuộc chiến tranh gần nửa thế kỷ, Lê Bảy với Tuyết Vân là hai thương binh còn đang sống, nhận hưởng được vinh dự của hai Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng nội ngoại, trong sự ra đi mất mát của tám người thân. Nhưng hiện nay tất cả dâu, rể, gái, trai đều đang theo con đường của người đi trước từng bước trưởng thành. Có hai sỹ quan dự bị, hai sỹ quan công an, hai bác sỹ, một thiếu tá, mười người đã qua được trình độ tú tai, cử nhân. Sinh sôi nảy nở thêm được tám cháu nội, ngoại thì rõ ràng trong sự hy sinh mất mát phải chấp nhận đó vẫn thấy phần được lại cũng khá nhiều. Tuy họ khó có thể trở nên giàu có, nhưng họ sống với đồng lương, bằng trí tuệ và lao động chân chính của mình thất thảnh thơi trong niềm tự hào to lớn của dòng tộc. Họ động viên dìu dắt lẫn nhau để phấn đấu xứng đáng với người đã khuất.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
TẠI BẾN GÒ DẦU
Chiếc xuồng lường chạy máy đuôi tôm từ phía hạ lưu sông Thị Vải ngược nước rẽ sóng về phía vàm Phước Thái. Ngồi trước mũi xuồng là Lê Bảy người chỉ huy Đoàn 10 đặc công rừng Sác cải trang bằng chiếc áo lính nguỵ cũ mèm, đầu quấn khăn rằn giả làm ngư dân đánh cá, một cuộn lưới nằm giữa, sau lái là Biên, chiến sỹ bảo vệ đầu đội chiếc nón bắt cua, miệng ngậm điếu thuốc rê Bàu Hàm to tướng đang cầm lái, nổ máy chạy đều đều. Ghe vừa áp sát bến Gò Dầu thì đã thấy thấp thoáng trên bờ có hai người đang trò chuyện, họ vẫy tay gọi:
- Ông chài ơi, có cá không ghé mua một mớ.
Người vừa lên tiếng là ông Phạm Mỹ một trí thức tư sản, giám đốc một xí nghiệp ống cống ở Thủ Đức, hoạt động trong lực lượng thứ ba ở Sài Gòn. Nước da ông ngăm đen, đầu hói cao, thân hình vạm vỡ, lúc nào trên môi cũng có điếu thuốc lá con mèo loại mười điếu. Ông lại là một cơ sở biệt động nội thành của Đoàn 10, theo hẹn hôm nay đưa nhân vật cao cấp trong nguỵ quyền Sài Gòn ra để Lê Bảy có dịp tiếp xúc thăm hỏi.
Anh ngư dân Lê Bảy cột chặt dây mũi, bước đến bắt tay luật sư Trần Ngọc Liễng, người có dáng dấp to cao khoẻ mạnh, niềm nở, cổ đeo chiếc huy hiệu dây chuyền vàng, đương là nghị sĩ Quốc hội thời Nguyễn Văn Thiệu làm tổng thống. Được biết ông ta có nhiều cảm tình với phía bên trong, theo như sự giới thiệu của ông Phan Mỹ.
Sau mấy câu chào hỏi xã giao, Lê Bảy đi thẳng vào câu chuyện:
- Thưa ông, ông có biết chúng ta đang đứng ở đây là đâu không?
- Đây là Gò Dầu xã Thái Thiện, trên đường đi nghỉ mát Vũng Tàu, có dịp tôi rẽ qua, thật là một khu vực trống trải do hậu quả chiến tranh. Sự tàn phá của chất độc hoá học nên không còn cây cỏ gì cả. Ông Liễng nói.
- Vâng thưa ông, trải qua cuộc chiến tranh dai dẳng, ở địa điểm này diễn biến một quá trình lịch sử mà người Việt Nam chúng ta ai cũng biết, trong thế chiến hai phát xít Nhật đã có mặt ở đây, lập sân bay dã chiến Phước Biên(Lê Bảy đưa tay chỉ phía trước mặt) và cũng đã rút chạy sau khi thua quân Đồng Minh.Qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, giặc Pháp thua trận cũng đã xuống tàu tại đây. Lực lượng Việt Minh từ Gò Dầu qua Cắp-xanh-jắc tập kết ra Bắc, đặc biệt quân đội của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ không thắng được bằng chiến tranh cục bộ, buộc phải xuống thang rút lui trong danh dự, thực hiện nguỵ hoá cuộc chiến, cũng phải tập kết lực lượng gồm sư Anh Cả Đỏ, lữ Kỵ Binh Bay...để xuống tàu ra biển tại đây. Hôm nay tôi và ông, chúng ta là người Việt Nam vẫn sống còn, được gặp nhau ở đây.
Đến lúc này có lẽ ngài nghị sỹ quốc hội đã biết quá rõ người đối diện không phải là anh ngư dân chân lấm tay bùn nữa, ông vui vẻ gợi chuyện.
- Tháng rồi các ông diệt gọn một đại đội ông Thiệu ở Đất Đỏ hay quá
- Thưa ông, sự thực nếu chúng tôi diệt được một tên xâm lược thôi, mà cô bác nội thành có lời khen ngợi thì xin nhận. Còn diệt một đại đội nguỵ Sài Gòn là điều vạn bất đắc dĩ. Chúng tôi thấy rất đau lòng trong âm mưu thay màu da trên xác chết của Mỹ.
Ông Liễng mỉm cười, gật đầu biểu thị sự đồng tình, nói tiếp:
- Vừa qua ông có theo dõi sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm được trao trả ở Lộc Ninh ? Anh ta không quay lưng đi luôn, mà quay mặt đòi được trở về Sài Gòn thì quả rất hay.
Lê Bảy cảm thấy lòng mình vui vui, vì nhớ tới trước đây bà Tư Kiểng vợ của giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, một cơ sở của trung đoàn từ nội thành ra báo cáo tình hình có nói "Đề nghị các anh cho ý kiến, Huỳnh Tấn Mẫm nên xử trí thế nào khi được trao trả tại Lộc Ninh sắp tới?". Không còn thời gian để xin ý kiến cấp trên, nên Lê Bảy đã mạnh dạn chỉ đạo:" anh Mẫm cần phải quay lại Sài Gòn vì Mỹ-nguỵ bắt lúc anh là sinh viên đấu tranh cho hoà bình của đất nước chớ không phải là Việt Cộng. Phải đòi trở lại với phong trào sinh viên". Nay được một thông tin để kiểm nghiệm lại ý kiến đề xuất của mình, Lê Bảy vui vẻ nói:
- Sinh viên Huỳnh Tấn Mẫm xử trí vậy rất đạo lý, anh được trở về trong vòng tay của sinh viên và nhân dân Sài Gòn-Gia Định là phải
Tiếp tục chuyện trò thân mật và sau cuộc gặp gỡ để tìm hiểu nhau, họ chia tay với niềm suy tư riêng của mỗi người trong cuộc. Lúc này ông Phan Mỹ đã ngồi vào tay lái, lòn tay đưa cho Lê Bảy mảnh giấy ghi vội mấy dòng: " 10 giờ ngày đưa ông Táo về trời, tôi sẽ chuyển ít quà của bà con nội thành gởi các anh. Đón tôi tại đây".
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Hôm nay gió bấc lành lạnh thổi, ở Sở chỉ huy trung đoàn đóng tại Tắc Trũng một vùng rừng lõm chằng chịt rễ đước, cuộc hội nghị tổng kết tất niên, chuẩn bị cho phương án tác chiến sắp tới, hơn 50 cán bộ đại đội, tiểu đoàn từ Cần Giờ xa xôi cách trở,từ Ông Kèo, Cát Lái..lội sông, chèo xuồng, cắt rừng, nổ máy về dự đông vui đầy đủ, với nét mặt mọi người rạng rỡ hẳn lên sau một loạt trận đánh thắng vang dội ở rừng Sác. Chuẩn bị khai mạc hội nghị, chủ nhiệm hậu cần Cù Bạch Yến đến gặp Lê Bảy:
- Xin báo cáo với anh, tối qua đơn vị đi chài và đăng cá được vài chục ký, bà con trong ấp gởi ra chục cân thịt, rau cỏ nhưng còn thấy hẻo quá, đề nghị anh cho xuất chi thêm tiêu chuẩn để anh em ăn Tết luôn.
Lê Bảy suy nghĩ một chút rồi chậm rãi nói:
- Tạm vậy thôi anh Ba, tiền qũy đơn vị còn ít, phải tập trung cho kế hoạch tác chiến sau Tết rất căng thẳng, nguồn tài chính trên R rót xuống chưa kịp.
Nói vậy chớ trong bụng anh cũng đã có dự tính một bài toán mà chưa dám công bố còn đang giữ kín, e rằng có trục trặc kỹ thuật. Đến 8 giờ, anh nói:
- Anh Sáu Tao, trung đoàn phó thay tôi điều khiển hội nghị, tôi xin vắng mặt một lát có việc gấp.
Thế là anh xuống ngay chiếc ghe máy chỉ huy trực tiếp cầm tay lái, ngồi trước mũi là Tư Tiên Phó ban hậu cần, rẽ nước lao lên Gò Dầu. Từ xa đã thấy chiếc xe Jeep ca bô cao, sơn màu trắng của Phan Mỹ, mũi ghe vừa cặp sát mé với lá cờ ba que nguỵ trước gió phất phơ, dường như đang vẫy gọi, khiêu khích tốp trực thăng, đầm già đang quần đảo tuần tra quanh khu vực. Phan Mỹ nhanh chóng chuyển xuống ghe nào bọc, nào xách, nào giỏ đựng chục cây thuốc ba số, chục bánh chưng, bánh tét các loại lớn, chục chai rượu Wisky, lạp xưởng, dưa hấu, thèo lèo đủ cả..ông vui vẻ nói:
- Biết là sắp tết bà con nội đô gởi tặng anh em quân giải phóng rừng Sác dùng lấy thảo. Chúc anh em đánh thắng nhiều hơn. Ờ nè anh Bảy, đơn vị nào đánh cháy kho xăng Nhà Bè đã dữ vậy?
- Chính anh tham gia đánh cháy còn gì nữa mà hỏi. Lê Bảy nói vui
- Đừng giỡn cha nội, sao lại có tui vào đó
- Anh không nhớ à, chính cách đây mấy tháng chiếc xe này anh đã chở đổ tại Gò Dầu này chục tấm tôn, chục cuộn dây thép gai để đặc công trung đoàn tập luyện đánh kho, vậy là công anh khá lớn đó.
- Thiệt vậy sao? Tôi sẽ đến người bạn Ngô Công Đức nhà báo, xin nguyên một tập báo lưu thời gian cháy xăng để anh nghiên cứu.
- Tạm biệt anh. Nhớ chuyển giùm lời cảm ơn của chúng tôi đến bà con và hẹn gặp lại nhau tại Sài Gòn ở một mùa xuân đại thắng.
Thực ra Sở chỉ huy chỉ cách Gò Dầu non năm cây số đường chim bay, xe chạy đường 15 bóp còi nghe rõ, cách nhà thờ khu giáo dân Phú Hà vài trăm thước, nếu lộ chỉ cần một tốp trực thăng phóng pháo, hoặc một loạt B57 đánh bom tấn xuống, hay là giao hội ba cụm pháo nòng dài của chi khu, tiểu khu thì lõm rừng này xác xơ ngay. Nhưng hôm nay sau hội nghị, anh chị em được hưởng một bữa Tết ngoài dự kiến, đầy đủ hương vị ngày xuân, ấm lòng người lính. Mỗi miếng ăn, mỗi ly rượu chứa đựng tình quân dân cá nước vùng ven và trong vòng tay bảo vệ đùm bọc, che chở của nhân dân các xã Phước Thái, Phú Mỹ, Phước Hoà...Cứ mỗi năm mùa Tết đến, tuy chiến trường có nhiều lúc vô cùng căng thẳng ác liệt nhưng sống với dân hầu như năm nào anh em cũng được hưởng cái Tết đầy ý nghĩa.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
NỔ TUNG KHO BOM THÀNH TUY HẠ
Sau khi dự hội nghị tổng kết chiến dịch tổng hợp ở R, biết được tình hình tổng thống Mỹ Ních-xơn không chịu ký hiệp định đúng thời gian thoả thuận với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng miền Nam. Mỹ đang ráo riêt chuẩn bị tập kích chiến lược bằng không quân ra miền Bắc. Nhận lịnh trực tiếp của tướng Năm Ngà- Tham mưu trưởng Miền, Đoàn trưởng kiêm Chính uỷ Lê Bảy, qua một tháng băng rừng lội suối từ Lộc Ninh về đến Sở chỉ huy trung đoàn đóng trên bờ sông Thị Vải. Có mặt đầy đủ Ban chỉ huy và cấp uỷ, anh thông báo mọi công việc và đề nghị:
- Xin các đồng chí cho một quyết nghị phân công tôi lên phía trước cùng anh em tổ chức điều nghiên, chỉ đạo tác chiến mà mục tiêu là kho bom Thành Tuy Hạ. Phải thật khẩn trương cho nổ tung, để phối hợp chiến trường chung.
Các sỹ quan tham mưu, chính trị, hậu cần cùng với đại đội trưởng C32 nhanh chóng triển khai lực lượng bám sát mục tiêu. Thực ra trong quá trình hoạt động, anh em đã biết khá rõ tình hình bố trí, phòng thủ của địch. Khu kho này được Pháp xây dựng từ xưa, đến nay Mỹ mở rộng qui mô nhằm dự trữ cho cả chiến trận nam Đông Dương.
Với hàng chục lớp rào tổng hợp bằng dây thép gai đủ loại, rào đơn, rào kép, bùng nhùng, mái nhà, cao 2 mét 5, cơ động cố định...còn thêm hệ thống mìn trái, lựu đạn, pháo sáng dầy đặc rải từ xa. Một bờ đập cao 3 mét dựng đứng như bức tường, chân đê có hào sâu ngập nước. Phía trong là hai lớp rào. Chó bẹc giê, ngỗng trắng cùng với hệ thống đèn sáng đủ cỡ. Khoảng trăm mét, xây một tháp canh. Chưa thật yên tâm, chúng bố trí thùng đại liên đổ dầu ma-dút cứ ba mét một,đốt cháy sáng. Cạnh sát kho là quân cảng được canh gác ngày đêm. Toàn bộ hệ thống bố trí này tưởng chừng như một con mèo cũng khó lọt qua.
Đại đội trưởng Hai Quyết sinh ra tại xã Phú Hữu từ nhỏ đến lớn nên đã biết ít nhiều địa thế ngoại vi, trực tiếp chỉ huy điều nghiên. Vấn đề là nếu lọt qua hàng trăm mét rào mìn trái, ánh sáng, lính canh này coi như cầm chắc thắng lợi trong tay.
Đêm 12 tháng 10 năm 1972, tổ điều nghiên đột phát hướng tây khỏi vòng rào thứ 3 đạp phải pháo sáng, địch phát hiện nên lùi ra.
Đêm 13 tháng 10 đột hướng đông nam qua 11 lớp rào đụng bộ binh địch.
Đêm 20 tháng 10 vào hướng Bắc gặp bãi mìn cố định dày đặc không vượt được, phải nằm ém lại trong rào để dò xét. Đêm sau tiếp tục qua 6 lớp rào, địch phát hiện lùi ra. Một chiến sỹ rớt lại một dép râu, lộ hướng.
Qua 6 đêm đột 4 hướng không tìm ra được kẽ hở. Ban chỉ huy nhận định " Vì đã lộ ý định, địch tăng cường đối phó, giờ phải tìm một hướng thật bất ngờ mới lọt vào được".
Đêm 7 tháng 11, hai tổ ra đi, hai đồng chí vào hướng tây-tây bắc sát nách quân cảng, chui qua 8 lớp rào, ém lại một ngày giữa rào bùng nhùng, đêm sau lọt được vào khu kho. Riêng tổ phía nam, đụng địch. Lúc ra đồng chí Bèo, vấp trái nổ, đứt cả hai chân, cõng ra đến ngoài thì tắt thở.
Vậy là qua 8 lần đột nhập, một chiến sỹ hi sinh, nhưng đã soi được một lỗ hở nhỏ. Ban chỉ huy quyết định phải đánh ngay, để lâu sợ chúng thay đổi quy luật tuần tra bố trí.
Đêm 11 rạng 12 tháng 12 một đêm trời tối đen như mực, chỉ lấp lánh ánh sao giữa trời mây. Hệ thống đèn mặt đất vẫn rực sáng, lâu lâu một tràng súng bắn vu vơ vang lên, đạn xé không trung rồi im bặt. Pháo sáng chốc chốc loé lên làm rõ mặt những chú chuột cống vênh râu ngơ ngác nằm im.Tổ trưởng Hoà chỉ huy 3 chiến sỹ cùng 16 khối thuốc nổ âm thầm, lặng lẽ từ từ nhích lên từng bước một theo hướng và con đường đã bò qua khi tiềm nhập. Cả một không gian căng thẳng, lặng im với 8 cặp mắt sáng xuyên qua đêm tối. Tám cánh tay không ngoan mò mẫm, cùng với 4 con tim bình tĩnh nhịp đều, họ qua tất cả các lớp rào, các loại chướng ngại, vô hiệu hóa mìn trái, đến được bờ tường kho. Vui mừng xiết kể, không ai bảo ai theo kế hoạch đã thực tập từ nhà, nhanh như sóc tất cả khối thuốc nổ đã an bài vào vị trí, bấm kíp hẹn giờ và tuần tự rút lui.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Bên ngoài hàng rào, người chỉ huy đã đón họ, ôm hôn nhau và xuống sông về căn cứ Rạch Lá. Tất cả đều hồi hộp không ai ngủ, mong chờ khối thuốc nổ "hét" lên. Khoảng 4 giờ sáng, những tiếng nổ rền vang, lửa rực sáng cả một góc trời. Đám cháy khổng lồ loé mắt, bùng lên. Từng cuộn khói đen bốc cao cháy suốt cả hai ngày đêm liền. Tại căn cứ đại đội 5, Lê Bảy cùng Tham mưu trưởng Sáu Sang, chỉ huy phó Thanh Tao và Hai Quyết bàn bạc "Tham mưu nhanh chóng liên lạc với quân báo xác định thêm tin tức bên trong. Qua hai ngày rực lửa, thắng lợi rất lớn, nhưng vấn đề đặt ra là chưa nghe tiếng nổ dữ dội, tại sao kho bom vẫn im tiếng...".
Qua mấy ngày sau, nguồn tin nội bộ báo cáo ra, anh em chỉ mới đánh trúng khu thuốc nổ và bom napan, thiêu huỷ 23 nhà kho chứa thuốc nổ tương đương 23.000 mét khối và 9 nhà kho bom napan khoảng 20.000 quả. Đơn vị phấn khởi nhận điện của R, khen thưởng Huân chương chiến công hạng nhất.
Sau nửa tháng nghỉ ngơi cho lại sức, trung đoàn chỉ đạo đại đội 32 đi điều nghiên tiếp hướng quân cảng, mỏng thế bố phòng hơn, tổ chức bám sát mấy ngày liền.
Ngày 4 tháng 12 năm 1972, tổ điều nghiên do Hai Quyết làm mũi trửong Hoà mũi phó cùng 3 chiến sỹ: Sáng, Chữ và Thắng xuất phát. Đêm 8/12 chọc thủng vào đến khu kho thì trời vừa sắp sáng không lùi ra kịp, phải cùng nhau ém lại giữa ban ngày với gạo rang cơm nắm chừo tối sục sạo thêm, rồi rút lui. Cuộc hội nghị cấp tốc mở ngay tại trận địa, Lê Bảy nhận định " Ta vừa đánh, địch chưa kịp hoàn hồn, còn sơ hở, chúng cũng không nghĩ rằng đặc công lại dám đánh trận thứ hai trong vòng 1 tháng. Với tiền lên, đã ém được ngày đêm là rất tốt, cần chớp thời cơ đánh vào kho bom". Hai Quyết và anh em đều biểu lộ quyết tâm phải tìm cho bằng được kho bom mới đánh. Sau cùng quyết định đêm 11/12 đột phá.
Lê Bảy hẹn với Hai Quyết tối 10/12 gặp nhau tại bến Bắc rừng báo cáo quyết tâm lần chót và nhận khí tài, trang bị. Đúng hẹn, xưởng trưởng Tư Tiên đã hoàn thành sản xuất 25 trái mìn dạng lõm, gọn nhẹ mà hiệu suất công phá mạnh hơn. Lê Bảy cùng với tham mưu, chính trị, hậu cần đến kiểm tra, động viên anh em trước khi xuất kích. Vấn đề mới phát sinh ngoài dự kiến, do một chiến sỹ đề xuất: Thủ trưởng cho tụi em ít gừng cay, nằm đêm ém giữa ruột kho bom, nếu ho là lộ ngay, thuốc ho không ăn thua.
Suy nghĩ một lát, không còn thời gian nữa, đêm nay phải lên tuyến cho kịp con nước thuỷ triều, thuận lợi bơi ém cảng, Lê Bảy bảo chờ một tiếng, quay máy đuôi tôm chạy về Ban tham mưu nằm tại Tắc Cò, vừa ghé mũi ghe anh đã hỏi:
- Y tá Sáu Hồng đâu?
- Dạ, anh Bảy hỏi gì em? Sáu Hồng khệ nệ mang bầu bước ra mí sạp
- Chừng nào cô sinh, đưa cho anh mượn gói mứt gừng, mai gởi trong ấp mua trả lại được không?
Y tá Hồng e thẹn, vui vẻ trao tay người chỉ huy nửa ký mứt gừng mà chị chuẩn bị cho ngày sinh nở nơi sông nước lạnh lẽo này.
Thế là tổ chiến đấu 5 người lên đường với đầy đủ khí tài vật chất.
Trước 4 giờ sáng ngày 12/12 tất cả đã lọt vào giữa ruột khu kho, Hai Quyết một mũi, Hoà một mũi, thọc sâu vào tung thâm tìm đúng kho bom thì trời vừa sắp sáng, tình thế đúng như dự kiến phải ém lại qua ngày, họ qui ước với nhau:" Hễ lộ thì quyết tử cho nổ ngay kho bom, thà hy sinh tất cả không để bị bắt sống".Trong ánh sáng mờ mờ, hiện lên một đám tranh cao lúp xúp đầu người lọt thỏm giữa khu kho, nằm đây cũng chưa chắc thật an toàn kín đáo nhưng được cái gần sát, họ có thể lao vào đánh ngay khi bị lộ. Năm người nằm đấu chân, đầu toả ra năm hướng quan sát, chỉ biết dùng ám hiệu thay cho lời nói. Trời sáng dần, khu vực kho rầm rập tiếng nổ của hàng chục máy xúc làm công việc dọn dẹp hậu quả trận đánh trước. Đến khi xế chiều có tiếng rú ga gần, một chiếc xe đang lù lù về phía bãi tranh định xúc đống sắt vụn bên tổ đặc công đang ém. Phải ra tay sớm không thì bị lộ hết, Hoà nháy máy xin ý kiến mũi trưởng, bắt đầu hành động. Lưng giắt quả thủ pháo, anh khom khom người đứng dậy đón đầu xe xúc, tên lính bất thần định nhảy chạy, nhưng Hoà kịp thời ra hiệu bảo nó ngồi yên, một tay đưa lên miệng, một tay chỉ vào quả thủ pháo, tên lính vội hiểu ra:" câm mồm, nếu không thì chết". Hoà chọn nơi che khuất ngồi giám sát, nó vẫn căm cụi làm việc bình thường, thỉnh thoảng đôi mắt lấm lét của hắn bắt gặp cái nhìn nghiêm khắc của Hoà. Khoảng 8 giờ tối, theo lệnh của Hoà tên lính chưa dám rời xe,trong lúc anh em đã chia nhau toả ra khu vực kho. Hoà ở lại trèo lên xe, tên lính toát mồ hôi, đôi môi run lập cập " Dạ thưa ông, tha cho em, em có vợ, 9 con...".
- Muốn sống về với vợ con, anh cứ làm việc bình thường, sau 9 giờ sẽ ra về theo tốp lính thợ, thấy gì để yên đó, không được nói với một ai. Hoà dặn
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Xong lao tiếp theo anh em, nơi có tháp nước cao. Một dãy nhà lù lù xuất hiện, Hoà sung sướng đến nỗi không thể tin vào mắt mình nữa, kho bom chồng chất, những quả bom trần trụi, đen bóng. Mỗi kho đếm rõ 8 dãy, dài 6 trái, cao 6 trái. Tất cả mải miết cắn kíp hẹ giờ, tìm quả bom nằm dưới cùng, thọc sâu trái mìn vào giữa ruột cho chắc ăn, nếu có tình huống lộ thì quân thù vẫn phải chịu thua, vì nổ một quả sẽ kích động cả kho cùng nổ một lúc.
Tất cả rời kho lúc nửa đêm, sau khi tìm cách giải thoát cho người lính Sài Gòn.
2giờ 55 phút khi tổ đặc công về đến Bàu Sen thì lửa đỏ rực trời. Tiếng nổ dây chuyền của hàng ngàn quả bom, đạn pháo rung chuyển mặt đất, kéo dài như sấm liên hồi. Kho bom Tuy Hạ bị dìm dưới những quầng lửa khổng lồ. Nổ và cháy suốt cả 3 ngày 3 đêm liền, tung toé cả một vùng mấy cây số vuông, làm cho phần nhiều cửa kính cao tầng nội đô Sài Gòn rạn nứt, tất cả chướng ngại vật, mìn trái bị quét sạch gần hết, 1 tiểu đoàn bảo an, 1 tiểu đoàn quân cụ, cùng với 1 đại đội quân khuyển hơn 100 chó béc-giê tan nát.
Ngày sau, Lê Bảy ngồi trên vòng cách xa hàng chục cây số theo dõi tiếng nổ. Bỗng một cột khói dựng lên y như chiếc nấm khổng lồ cao mấy trăm mét, quyện vào nhau mấy chục phút chưa tan, giống như quả cầu lửa bom nguyên tử được xem qua ảnh. Tiếp theo là một tiếng nổ khủng khiếp kéo dài, làm anh em lăn ra mặt đất rồi bật dậy mở máy truyền tin PRC25 ra theo dõi tin kỹ thuật. Đàng xa, oang oang tiếng gọi:
- Đại bàng đây. Đại bàng đây. Chi khu nghe rõ trả lời. Tụi bây coi kho bom CBU quí giá có còn không?
- Alô, alô, không biết được, nổ tứ tung, cha ai mà mò vô tới...
Sau này mới biết đó là cả ngàn trái bom đặc biệt CBU nổ cùng lúc gây tiếng nổ và quầng khói bốc cao như quả cầu nấm. Mà một sỹ quan cao cấp Mỹ Frank-Snep trong sách " Khoảng cách thời gian vừa phải" có viết như sau:" Còn CBU là loại bom khủng khiếp hơn (so với bom Daisy Culter) nó ở độ cao đã định trước, tạo ra một đám mây lỏng có đường kính đến 100 mét và dày đến hơn 2 mét. Gặp lửa, đám mây này toả ra một nhiệt lượng lớn và áp lực mạnh thốc xuống mặt đất nặng tới hàng tấn trên centimét vuông, có thể phá tan mọi thứ. Con người dầu thoát ra khỏi vòm lửa này cũng vẫn bị chết ngạt sau tiếng nổ của trái bom, vì nó tạo ra một khoảng chân không lớn. Trong kho vũ khí của Mỹ, bom CBU là một trong những loại sát thương tàn ác nhất, ngoài vũ khí hạt nhân...".
Các dũng sỹ đặc công Đoàn 10 đã lập được chiến công vang dội, theo tài liệu lưu trữ thì số thiệt hại là tổng cộng 80 kho bị phá huỷ sạch chứa khoảng 60.000 trái bom tương đương 18.000 tấn, riêng kho bom CBU đựng kín trong thùng của 15 kho với khoảng 33.000 mét khối, loại đạn pháo 105 ly chứa trong 17 nhà kho hơn 100.000 quả, toàn bộ kho Thành Tuy Hạ bị phá huỷ 60% và riêng khu bom, thiệt hại 80%.
Lực lượng đặc công rừng Sác trong vòng một tháng đã đánh 2 trận liền vào một mục tiêu, giành thắng lợi to lớn làm chấn động đến lầu Năm Góc và dư luận Sài Gòn. Thật là một chiến tích hiếm có.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
PHÁO KÍCH VÀO NỘI ĐÔ
Ban chỉ huy Đoàn 10 ngồi vây quanh bản đồ tác chiến, thỉnh thoảng lại chuyền cho nhau bức điện Miền gửi xuống:" Đoàn 10 được phối thuộc tăng cường một tiểu đoàn pháo của E274, tổ chức pháo kích ngay vào Dinh Độc Lập, toà Đại sứ Mỹ và Bộ tư lịnh hải quân nguỵ". Một mệnh lệnh ngắn gọn thôi thúc, rạo rực lòng người.Gương mặt người chỉ huy tỏ vẻ đăm chiêu. Nhiều ý kiến phát biểu sôi nổi, phân tích tình hình, nhận định thuận lợi, khó khăn cuối cùng Ban chỉ huy kết luận: Bằng mọi giá, phải tiếp nhận, đưa được hai tấn rưỡi đạn ĐKB trút vào hang ổ kẻ thù. Hướng chủ yếu của trận đánh do Lê Bảy được phân công phụ trách, và hướng thứ yếu kềm chế trận địa pháo địch ở đặc khu Nhà Bè và nghi binh đánh lạc hướng- do Tham mưu trưởng Cao Thanh Tao chỉ huy, sử dụng 2 khẩu ĐKZ75 với 50 quả đạn nổ.
Cuộc họp khẩn trương kết thúc. Bên bình trà đậm dưới lán nhỏ, trên sạp đước nơi rừng Sác các đồng chí vẫn tiếp tục bàn luận quanh những biện pháp tổ chức hành quân, luồn lách địch, làm sao đưa được 50 quả đạn ĐKB từ bên kia rừng giồng vượt lộ 15, vận chuyển bằng ghe thuyền lên đến trận địa, cách trung tâm Sài Gòn 10 cây số nằm giữa vòng vây tứ phía của quân thù là coi như nắm chắc phần thắng lợi. Nhận được nhiệm vụ nặng nề vẻ vang này, đơn vị đầu tiên được sử dụng loại pháo phản lực xuất hiện từ hướng đông nam, quân thù sẽ hết sức bất ngờ và kinh hoàng trước đòn tiến công này. Đó là niềm vui thôi thúc, cổ vũ đơn vị quyết tâm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ cấp trên giao.
Vào một đêm cuối tháng 8 năm 1968, từng đợt chớp còn rớt lại sau trận mưa xối xả giữa mùa, loé lên soi rõ mặt sông đang có hàng chục lùm cây từ từ trôi ngược dòng nước chảy. Chỉ cần đứng xa vài chục mét, không ai tưởng tượng được đó là hàng chục chiếc ghe đầy ắp súng đạn và người, xuất phát từ bến Bắc rừng xã Phước An đang âm thầm lặng lẽ rẽ nước. Những mái dầm, mái chèo khua nước hối hả bằng những cánh tay cật lực làm thành những vệt sáng, loé lên của dòng nước mặn. Đoàn ghe vẫn khéo léo luồn lách qua Bà Bông, Rạch Lá, Tắc Chợ lên sông Ông Kèo. Hàng chục họng pháo từ An Thịt, Tuy Hạ, Nhà Bè...chốc chốc lại gầm rít rung chuyển cả hai bên mép rạch. Các tốp tuần tiễu của hải quân trên sông Lòng Tàu, Đồng Tranh hầm hì xé nước chạy đi chạy lại, liên tiếp khạc lửa như điên vào các lùm cây, những đám lục bình trôi. Trên trời, máy bay hai thân tì tì dai dằng như xoi mói xuống màn sương đêm. Những toán biệt kích, người nhái lẩn lút trong rừng, nơi mép rạch, bởi lẽ đây là một vùng sát nách Sài Gòn- Gia Định cái gọi là thủ đô Việt Nam Cộng Hoà cần phải bảo vệ nghiêm ngặt.
Với trọng trách là người chỉ huy trưởng trận đánh, hầu như thâu đêm Lê Bảy không chợp mắt chút nào. Anh cứ ngồi trước mũi xuồng căng mắt quan sát và không ngừng dự kiến xử trí các tình huống xấu nhất có thể xảy ra. Anh lại nhớ tới trận pháo kích đầu tiên của Đoàn 10 bằng ĐKZ75 vào phía sau Nhà Thờ Đức Bà lúc 7 giờ sáng ngày 01 tháng 11 năm 1966 Quốc khánh của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu do Hai Nga đại đội phó trực tiếp chỉ huy. Lúc ấy, địch đang tổ chức duyệt binh để diễu võ dương oai. Với 20 quả đạn trúng đích đã tiêu diệt hàng trăm tên địch đa số là tướng lĩnh. Đạt được chiến thắng đó, cả một tiểu đội pháo thủ phải cải trang thành lính địch, luồn sâu, lách địch dầm mình dưới sông nước hàng tháng trời để tìm, đo đạc và đến trận địa chỉ cách mục tiêu hơn năm cây số bắn theo lối "gián xạ". Pháo đạn cõng trên vai, đội trên đầu, phải nhịn đói nhịn khát. Không phải đánh lén rồi rút lui ban đêm, mà đằng này tất cả quyết tâm lắp đạn sẵn, vặn đài bán dẫn theo dõi, khi tướng Nguyễn Cao Kỳ được giới thiệu bắt đầu duyệt binh giữa buổi sáng thanh thiên bạch nhật, đằng này mới phát hoả. Bằng mắt thường quan sát, thấy khói bốc cao mù mịt nơi mục tiêu. Đương nhiên là chấp nhận sự phản ứng điên cuồng, Mỹ sử dụng tất cả các loại binh chủng truy đuổi. Nhưng anh em đã dũng cảm đẩy xuồng vượt qua, vẫn còn khẩu pháo 75 nguyên vẹn, đưa về tận Bà Bông, Vũng Gấm an toàn. Thật là một trận đánh kiên gan, sáng tạo. Rất đỗi anh hùng.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Nhưng còn lần này cũng lặp lại kiểu ấy, mà là loại pháo mới, uy lực sát thương mãnh liệt hơn, kẻ thù sẽ phải sửng sốt, kinh hoàng. Nhân dân nội đô vui sướng biết chừng nào khi tận mắt nhìn thấy Mỹ-nguỵ bị trừng trị ngay tại nơi mà chúng cho là an toàn nhất. Liệu trận này có thể làm được theo kế hoạch hay không? Lê Bảy miên man suy nghĩ, rất tin ở cán bộ chiến sỹ của mình, gian khổ ác liệt họ không nản, đã từng chịu cảnh hàng tháng trời thiếu cơm, nhịn nước, lấy bụi cây làm nhà, ngủ trong bùn nước. Oái ăm thay rừng Sác chẳng thuận lợi cho "con nhà pháo" chút nào, toàn là sình lầy sông rạch. Qua nghiên cứu trinh sát, chỉ có một trận địa duy nhất ở bờ đập Phước Lương, tiến lên nữa thì vướng sông Nhà Bè, lùi lại thì tầm bắn không tới. Xung quanh toàn sình lầy,lưa thưa lá dừa nước mà pháo địch đã cày xơ xác. Một đồn bảo an đóng cách vài trăm mét, dân vệ dày đặc trong ấp, chỉ cần một tiếng ho, hay một va chạm mạnh...tai hoạ sẽ ập đến ngay, nguy hiểm biết chừng nào. Công việc đo đạc trinh sát cũng không dễ dàng, phải nhờ tấm lòng của bà con nơi ấp chiến lược Phước Khánh, Phú Hữu, lợi dụng thế hợp pháp dẫn đường đưa đón, bỏ tiền ra mua rượu cho tụi lính chốt tập trung nhậu nhẹt, tạo kẽ hở cho chiến sỹ đột nhập qua vòng vây.
Lê Bảy vừa căng mắt ra quan sát vừa suy nghĩ nhiều điều, trán anh nhiều lúc vã mồ hôi giữa đêm lạnh, trời khuya. Một chiến sỹ bảo vệ ghé sát vào tai: " Sao thủ trưởng không chợp mắt đi một chút". Anh em có biết đâu, trong lòng người chỉ huy chỉ lo làm sao đừng mất 50 quả đạn pháo vô cùng qúi giá đã trên vai người dân công vượt hàng ngàn cây số mới đến tận vùng ven này. Và làm sao đánh được mà sinh mạng anh em bảo đảm an toàn vế đến căn cứ.Có lúc nóng ruột thấy dòng nước ngược, anh cầm dầm bơi phụ với lính.
Bốn đêm liền thức trắng, người, pháo đạn len lỏi qua tất cả các tuyến bố phòng dày đặc, ban ngày chui vào gốc ráng, ô rô tránh né trực thăng, đầm già liên tục soi mói, rà sát. Đêm nay đúng theo ngày N qui định, cả đội hình đến gò Ô Môi xã Phú Hữu, theo hiệp đồng giờ G là 24 giờ nổ súng. Đã 22 giờ mà nước vẫn ròng, cạn sát, đội hình bí mật lọt đúng vào giữa hệ thống đồn bót Phước Khánh, Giồng Ông Đông, Cát Lái, Nhà Bè... chỉ cần một sơ xuất nhỏ gây tiếng khua động mạnh thì lập tức hàng trăm quả pháo cối rót xuống ngay. Đáy xùông cạn sát lòng rạch, không ai bảo ai, từ chỉ huy đến pháo thủ, đặc công đều xuống sình đẩy những ghe đạn.
23giờ 50 phút, trên hướng thứ yếu, tham mưu trưởng Thanh Tao ngồi giữa 2 khẩu ĐKZ, sau lưng ấp chiến lược Phước Khánh. Anh đang suy nghĩ tính sao cho bắn xạ tốc thật chậm đều, hết cơ số đạn để kiềm chế pháo địch trong vòng 60 phút cho trận địa ĐKB hướng chủ yếu trút hết hai tấn rưỡi đạn vào sào huyệt kẻ thù và rút lui an toàn. Bỗng nhiên một chớp lửa xanh loé lên và tiếp sau những tiếng nổ rền hướng Cát Lái, trinh sát liền báo cáo là trận địa chính đã nổ.Thanh Tao vỗ vai khẩu đội trưởng Đức Đa, một mệnh lệnh rít qua kẽ răng:" Bắn". Tiếp theo là những tiếng oành...đùng, oành đùng liên hồi, lửa chớp nháng lên. Đám cháy bùng nổ trong căn cứ hải quân Nhà Bè. Các pháo thủ Soạn, Nết, Năm, Chiến... bình tĩnh nạp từng phát đạn theo chỉ lịnh. Sau hàng chục phút câm lặng, im ắng, bọn địch hoàn hồn và bắt đầu xối xả nhả đạn lung tung vào các tọa độ nghi ngờ, nhích dần về phía trận địa ĐKB. Máy bay trực thăng, OV10, IL19 cũng nhào lên trút đạn xuống mặt đất. Các cỡ pháo sáng bắt đầu nổ lụp bụp trên không, sáng rực bầu trời. Hoàn thành nhiệm vụ xạ kích trong vòng một tiếng theo hợp đồng, anh Bảy ra lịnh cho pháo thủ băng qua lửa đạn rút lui.
Thực ra tiếng nổ lúc 24 giờ là của trung đoàn đặc công 113 đánh vào kho đạn Long Bình nổ tung, chớp lửa chứ chưa phải của trận địa chính, mà sự thực anh em Đoàn 10 cũng chưa bao giờ được nghe, thấy " pháo phản lực" bắn nên có sự nhầm lẫn đáng tiếc này. Hướng chủ yếu của Lê Bảy đã gian khổ, giờ lại chịu thêm ác liệt, người và đạn đang ì ạch giữa dòng, những ghe đạn nguỵ trang kỹ trông như những mô đất di động. Nước ròng sát kiệt, người kéo, người đẩy trông như những cọc bùn biết đi. Nhoài dần, nhích dần từng thước một tiến đến trận địa, mặc cho pháo đạn, máy bay chiu chíu qua đầu. Hàng chục tiếng đồng hồ dầm mình trong bùn nước, cái lạnh tưởng chừng như cắt da, rứt thịt, cái đói cào xé ruột gan, khái khô cả cổ họng... Những hơi thở nồng ấm thỉnh thoảng lại thì thào bên tai nhau:" ráng lên. Ráng lên...sắp tới đích rồi". Chiếc đồng hồ dạ quang trên tay Lê Bảy đã chỉ vào con số 2, anh rất lo lắng, như vậy đã muộn với giờ G hai tiếng.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Nước sông đang lên dần và đoàn ghe cũng vừa cặp bến. Quên cả mệt nhọc mọi người lao ngay vào công việc của mình: vác đạn lên bờ, chuẩn bị thước tầm, độ hướng... những hàm răng đánh vào nhau cầm cập, quần áo ướt sũng, bùn đất nhầy nhụa khắp người, công việc vẫn cứ thoăn thoắt.
Trần Phùng, Lê Đào cán bộ tiểu đoàn bám sát các chiến sỹ đo đạc, dựng pháo, dựng chống và kiểm tra tầm hướng. Những quả đạn ghếch đầu lên chạc ứng dụng với cự ly 10 cây số đúng vào tim Dinh Độc Lập. Mãi đến gần sáng trận địa vẫn chưa triển khai xong, một nửa số đạn vẫn còn nằm dưới ghe chưa chuyển lên kịp, chưa lắp kíp đầu nổ...
Một cuộc hội ý chớp nhoáng với các cán bộ chỉ huy được gấp rút triệu tập. Đại đội trưởng Trần Sung nói:" Tôi đề nghị cho ém toàn bộ đạn súngvà người tối mai đánh, vì bây giờ trời sắp sáng nổ súng không tài nào thoát khỏi vòng vây của địch". Chính trị viên Lê Chính:" Tôi đề nghị phải nổ súng đêm nay vì là mệnh lệnh hợp đồng phải thực hiện dù có phải hi sinh". Lê Bảy điềm tĩnh dằn mạnh từng lời nói: " Tham khảo ý kiến các đồng chí, bằng mọi giá phải hoàn thành nhiệm vụ bắn hết số đạn vào mục tiêu theo mệnh lệnh cấp trên, theo kế hoạch hợp đồng. Nếu ém lại ngày mai, có thể mất súng đạn là điều không thể chấp nhận. Đánh xong, tôi cùng tất cả anh em sẽ ém tại các mép lá, sẵn sàng chống càn bảo vệ mình đến tối, chấp nhận có thể bị thương vong, sẽ rút lui điều động nhau ra khỏi vòng vây sau. Đồng chí Thắng đại đội phó trinh sát đâu, đi nghiên cứu vị trí bố trí ém quân, đánh trả ngày mai". Sau giây phút suy nghĩ, yên lặng mọi người đều đưa nắm tay lên biểu thị sự đồng tình với người chỉ huy của mình. Lê Bảy vui vẻ mỉm cười sau một quyết định dứt khoát trước quyết tâm của cấp dưới, ra lịnh:
- Mọi công tác chuẩn bị phải thật khẩn trương, đúng 5 giờ sáng nổ súng
Công việc lại được chuẩn bị hết sức khẩn trương, không còn biết ai là pháo thủ, ai là chỉ huy, tất cả đều vác đạn, tất cả đều biết lắp đầu nổ, đều biết dựng pháo...Từng bó cây đước non làm chạc dựng thay cho nòng pháo đã chuẩn bị từ ở nhà, đạn được vác lên bờ rải theo vị trí qui định. Có đồng chí vác một lúc hai quả chạy ọp ẹp trên bùn. Thỉnh thoảng lại phải lăn ra né tránh sau một loạt đạn pháo địch nháng lửa xé đất xung quanh. Những tiếng thở è è ráng nâng từng trái đạn 50 ký lô lên khỏi bùn nước theo đôi chân run lẩy bẩy vì nặng nhọc vào các mô đất...
5 giờ kém 15 sáng, Lê Bảy đi kiểm tra lại một lượt trận địa 1, 30 quả đã lên giá hoàn chỉnh, 2 nòng pháo dài đã nghếch lên thẳng hướng, còn lại 2 quả chưa lắp đầu nổ do bùn đất,sét rỉ nhiều. Trận địa 2 cách đó vài trăm thước chưa chỉnh xong hướng tầm. Anh quyết định đưa 2 quả đạn xuống ghe và ra lịnh: " Trận địa 1 bắn". Lập tức những vệt lửa nháng lên sáng rực một góc trời, tiếp theo là những tiếng rít xé không khí lao về hướng mục tiêu . Nội đô Sài Gòn hực lên màu vàng, hồng kèm theo những tiếng nổ ầm vang. Xong xuôi, trận địa 1 được lịnh rút lui, anh em nhanh như sóc thu dọn trận địa và xuống ghe rạp mình đạp nước vun vút xuôi dòng nhờ mức nước thuỷ triều đã lên cao. Một trời pháo sáng của địch vàng vọt toả lên chơi vơi, soi rõ từng hàm răng cắn chặt vào môi, những cánh tay sải ra khua mạn thuyền thoăn thoắt đẹp như cuộc đua ghe ngo khi gần đến đích. Đồng bào các ấp chiến lược đều được đánh thức, họ reo hò, hoan hô, các chú bé chạy tung tăng, nhẩy cẩng lên hét to: " Ráng lên các chú ơi, nó không đuổi theo kịp đâu". Một chiến sỹ bỏ dầm bơi, đứng thẳng trên ghe, chiếc mũ tai bèo lật nghiêng rớt xuống nước, anh loạng choạng bụm tay vào miệng làm loa: "Cô bác xuống hầm ẩn nấp ngay đi, địch sắp phản kích đó...".
5 giờ kém 7 phút, một loạt đạn khác gần 20 quả của trận địa 2 lại như những con rồng lửa phóng lên, tiếp nối những vầng mây hồng nhạt rực lửa phía Sài Gòn. Sau mấy phút bất ngờ choáng váng, quân địch đã xác định được hướng pháo kích, các loại phi cơ, các loại tàu chiến lại sôi nước, ầm trời phản kích. Có cả hàng bầy trực thăng hạ cánh đổ quân vì trời đã sáng tỏ. Trong lúc đoàn ghe đang lao vun vút về hướng Ông Kèo. Trận địa 2 chỉ chậm sau có 8 phút, không tài nào vượt qua được lưới bủa vây của bộ binh địch án ngữ và được sự yểm trợ tối đa của các loại hoả lực từ các cụm pháo. Chính trị viên tiểu đoàn Lê Đào ra lịnh nhận chìm ghe, giấu dụng cụ, toàn bộ lực lượng ém sâu vào những đám lá dừa nước mọc cao cặp theo mép rạch trong vòng vây của giặc, sẵn sàng chiến đấu khi có lịnh. Lính Mỹ đổ quân rải ngang, cắt từ Phước Khánh qua Quới Thạnh, lộ 19. Từng đoàn tàu hải quân tới tấp truy tìm, điên cuồng bắn loạn xạ.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Gần 6 giờ, lại 2 quả đạn bất thần xé trời lao vào mục tiêu, hai cụm khói màu da cam cuộn lên lơ lửng ngay nơi trận địa 1. Địch lập tức điều động lực lượng quay ngược trở lại, các toán lính Mỹ, nguỵ đổ bộ lên bờ la hét loạn xạ: "Vi xi, Vi xi, Việt cộng,xung phong...". Hàng trăm tên đổ bộ lên lùng sục,soi bới khắp nơi, nhưng chẳng tìm được gì ngoài những vết đạn cháy xém của hoả tiễn vừa phóng đi. Bọn sỹ quan lại tức tối thúc giục lính lùng sục, chúng cho rằng Việt Cộng dù có cánh cũng không tài nào thoát khỏi nơi đây khi cụm khói vẫn còn lơ lửng. Nhưng quân thù có biết đâu rằng chiến sỹ pháo đặc công Đoàn 10 đã có sáng kiến dùng đồng hồ hẹn giờ để chập mạch pin điện lắp vào 2 quả đạn, khi ta rút lui sau 1 tiếng, đúng giờ theo ý định, đạn tự động vút lên, lao vào mục tiêu làm địch bất ngờ, tức tối, bị động không làm sao đối phó được.
Khi nghe hai quả đạn nổ bay đi, Lê Bảy nhìn đồng hồ mỉm cười đắc chí " Thật khớp, bây giờ thì cho chúng mày cấu xé nhau". Anh cho dừng đội hình lại trên bờ sông Ông Kèo, gọi xã đội trưởng Ngọc đến giao nhiệm vụ:
- Đông chí cải trang luồn lại Phú Hữu, tổ chức trinh sát công khai liên lạc với anh em trận địa 2 đang kẹt trong vòng vây, vận động bà con tiếp tế cơm nước và dùi đường trở về đây.
Ngọc nói "rõ" một tiếng dứt khoát, không yêu cầu gì thêm, băng mình vào cánh rừng cỏ chằng chịt những gai góc của mảnh đất hoang.
Một ngày, hai ngày, rồi ngày thứ ba, vào lúc 2 giờ sáng Lê Bảy cùng vài đồng chí đang thao thức trên chiếc võng ni lông, từng đốm thuốc lá cháy đỏ trên môi. Hai ngày qua, chỉ có tiếng phi cơ và trực thăng, không nghe tiếng súng AK nào nổ, các anh đã có phần nào vững dạ hơn. Và Lê Bảy cũng đã tổ chức thêm đội trinh sát quay lại Gò Me, Gò Bình Bác tìm đón anh em. Lúc này tại trạm phẫu thuật tiền phương bố trí ở tắc Xay Lúa do nữ quân y sĩ Tư Mến phụ trách với y sỹ Đào đang giải quyết một ca trọng thương. Đồng chí và anh em đang hồi hộp chờ đợi. Bỗng nhiên có tiếng chân lội ráng ào ào từ xa vang lại, mọi người nhảy xuống võng ở tư thế chiến đấu sẵn sàng. Út Xuân, Trọng Văn là chiến sỹ bảo vệ nhanh nhẹn xốc AK lao ra lùm cây sát bờ sống cảnh giới. Ba tiếng vỗ tay khe khẽ lặn vào đêm. Hai tiếng vỗ tay đáp lại, tiếp theo là bìm bịp kêu hai tiếng một. Lát sau 4 du kích cười nói rì rầm trogn đêm tối do Ngọc dẫn đầu, trong đó có cô Bảy Loan, một nữ du kích gan dạ dũng cảm của xã Phú Hữu. Họ ùa đến ôm chầm lấy Lê Bảy trong những bộ quần áo còn ướt sũng. Mừng vui trào ra nước mắt: Báo cáo anh, toàn bộ đội hình trận địa 2 vượt vòng vây an toàn cả nòng pháo ĐKB, không mất mát một thứ. Như sực nhớ điều gì, Ngọc cởi khăn rằn quấn ngang đầu đưa cho Lê Bảy tờ giấy nhàu nát mà giao liên công khai của anh Mười Tâm cụm trưởng quân báo nội thành gởi ra. Anh bấm đèn pin lướt nhanh qua một lượt rồi đọc to cho mọi người cùng nghe " pháo ta bắn rất chính xác, một số quả trúng nóc Dinh Độc Lập, toà đại sứ Mỹ. Nhiều tên giặc Mỹ bị chết, bị thương, có hai tên là khách của Thiệu. Địch rất hoang mang, lo sợ. Hàng ngàn tên Mỹ bung ra càn xuống hướng các anh. Nhân dân phấn khởi bàn tán xôn xao. Mọi chi tiết tôi sẽ thông báo sau...".
Tiếng sột soạt của võng ny lông rộ lên, không ai bảo ai, mọi người dậy gấp võng chuẩn bị tư trang trong tiếng cười, tiếng xôn xao bàn tán. Một chiến sỹ reo lên: " À, thủ trưởng ơi, tôi còn một túm gạo rang, mình sẽ làm một bình trà đặc biệt để liên hoan mừng chiến thắng cho ấm bụng rồi tiếp tục hành quân". Lê Bảy gật gù: " Ừ, được đấy". Anh ngắm những gương mặt, nụ cười đang rạo rực vây quanh bếp lửa bập bùng, lòng tràn niềm vui với chiến sỹ.
3 giờ sáng, đoàn ghe xuôi về tuyến 2, từng luồng gió biển mặn mà của dòng sông Đồng Kho, Thị Vải... vuốt nhẹ lên gương mặt các chiến sỹ Đoàn 10 vừa thắng trận. Họ im lặng lướt nhìn tạm biệt những lùm cây đen sẫm hai bên bờ, lòng lâng lâng kiêu hãnh và suy nghĩ miên man về những chớp lửa vút lên, phóng thằng vào sào huyệt đầu não của kẻ thù...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
BỐC CHÁY KHO XĂNG NHÀ BÈ
Lúc hội nghị ba bên đang gặp nhau ở trại Da-vid trong sân bay Tân Sơn Nhất giữa ba phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam và Việt Nam Cộng Hoà trong xu thế đế quốc Hoa Kỳ đang tìm con đường xuống thang chiến tranh trong danh dự, thì Nguyễn Văn Thiệu tổng thống cái gọi là Việt Nam Cộng Hoà lại hết sức ngoan cố, không thi hành hiệp định, liên tiếp tổ chức hành quân lấn chiếm vùng giải phóng gây thêm tội ác. Do vậy trung đoàn đặc công rừng Sác nhận được chỉ thị của cấp trên phải cho bốc lửa kho xăng Nhà Bè để làm hạ bớt nhiệt độ " cái đầu nóng" của tên Thiệu xuống.
Ban chỉ huy rất phấn khởi họp bàn gồm có Chỉ huy trưởng Lê Bảy, các chỉ huy phó Sáu Tao, Năm Hải, Chính uỷ Trần Thành Lập, phó chính uỷ Trần Nhâm với quyết tâm tập trung chỉ đạo một trận đánh hết sức quan trọng trong khi đang có hiệp định. Cái khó là làm sao đánh địch thật đau, chiến thắng nhưng không để lại dấu vết, bằng chứng để địch kiếm chuyện tố cáo ta vi phạm.
Với mục tiêu kho xăng Nhà Bè, thì trung đoàn đã thường xuyên tổ chức đeo bám điều nghiên nắm được khá chắc từ một năm nay. Cảng và kho xăng chỉ cách Sài Gòn có 8 cây số về hướng đông nam. Từ một thương cảng, Mỹ biến thành quân cảng lớn tiếp nhận nhiên liệu xăng dầu phục vụ cho chiến tranh xâm lược với một hệ thống bố trí hoàn chỉnh của 3 hãng Caltex, Shell, Esso, mà Shell là kho lớn nhất, rộng 14 ha, có 72 bồn chứa hàng trăm triệu lít xăng dầu, cung ứng cho 60% nhu cầu xăng quân sự cho miền Nam. Được bố phòng cẩn mật, chặt chẽ giống như các cụm kho tàng khác của Mỹ, có khác là thêm hàng rào sắt, hàng rào chẻ ba bùng nhùng cao 3,5mét khó cắt và vượt. Cũng chó, ngỗng, mìn trái, ánh sáng, đèn pha, tháp canh, còn tường cao 2 mét 5, có đường cho các loại xe hon đa, ô tô, xe đạp chạy quanh tuần tra thuận lợi. Đăc biệt là lực lượng liên phòng hỗn hợp bảo vệ từ trên không, dưới nước, đất liền dưới quyền chỉ huy của trung tá Nguyễn Đắc Di quận trưởng, kiêm chi khu trưởng, có thiếu tá Quách Vĩnh Chung ác ôn khét tiếng, từng nhận 3 huân chương " anh dũng bội tinh" chỉ huy tiểu đoàn địa phương quân 835. Dưới nước có giang thuyền số 30 với 11 tàu tuần tiễu, còn được lực lượng bảo vệ Bộ Tổng tham mưu và không quân Quân đoàn 3 sẵn sàng ứng cứu chi viện. Bên cạnh còn cảng hải quân, là căn cứ Đặc khu rừng Sác có hai liên đội bảo an gồm 10 đại đội chốt giữ do tên đại tá Hà Hữu Nhân chỉ huy, lại còn hai phi đội HU1A, 1 máy bay chỉ huy, đơn vị pháo 4 khẩu 105, 2 khẩu 155, giang thuyền 16 chiếc...
Cách tổ chức ra vào của công nhân hết sức gắt gao, mỗi người có thẻ nhận dạng do Shell cấp, sau khi cảnh sát quốc gia thẩm tra lý lịch kỹ càng, vào 100 mét phải có giấy phép đặc biệt của cảnh sát yếu khu. Tại khu bơm xăng, 7 công nhân dưới sự giám sát cảu 13 tên an ninh đều là thân cận của tên Võ Hoài Nam, giám đốc...
Trung đoàn liền điều động đại đội 5 đặc công thuỷ bộ về giao nhiệm vụ tổ chức một đại đội quyết tử gồm 8 đồng chí được chọn lọc: đại đội phó Hà Quang Vóc, trung đội trưởng Nguyễn Hồng Thế, trung đội phó Nguyễn Công Bao, cán bộ tiểu đội Nguyễn Văn Rực, Trần Ngọc Sỹ, Hoàng Hữu Hinh, Đỗ Hải Quân, Phạm Văn Tiềm. Tất cả do đại đội trưởng Cao Hồng Ngọt phụ trách, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Bảy. Họ liên tục tổ chức nhiều đợt bám sát điều nghiên, mỗi tổ 2 hoặc 3 người vượt sông Nhà Bè rộng 1300 mét. Không thể trở về căn cứ kịp trong đêm nên phải ém lại tại các đám lá dừa nước đã bị chặt phát quang nhiều lần chỉ còn lại gốc. Mọi hầm sát rào, có khi ngay giữa rào, phải dùng bọc ny lon dán kín chui vào chị đựng cả ngày với túi gạo rang, bình toong nước để rồi đến đêm lại mò mẫm trinh sát tiếp. Một sơ hở nhỏ là không có lối thoát, chỉ duy nhất chiến đấu đến viên K54 cuối cùng. Nhưng sức con người có thể chịu nổi đến 3 đêm ngày là cùng, phải vượt sông trở về bàn giao lại cho tổ khác. Qua 14 chuyến vô cùng gian khổ, đã có nhiều lần thoát chết vì đụng địch lấn càn phát trống địa hình, anh em đã tiến hành trinh sát khắp vòng 3 mặt và 1 mặt cảng, nắm chắc địa hình bên ngoài, nhưng vẫn còn khó khăn là mặt rào bùng nhùng bên trong cao 3,5 mét chưa vượt qua được.
...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Về sau, trong một cuộc họp hiến kế, cả tổ nhận định rằng ở góc phải sát mép nước có bót canh, thực ra là toàn lính kiểng con ông cháu cha, vì sợ đẩy ra vùng 1 chiến thuật ác liệt nên chui vào đây, lại là dân chuyên ăn chơi, gặp trăng thanh gió mát chỉ ngủ gà ngủ gật, cứ đột thẳng nơi đó, vượt qua rồi từ bên trong cắt rào ngược ra đưa đội hình vào.
Một mặt, đơn vị liên lạc được với công nhân nội tuyến chuyển ra một sơ đồ bố trí trong kho đầy đủ làm cơ sở nghiên cứu đắp một sa bàn kho Shell gần đúng như thật, để huấn luyện anh em và thông qua phướng án tác chiến ngay trên bờ sông Ông Kèo.
Vấn đề phải giải quyết là khí tài, đánh một bồn xăng cao 20 mét, đường kính là 15 mét thì bao nhiêu ký thuốc nổ mới thủng,đơn vị chưa có kinh nghiệm. Nếu thuốc nổ nhiều sẽ ảnh hưởng đến đội hình chiến thuật. Không thể đưa vào hàng trăm đặc công,đánh trận nội đô như thế. Lê Bảy bàn với Tư Tiên trưởng xưởng làm thử loại mìn lõm chỉ nặng 1 ký lô đưa áp vào vỏ quả bom đìa lép đã cưa, lấy thuốc đánh thử, rất phấn khởi về sức xuyên phá cả hai lớp vỏ. Nhanh chóng sản xuất ngay 50 quả cho nhiêm vụ.
Phát huy dân chủ bàn về kỹ thuật chiến thuật đặt trái, bấm kíp, thông thường là đánh theo lối cuốn chiếu, nhưng anh em nói ở đây cho chắc ăn, và không cho địch có thể dập tắt, thì mỗi người 6 quả cùng vào, phân công vị trí xong, bấm kíp đồng loạt cho nổ, kiểu này có nguy hiểm nhưng địch không tài nào cấp cứu nổi khi xăng đã bốc cháy cùng lúc.
Mấy tháng trời tập trung chuẩn bị các mặt, điều nghiên, khí tài, tư tưởng với 11 phương án dự kiến, chỉ có tiến công bằng mọi giá, không có rút lui, đến bây giờ đã đến độ chu đáo, chín muồi. Ban chỉ huy Đoàn 10 báo cáo quyết tâm lên trên đề nghị cho đêm 2 rạng 3/12 năm 1973 "bốc lửa".
Đơn vị nhận được điện số 205/ZN ngày 27/11/1973 của R do anh Tư Nguyễn ký, và số 270/ZN ngày 29/11 do anh Ba Kính- Phó tư lệnh Đoàn 27( sư đoàn 27 đặc công) phê duyệt phương án tác chiến của đoàn.
Sau lễ tuyên thệ tổ chức đơn giản, trang nghiêm trong căn chòi lá của đại đội 5 nằm ngay Rạch Lá, cách ấp chiến lược Qưới Thạnh không xa, có chân dung Bác Hồ, cờ Tổ quốc ngay giữa nổi bật trên nền vải đỏ hàng chữ vàng: " Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", " Ra quân mang chiến thắng trở về", mũi trưởng Hà Quang Vóc hạ quyết tâm: " chưa đốt cháy kho Shell chưa trở về". Sau khi phát biểu căn dặn, động viên lần cuối, Lê Bảy ôm hôn 8 dũng sỹ, chụp chung nhau tấm ảnh kỷ niêm quý giá trước giờ xuất kích, cùng Cao Hồng Ngọt tiễn đưa anh em đến sát mép nước.
Đơn vị lại nhận được điện kiểm tra lần chót của anh Tư Chi ( tướng Trần Văn Trà) nội dung vắn tắt: " các anh đã rờ được bồn xăng chưa, có chắc thắng không, ai chỉ huy trận đánh?", Đoàn nhanh chóng báo cáo lại: " Đội hình 8 đồng chí đã chuẩn bị chu đáo, hạ quyết tâm bốc lửa. Người chỉ huy, trung đoàn trưởng Lê Bảy.
Vào một đêm tối trời lạnh, dòng thuỷ triều từ cửa biển Vũng Tàu theo con sông Lòng Tàu chảy xiết vào Nhà Bè. Bập bồng trên mặt nước, đội hình 8 dũng sỹ như những thiên thần ẩn hiện, gắn bó với nhau bằng sợi dây liên kết, thả trôi từ từ trong đêm tối hướng về kho Shell, với kỹ thuật điêu luyện họ dễ dàng lọt qua tất cả các loại tàu tuần tiễu, qua mặt cảng hải quân như người quen đi chợ.
Đến 21giờ 30 phút tất cả đã leo lên bờ sát mép hàng rào ngoài kho xăng, âm thầm tỉnh táo cùng nhai ngấu nghiến nắm cơm vắt cho chắc bụng trước khi bước vào trận. Nắm chặt tay họ nhìn nhau qua ánh mắt và thủ thỉ câu dặn dò cuối cùng: " Đồng chí nào về được, nhắn lời thăm anh em ở nhà và bà con rừng Sác". Nguyễn Hồng Thế lên đầu vị trí mũi nhọn, đến Vóc, Sỹ, Quân, Rực, Hinh, Tiềm, Bao mũi phó đi sau cùng. Mất 30 phút trước rào chống B40, Thế vừa đưa kéo cắt đến mắt thứ 6, thì có tín hiệu báo động của Vóc, phải lùi lại. Ba tên lính đang đi tuần tra tự nhiên dừng:
- Xẹt, xẹt, xẹt... ba quả pháo sáng vụt ra khỏi ống phóng trên tay, bung dù sáng rực cả một vùng. Tiếng hô to: Việt cộng, dừng lại.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Tất cả im lặng, nhưng đã sẵn sàng phương án thứ 6: bộc phá quét rào, xung phong đồng loạt, đánh bằng kíp nụ xoè theo kiểu " gió lốc". Nhưng vài phút sau chúng nó lại lững thững bước đi. Thì ra đây là thủ đoạn, hù hoạ của bọn lính đi tuần.
Tranh thủ thời cơ, Thế nhanh tay cắt tiếp, 5 phút sau rào B40 đã bị thủng. Toàn đội hình vuợt khỏi rào, đến khoảng trống 200 mét, thì toán lính đi xe đạp đến cách 10 mét. Tất cả nằm xuống yên lặng, chúng vừa khuất lưng đi qua lại lao lên. Thế, Vóc, Quân vừa vượt rào thứ 5 thì một vệt sáng đèn pha quét ngang, tốp lính tuần tra có hai honđa đến ngang chỗ Thế nằm, bỗng thắng két lại một chiếc, Quân sẵn sàng bộc phá ống, nhưng không thấy gì, chúng lại đi tiếp. Thế lại đặc kềm lên mặt rào cuối cùng cắt ráo riết.
0 giờ. Tất cả đã nhảy khỏi mặt tường xuống giáp mép bồn xăng. Tám dũng sỹ nhìn nhau không nói nên lời, mà chỉ đọc rõ niềm vui sướng qua từng ánh mắt long lanh. Lần chót, Vóc nhắc nhở lại nhiệm vụ như thì thầm, cho từng số, mục tiêu khu butagaz giao cho Thế, xong tổ 1 lao vào, Vóc chỉ rõ cho Hinh 6 bồn, Quân 7 bồn, Rực 6 bồn. Riêng tổ 2 gặp địa hình phức tạp, nhưng nhờ rất thuộc ở sa bàn nên cũng cùng đặt trái, điểm hoả đúng theo kế hoạch dã hợp đồng.
0 giờ 20 phút. Bảy dũng sĩ đã áp trái đúng ngay điểm đặt với yêu cầu phải sát " co" ống dầu mép chân bồn, lần lượt ra khỏi rào 3,5mét. Riêng Quân phải né tránh tốp lính gác, nên chậm lại một lúc không kịp ra cửa đúng hẹn.
0 giờ 35 phút kho Shell bùng nổ. Còi báo động rú lên inh ỏi, liên hồi. Trung liên, M79 bắn xối xả vào khu cửa mở. Tàu, xuồng chiến chạy hỗn loạn trên sông. Trên bầu trời không còn yên tĩnh bởi trực thăng, đầm già, phản lực gầm rú ầm ĩ nhả xuống từng cột lửa đỏ nối đuôi nhau. Có nghe thấy tiếng thét nơi giữa sông: " bắt lấy nó, bắt lấy nó". Trong lúc Bao và Tiềm vượt sông đầu tiên lọt vào vòng vây của tốp tàu địch. Tốp thứ hai Sỹ, Hinh, Rực ra đên một phần ba sông bị địch phát hiện bắn súng, ném lựu đạn hàng loạt, anh em nhanh trí tháo dây liên kết, mỗi người thoát ra mỗi ngả. Lúc này Quân vẫn còn trong vòng nhốn nháo, nhanh chân vọt ra dưới ánh sáng như ban ngày, ra đến sông đụng một ghe máy, chúng bắn anh bị thương nhẹ nơi chân, lập tức một quả lựu đạn ném trả nổ tung. Quân chạy thoát. Vóc và Thế đón đồng đội ở cửa mở ra sau cùng., đến bờ sông quan sát thấy địch phong toả tứ bề không sao xuống nước được. Với kinh nghiệm dày dặn, hai anh lùi lại tìm chỗ ém an toàn ngay sát chân rào suốt ngày hôm sau mới tìm cách vượt sông thoát về căn cứ.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Trong kho xăng lúc này gần 50 tiếng nổ lục bục liên hồi, bốc lên từng cột khói, tiếp theo những vừng hồng nổi lên như cơn bão lửa càng lúc càng thêm dữ dội sáng rực cả bầu trời. Quan sát theo dõi từ xa cách 20 cây số vẫn thấy lửa khói rực trời. Suốt những ngày hôm sau, khói đen phủ kín cả bầu trời Sài Gòn- Gia Định. Đám cháy kéo dài 12 ngày đêm mù mịt. Địch tập trung tất cả các phương tiện chữa cháy hiện đại của Tổng trấn Sài Gòn, hải quân, lục quân, kể cả máy bay rải phủ chất hóa học cũng không dập tắt nổi. Cuối cùng, phải bằng cách xả ống các bồn dầu gần kề để chống lây lan của kho Caltex làm cho dầu chảy tràn xuống sông Sài Gòn, trôi qua Soài Rạp, chảy tới Vàm Láng, Gò Công hàng trăm ngàn tấn ra biển cả. Người nông dân ven triền sông phấn khởi chạy ra khua vết dầu loang bao vào chân gốc lúc của ruộng cấy đang xanh.
Địch phải thú nhận qua các đài UPI,Manila, AFP và báo chí công khai vì không che giấu được sự thật là kho xăng Shell hoàn toàn bị thiêu huỷ, cháy 35 triệu ga lông, khoảng 250 triệu lít, 12 bồn butagaz, cơ sở trộn nhớt, khu nhà lính cháy trụi, và chiếc tàu Hà Lan trong tải 12 ngàn tấn bị cháy lây. Thiệt hại tương đương 20 triệu mỹ kim.
Đến hai ngày sau thì 6 dũng sỹ đã cắt rừng, lội sông về đến Sở chỉ huy an toàn. Duy có hai đồng chí Bao và Tiềm theo tin địch và bà con kể lại bị 7 chiếc tàu vây bắt, khi áp sát thì hai trái lựu đạn quyết tử nổ tung. Hàng chục tên giặc chết và cùng chìm luôn theo hai anh dưới lòng sông.
Báo chí Sài Gòn, như Đại Dân Tộc, Độc Lập, Đông Phương sôi nổi đưa tin, bình luận, nhất là nói về nạn thiếu hụt xăng dầu trầm trọng. Nguyễn Văn Thiệu pảhi ra lịnh ngưng cuộc hành quân lên Kiến Đức, huỷ bỏ kế hoạch đánh phá vùng giải phóng. Quân thù điên đầu không rõ Việt Cộng đánh cách nào, ở đâu... có tờ báo cho là bị Việt Cộng pháo kích. Mãi cho đến sau này khi vào tiếp quản cơ quan Bộ Quốc phòng Nguỵ phát hiện hồ sơ vụ án kho Shell chất đầy 4 tủ sắt, qua hàng trăm câu hỏi, với kết luận trong biên bản mang ký hiệu 0481/TTLQ/ĐT:" Đây là một trận đánh do nội tuyến kết hợp với đặc công Việt Cộng thực hiện".
Trận đánh ngày 3 tháng 12 năm 1973 đã được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng nhì. Tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang cho hai đồng chí: Hà Quang Vóc và Nguyễn Hồng Thế/. Tuyên dương hành động anh hùng hai đồng chí: Nguyễn Công Bao, Phạm Văn Tiềm và tặng thưởng huân chương chiến công hạng hai cho 4 đồng chi: Sỹ, Rực, Hinh, Quân. Đơn vị cũng nhận được bức thư từ trong nội đô:
" Kính gửi đơn vị Quân giải póng đốt kho xăng Nhà Bè,
Anh em công nhân chúng tôi vô cùng phấn khởi được chứng kiến cảnh hỗn loạn của đô thành Sài Gòn ngày 3 tháng 12 năm 1973 khi các anh đốt cháy kho xăng.
Vô cùng khâm phục và ngưỡng mộ lòng dũng cảm, tài trí của anh em, bằng cách nào mà lọt được vào khu vực kho với sự phòng ngự tối tân của Mỹ, Anh ở một khu chứa nhiên liệu quốc phòng lớn ở miền Nam. Anh em công nhân Sài Gòn chúng tôi xin nguyện đoàn kết đấu tranh chống bất công của chánh quyền Thiệu, cùng Quân giải phóng, buộc chúng phải thi hành đúng hiệp định Paris.
Sau đây, chúng tôi có món quà 500 đồng gởi tặng các anh trong ngày vui chiến thắng.
Thay mặt anh em công nhân Sài Gòn.

TƯ CÔNG NHÂN

Kính nhờ tỉnh Biên Hoà chuyển giùm cho đơn vị nào đốt kho xăng Nhà Bè"
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
PHÁT ĐẠN B40
Sau thất bại Mậu Thân 1968 đến thời kỳ 69-72 trong chủ trương xuống thang, nguỵ hóa cuộc chiến, quân Mỹ dồn về khu vực quốc lộ 15 khá đông đúc để chuẩn bị rút xuống tàu về nước. Khu lòng chảo Nhơn Trạch trở thành điểm nóng với rừng chồi thưa thớt, diện tích trên dưới 50 cây số vuông, nơi đã từng là căn cứ địa cách mạng che giấu các cơ quan lãnh đạo, lực lượng võ trang địa phương bám trụ làm bàn đạp đánh phá các chi khu Long Thành, Nhơn Trạch và tiến công vào nội đô Sài Gòn- Gia Định từ hướng đông nam. Đoàn 10 rừng Sác cũng triển khai lực lượng ở đây bám kho bom Thành Tuy Hạ, kho xăng Nhà Bè, bến cảng Cát Lái.
Do vậy vùng này đã chịu đựng bom đạn ác liệt suốt ngày đêm. Các loại phi cơ, đại bác thi nhau nhả đạn mở đường cho xe tăng thiết giáp của Sư 1 Anh cả đỏ từ Long Thành qua Phước Thiền, Phước Lai thành đội hình hàng ngang càn sập cỏ cây. Lực lượng cách mạng phải xuống địa đạo hoặc lách ra xa, chui vào các ấp chiến lược, thật là khó trăm bề.
Trong một đêm tối trời của những ngày hanh hanh gió bắc, Lê Bảy đã điều động lực lượng, ém quân xuống mép rừng Sác dọc sông Ông Kèo để đối phó với đợt ủi phá rừng ngày mai mà anh em gọi là “ Úp lòng chảo” đã tiến sát đến sát mép giếng nước huyện uỷ. Vấn đề gay go nhất là còn trong tay 25 thương binh sau thời gian bám trụ chông càn chưa đưa về tuyến sau được, trong lúc rừng Sác mênh mông nước ngập không một chỗ nào gọi là an toàn. Nếu điều về rừng Giồng, phải vượt qua quốc lộ 15 dầy đặc quân thù. Còn đang chờ liên lạc với đại đội quân y chị Tư Mến dưới sông Thị Vải, tất cả khiêng vác, dắt díu nhau, mờ sáng mới đến đường ủi Bàu Lồng Sở Ông Cố. Trực thăng đầm già bắt đầu hoạt động, bộ binh địch cũng bắt đầu hành quân. Anh em thương binh chỉ với 4 tay sung bảo vệ nằm gọn trong vòng vây giữa khu lòng chảo do chính uỷ Lê Bảy trực tiếp chỉ huy. Vừa may, đến được ba căn hầm của Đại đội 240 còn nguyên vẹn đang là vô chủ, mọi người cùng chia nhau xuống tạm trú ẩn nguỵ trang lại cẩn thận, ăn gạo rang, uống nước bình toong, sẵn sàng chịu đựng một ngày để tối lại mới tiếp tục hành quân.
Tất cả im lặng hồi hộp từng phút theo dõi mọi động tĩnh xung quanh. Bỗng có tiếng động…rắc…cây kho bị đạp gãy ở hai phía rồi im bặt. Đức Inh, chiến sỹ trinh sát bò vào báo cáo: “ Một đại đội biệt kích Mỹ nằm án ngữ vô tình sát sau lưng, cách miệng hầm 50 mét, chúng chưa phát hiện được ta”.
Lê Bảy cho triển khai mỗi miệng hầm một quả ĐH10, một quả mìn mo căng dây điện luồn vào trong, vỏn vẹn chỉ còn sáu quả mìn chờ quyết tử cộng với khẩu B40 và 3 khẩu AK.
Trực thăng quần đảo sát ngọn cây, quạt trống từng cụm cây bụi cỏ nhưng nhờ nguỵ trang tốt nên chưa bị lộ hầm. Một chiến sỹ đưa mũi sung AK rà theo thằng giặc lái mắt xanh trên đầu. Chỉ cần một phát đạn thôi là kết liễu đời thằng giặc Mỹ hung hăng. Lê Bảy lại phải truyền lịnh khẽ: “ Tuyệt đối không được nỏ súng khi chưa có lệnh”, đề phòng anh em tức quá đánh trả thì nguy hiểm, chỉ cần một tiếng động nhỏ lập tức bộ binh Mỹ tràn vào hầm ngay.
Chờ đợi và chờ đợi.
8 giờ 10 giờ, 12 giờ vẫn căng thẳng… đến 14 giờ tiếng xích xe tăng ủi rừng nghe rõ dần, rõ dần.. từ hướng Phước Thọ dội vào. Chúng tiến quân đúng hướng 3 hầm thương binh đang trú ẩn. Hai Quyết, đại đội trưởng kề sát tai Lê Bảy nói nhỏ : “ Chỉ còn 2 viên đạn B40, anh cho xuất kích đánh trước khi chúng tới để bảo vệ anh em”.
Trực thăng rà sát quạt mát cả tóc, một tình huống hết sức khó xử trí. Thực ra bắn 2 phát đạn cháy được 2 chiếc xe tăng trong hàng mấy chục chiếc đang ò ạt tiến công, không cứu vãn được tình thế rồi bộ binh tràn qua, cả đội hình bị tiêu diệt ngay.
Người chỉ huy kiên trì chờ đợi 15 giờ, tiếng xích sắt nghiến cây ngã ào ào. Rõ ràng chúng tới sát miệng hầm, đã thấy đất chuyển động theo tiếng động cơ của thiết giáp nặng nề. Lúc này nếu nổ hàng loạt đạng AK vào xe tăng thì không có ý nghĩa gì.
Không ai bảo ai tất cả dồn mắt ra phía miệng hầm chờ đợi. Số thương binh mệt dựa lưng vào thành đất nhắm mắt hồi hộp. Lê Bảy, Hai Quyết ngó đầu lên quan sát mồ hôi trán vã ra, cả thân người ướt đẫm không vì nóng bức mà vì thần kinh căng thằng tột độ.
Đến 16 giờ chiều, chỉ còn 10 thước nữa, đụng chiếc xe tăng đi đầu. Nhìn kim đồng hồ chỉ 16 giờ 15 phút, chỉ chờ có vậy vì kinh nghiệm cho hay rằng quy lụât họat động của sư đoàn Mỹ này cứ đến chiều phải co cụm lại theo điều lịnh chính quy. Không còn do dự dược nữa, Lê Bảy đưa tay vỗ vào vai Quyết. Hiểu ý, anh thúc cùi chõ vào Cường, với động tác của chiến sỹ đặc công, nhanh như chớp cặp nách khẩu B40 vọt ra khỏi hầm thì còn cách xe tăng chưa đầy 5 mét, nhờ còn rừng thưa che mắt địch nên tiếp cận sát mà chúng không hay. “ Đoàng” một tiếng nổ chat chúa chắc nịch vang lên, đich không còn phân biệt được, tưởng xe bị trúng mìn Vi-xi. Chiếc xe tăng đi đầu trúng đạn. Cường bò trở lại hầm, máu me đầy mặt. Thế là thành 26 thương binh.
Chúng gọi trực thăng quay trở lại rà sát, yểm trợ toán lính thợ sửa chữa chiến xích bị cháy đứt tung ra. Xong việc, chúng lịnh cho lùi xe về đội hình co cụm vì không dám ngủ ban đêm. Cả chiếc xe hỏng cũng được kéo theo, tiếng gầm rú xa dần, xa dần.
Trực thăng mỏi cánh bay về sân bay Biên Hoà. Các khẩu pháo nóng nòng mệt mỏi im tiếng. Đại đội biệt kích rút lui từ bao giờ. Đến lúc này anh em mới thở phào nhẹ nhõm. Mặt trời vừa khuất bóng, cho thương binh nhai tạm nắm gạo rang, hớp ngụm nước dự trữ cuối cùng, đội hình lại dìu dắt nhau xuống bến. Đã có chiếc thuyền đại đội quân y chờ đón, xuôi dòng về hướng sông Thị Vải. Gió lùa mát lạnh, rừng Sác mênh mông…
 
Chỉnh sửa cuối:

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
CẢ NHÀ ĐI BỘ ĐỘI
Không chịu nổi ách kìm kẹp của Mỹ-nguỵ lại nghe tin rằng ở ngoài rừng đước có cách mạng về, ông Năm Hổ cùng 3 con trai, vào một đêm tối trời từ xã Cần Thạnh bỏ nhà, bỏ tất cả xé rào đẩy ghe bơi vào sông Tiều, Cá Nháp tìm đường cứu nước và tự cứu mình. Vậy là Đoàn 10 khi mới hình thành đến nay được bổ sung vào quân số 4 chiến sỹ tân binh người địa phương.
Suốt mấy năm liền với cây súng bá đỏ trên vai, tay chèo tay chống họ lặn lội khắp nơi sông rạch cùng anh em đánh tàu trên Lòng Tàu, chống địch lấn càn, đột phá chi khu Quảng Xuyên, đánh chìm tàu Mỹ ở Lôi Giang diệt hơn trăm tên…Họ luôn có mặt và lớn lên cùng với chiến công thành tích của trung đoàn.
Nhưng trong chiến trận có ai biết được đường bay của làn tên mũi đạn rủi may. Trong một trận đánh trên sông Lòng Tàu, tiểu đội trưởng Hùng trúng đạn hy sinh đúng vào cái tuổi gần 30, hài cốt được gói trong bọc ny lông đưa về bến bắc rừng. Ba Năm đến xem cũng chưa biết là con mình. Lần đầu tiên, ba Năm Hổ lau nước mắt tiễn con về nơi an nghỉ để tiếp tục lao vào trận chiến.
Và một năm sau, đại đội ĐKZ phục kích bắn chìm 3 tàu giặc trên sông Đồng Tranh. Khi vác nòng pháo lội sình rút lui, một viên đạn mồ côi, bay lạc trúng đầu trung đội phó Phước, anh ngục ngã dưới gốc chà là. An hem đưa về chôn cất ở gò cát Bà Bông. Lần này đơn vị chưa dám báo tin dữ đến cho ông Năm. Dần dần ba Năm cũng biết. Lòng quặn đau thương tiếc, nhưng trong suy tư cũng có niềm tự an ủi là do chiến trường quá ác liệt, căng thẳng, không riêng 2 đứa con của mình, mà có hàng trăm con em từ miền Bắc hậu phương lớn xa cha mẹ, vượt Trường Sơn chi viện vào, cũng đổ máu trên sông nước rừng Sác này. Tuy mất con nhưng đơn vị đánh được nhiều tàu, giết được nhiều giặc có làm dịu bớt đi phần nào nỗi đau riêng của tấm lòng người cha già.
Dự kiến trước tình hình, Lê Bảy bàn cũng ban chỉ huy rằng còn tiểu đội trưởng Hiệp con trai độc nhứt của ông Năm, phải giữ gìn cho giọt máu cuối cùng này, nên điều động anh về đơn vị trinh sát bảo vệ, hạn chế phân công Hiệp đi tác chiến nơi xa và điều ba Năm về văn phòng Ban chỉ huy để cha con gần gũi hơn
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Địch tiếp tục bao vây phản kích quyết liệt sau Mậu Thân,chiến trường căng thẳng ngày đêm, từ người chỉ huy đến chiến sỹ đều phải vác súng đi tuần tra cảnh giới, bám đánh địch ngoài công sự.Hai trận tuyến cách nhau không đầy trăm mét. Một tình huống ác liệt lại xảy ra, A trưởng trinh sát Hiệp vác ĐH10 với cuộn dây điện bám đánh địch, đã nổ một quả tiêu diệt nhiều tên tại Bờ Tràm. Khi di chuyển, Hiệp vấp ngay vào trái mìn clây-mo Mỹ gài sẵn đã nổ tung, tan xác tại Ông Trúc cùng một số anh em khác. Sau khi địch rút, và mãi cho đến bây giờ cũng không tìm được hài cốt, vì vung vãi ra khắp đồi cát mênh mông.
Cuộc đời ba Năm trở nên trầm lặng. Nếp nhăn trên khuôn mặt hằn sâu hơn, nụ cười trên đôi môi già bớt tươi đi.Cái tuổi 70 nó đến, nhưng ba vẫn còn rất khoẻ, dần dần cũng nguôi cơn sầu não, vì tất cả cán bộ chiến sỹ trung đoàn như một gia đình đã trân trọng kính yếu, thân gọi là ba Năm với tất cả tấm lòng thực sự coi như cha ruột của mình. Và ngược lại, ba cũng thương yêu bầy con trẻ như 3 đứa con mình đã hi sinh, nên ba vui vẻ, cởi mở hoà mình với đơn vị, quên cả tổn thất riêng tư.
Tại Sở chỉ huy ba Năm thường cùng Lê Bảy chạy ghe máy đi móc ráp cơ sở hậu cần trong nội thành ra. Nét mặt thật thà chất phác,giọng nói nhẹ nhàng hiền hậu làm cho ông bà cơ sở dễ làm quen, bắt chuyện và kết nghĩa sẵn sàng cho gạo muối tiếp tế cho bộ đội. Còn vì một lẽ khác hơn là ông già vậy mà còn làm được lính giải phóng, động viên người khác tham gia. Họ có niềm tin rằng ba Năm không khi nào phản bội, đầu hàng giặc với ba đứa con hi sinh, vì người dân lúc này tiếp xúc với cách mạng họ không hề sợ giặc, nhưng tâm lý chung là rất sợ bọn đi chiêu hồi khai báo, gây thiệt hại cho bà con bên trong.
Ba là một ngư dân chân lắm tay bùn, quen với sông nước miền duyên hải nên có biệt tài về "lội cua, mò sò huyết", tuy cấp chỉ huy quy định hạn chế ba đi lội rừng, trời giá lạnh nguy hiểm, khổ nỗi ông già không chịu ngồi yên. Ông thường nói : " Một ngày tao không đi rừng lội sình là tao bị bịnh ngay". Trời vừa sáng, còn giá lạnh đã thấy ba cột ngang lưng mấy sợi lạt dừa, tay xách hai cây móc, một dài một ngắn nhẹ nhàng bước xuống sình, ngoảnh lại dặn với thằng con bảo vệ: " Mày nói với thằng Bảy thủ trưởng, tao đi lội cua một lát. Nghe bữa nay tụi nó họp đảng uỷ, cần bồi dưỡng cho bây một bữa". Thật vậy, chỉ vài tiếng đồng hồ đã thấy ba vui vẻ xách xâu cua đủ cỡ hơn năm ký lô và bao sò huyết về, ngồi rửa chân trên sàn, ba ngoảnh đầu cười : " Thằng Tám thủ trưởng đừng phê bình tao. Ba cũng tham gia với tụi bây giờ đánh trận đây".
Bom đạn rền vang, máy bay tàu chiến ầm ĩ, mặc kệ.
Đời ba giờ chỉ có thú vui với điếu thuốc rê quấn bằng giấy nhựt trình, ngồi trên sạp nước mấp mé, nước thuỷ triều dâng lên, nhâm nhi chén rượu đế với con khô đối, bên cạnh chiếc đài bán dẫn Sony nghe tin tức thời sự và lâu lâu, lội xuống rừng cho khoẻ tuổi già.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng được tin đứa con dâu vợ của Hùng gặp nhau trên rừng cũng hi sinh trên rừng giồng. Có lẽ đơn vị cũng không rõ tên tuổi thật của ba vì đâu có khai sanh lý lịch gì. Khi làm quyết định xuất ngũ phục viên, xét công lao thành tích xứng đáng phong cấp hàm thượng sỹ. Cái tên mới thượng sỹ của ba Năm được ghi thêm khi ba về với gian nhà tình nghĩa tại địa phương, do huyện Cần Giờ xây tặng. Lâu lâu thấy nhớ, leo lên xe đò về Nhà Bè thăm đơn vị, đến nhà thằng Bảy, thằng Tám thủ trưởng chơi đôi ngày. Hoặc ngược lại, anh em đi công tác ghé qua thăm hỏi đồng chí thượng sỹ ba Năm Hổ của mình.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
HỘI ANH CHIẾN SỸ
Sáng tinh sương, không khí lành mạnh của màu đông tràn ngập, toả khói mờ mờ trên mặt sông rừng Sác. Lê Bảy, trung đoàn trưởng Đoàn 10 đặc công, khoác ngoài chiếc áo sỹ quan nguỵ cũ mèm, đầu đội nón nỉ đen bạc màu, ngồi trên mui phía sau lái chiếc ghe lắp máy dầu F5, thong chân trái giữ dây ga, chân phải ngoắc ra phía sau kềm đòn tay lái dài đến tận mui, để còn thừa hai cánh tay sử dụng chiếc ống nhòm quân dụng quan sát hải quân địch từ xa, khẩu AK bá xếp kẹp dưới đầu gối phủ lên đoạn lưới nguỵ trang đề phòng trực thăng rà thấp, không tốc lên được. Đàng trước mũi ghe, Đức Inh và Ba Chiến hai chiến sỹ bảo vệ đội nón lá thủ khẩu AK và túi lựu đạn mi ni, họ chạy khắp sông rạch trên sông nước rừng Sác cả ngày lẫn đêm với phương án tác chiến đã chuẩn bị sẵn : “ Nổ máy lướt sóng bình thường dưới tầm quan sát soi mói của trực thăng đầm già vì đã có lá cờ sọc ba que ( cờ nguỵ quyền Sài Gòn) phất phới tỏ vẻ là trung thành với chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Hoặc khi phát hiện tàu hải quân Mỹ-nguỵ thì nhanh chóng luồn rạch vào các tắc, rạch nhỏ chằng chịt, nhưng nếu tao ngộ bất ngờ không còn con đường nào khác, nhứt thiết không thể bỏ ghe nhảy xuống nước hứng hang loạt đạn xối xả hay lựu đạn dồn dập nổ tung, chỉ còn cách ga-răng- ty từ từ tiến về phía tàu chiến giả như ghe ngư dân chấp nhận xét hỏi, nhanh tay tung lựu đạn hàng loạt qua tàu địch và nai khẩu AK quét trên boong, nhảy qua đánh địch. Họ tự xác định với nhau là sẽ vinh dự đón huân chương chiến công, bảo tồn mình hoặc là cầm chắc trong tay ba bằng liệt sỹ “ Tổ Quốc Ghi công”. Do vậy, họ rất yên tâm bình thản băng băng trên sông nước giữa vòng vây của máy bay tàu chiến địch.
Vừa đến vàm Tắc Hông, gặp ghe máy ông Ba Râu từ ấp chiến lược Tam Thôn Hiệp chạy ra đi đánh cá, họ mừng rỡ ngoắc tay nhau và áp sát hai ghe vào bờ níu tàn bụi mắm.
- Chào chú Ba, sao bữa nay ra sớm vậy? Lê Bảy hỏi trước
- Ờ, các cháu, mấy ngày nay mong gặp anh em quá, giờ mới đụng đầu.
Rồi hai người ngồi trên sạp, ông Ba mặt đỏ rần bất ngờ hỏi vui
- Chú Bảy có coi hát bội không?Vậy chú thấy trên sân khấu, mặt xanh thì trung hay mặt đỏ trung?
- Dạ có chớ. Thông thường mặt đỏ là tôi trung, mặt xanh là nịnh thần, ai cũng biết.
- Vậy chú coi tui là mặt xanh hay mặt đỏ? Tụi tui sống trong sự kềm kẹp của ấp chiến lược nhưng lúc nào cũng trung thành với Cụ Hồ, với quân giải phóng đàng mình.
Còn chú Bảy mày mặt xanh dờn kìa
- Nói thiệt với chú, sang giờ chạy máy sương lạnh quá sao không xanh, tái nữa là đàng khác.
Lê Bảy cười đưa tay đón một chén nhỏ rưọu đế cho chú Ba vừa rót trong can ra, bọt cườm còn đóng vòng quanh miệng, làm cạn một hơi không cần mồi. Người dân làm nghề cua cá trên sông nước ở đây, thông thường có thói quen, bên phải can xăng thì bên trái can rượu nhằm chống chọi với muỗi mòng gió lạnh thâu đêm, vả lại cũng sẵn có mồi cua cá.
Ông Ba nói tiếp:
- Đó thấy chưa, chú mày thiệt là trung chánh hiệu rồi đó. Giờ thì trung nói chuyện với trung, có gì chú cháu mình bàn coi.
- Bữa nay theo ngày hẹn, làm sao triệu tập anh chị em mình họp mặt “ Hội Anh Chiến Sỹ”thường kỳ, địa điểm như cũ khoảng 9 giờ. Với lại lúc này tụi nó vây chặt các cửa khẩu, đơn vị hết gạo nhờ bà con mua giúp cho một ít.
- Cái gì chớ cái đó dễ thôi, tôi quay vô một lát, y hẹn địa điểm cũ nhé.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top