[Funland] Một thời Rừng Sác! - Đại tá Lê Bá Ước. (Đặc công rừng Sác)

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Là một trong những người chỉ huy đơn vị đặc công đã cùng với quân dân Rừng Sác anh hùng bám trụ, chiến đấu nơi đây suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, vượt qua bao ác liệt hiểm nghèo, lập nên những chiến công đánh phá mục tiêu kho tàng bến cảng như: kho bom Thành Tuy Hạ, kho xăng Nhà Bè, pháo kích Dinh Độc Lập, toà đại sứ Hoa Kỳ nơi sào huyệt của bộ máy chiến tranh xâm lược, đánh cháy, chìm hàng trăm tàu giặc các loại trên sông Lòng Tàu, nơi bến cảng. Trung đoàn 10 đặc công lập được những chiến công làm nức lòng nhân dân Nam Bộ và quân dân cả nước, mãi mãi là nỗi kinh hoàng cho quân xâm lược và đồng bọn. Nhưng những chiến công ấy cũng phải trả giá bằng máu của bao anh chị em, cán bộ chiến sỹ ở khắp mọi miền của Tổ Quốc, họ chấp nhận hy sinh cho độc lập tự do và mãi mãi nằm lại trên mảnh đất sình lầy sông nước này, cho đến bây giờ vẫn còn hơn năm trăm hài cốt liệt sỹ chưa tìm thấy, đã trôi dạt ra biển cả hoặc làm mồi cho cá sấu, cua kình. Tất cả những điều đó đã thôi thúc tôi cầm bút ghi lại đôi dòng về cuộc sống chiến đấu của quân dân rừng Sác.
Hơn hai mươi năm qua có một vài bộ phim, quyển sách, bài báo viết về rừng Sác, nhưng sự thực cũng chưa nói hết được tất cả những gì cần phải nói về một chiến trường mênh mông sông nước quanh năm mặn đắng, vô cùng khó khăn khốc liệt mà người lính phải ngày ngày phơi mình dưới bom đạn, chịu sự chà xát của B52 rải thảm, của chất độc hoá học, về sự dũng cảm tuyệt vời, lòng yêu nước sắt son vô bờ bến của cán bộ chiến sỹ đặc công, của những ông cha, bà má, người chị, em gái nơi mảnh đất vùng ven thân thương này.
Qua tập hồi ký MỘT THỜI RỪNG SÁC , dù không phải là người cầm bút chuyên nghiệp, tôi chỉ xin được ghi lại đôi điều, một số kỷ niệm, sự việc, chiến công của đồng chí, đồng bào. Sức mình có hạn, chắc chắn không thể nào phản ánh được đầy đủ những chiến công, kỷ niệm sâu sắc của đồng bào đồng chí rừng Sác, những mong anh chị em bè bạn bổ sung cho bản ANH HÙNG CA RỪNG SÁC thêm hoàn chỉnh, để cho các thế hệ mai sau lưu truyền và hình dung được phần nào về một thời cha anh đã đánh giặc. Là một người lính được hưởng cuộc sống và hoà bình, hạnh phúc từ sự hi sinh của đồng đội và nhân dân rừng Sác, tôi xin có mấy vần thơ để nói lên tình cảm của mình:

Bâng khuâng tấc dạ niềm thương nhớ
Lộng gió trên sông đẹp bóng cờ
Mãi mãi hiên ngang Rừng Sác đứng
Mỗi người ngã xuống một bài thơ

LÊ BÁ ƯỚC

 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
CHIẾN KHU RỪNG SÁC
Địa bàn rừng Sác sình lầy, ngập mặn quanh năm, sông rạch chằng chịt từ sông Soài Rạp vắt ngang qua quốc lộ 15 ( nay là quốc lộ 51), từ Nhà Bè theo con sông Lòng Tàu chảy ra đến của biển Vũng Tàu, với diện tích hơn ngàn cây số vuông toàn là rừng đước, chà là, bần, mắm. Ngoài số ngư dân trong các ấp chiến lược bung ra bằng ghe xuồng làm ăn sinh sống với nghề hạ bạc theo dòng thuỷ triều lên xuống, hầu như không có sự sống của con người. Là một trận địa sát nách Sài Gòn- Gia Định về hướng đông nam, nơi cơ quan đầu não , sào huyệt của bộ máy chiến tranh xâm lược với con sông Lòng Tàu là cổ họng vận chuyển tiếp tế hậu cần cho hàng triệu quân Mỹ- ngụy, mà Đoàn 10 đặc công được Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam phân công làm nhiệm vụ thọc sâu áp sát, bám trụ bằng mọi giá chiến khu rừng Sác để tiến công liên tục vào kho tàng, bến cảng từ Cát Lở, Rạch Dừa đến Nhà Bè, Cát Lái, Thành Tuy Hạ, đánh sâu vào nôi đô. Khống chế ngăn chặn con sông chiến lược này, đương nhiên phải chấp nhận đương đầu với 5 tiểu khu quân sự: Gò Công, Long An, Gia Định, Biên Hoà, Phước Tuy và 2 Đặc khu Vũng Tàu, Nhà Bè. Chúng thường xuyên được sự chi viện đắc lực của lực lượng không quân dã chiến 3 Mỹ, sau là Quân đoàn II nguỵ kể cả các trận địa pháo lớn, pháo nòng dài của hạm đội 7 từ ngoài khơi bắn vào, sự phối thuộc của các lực lượng hải quân, các lữ đoàn lính thuỷ đánh bộ thiện chiến hành quân đánh phá. Một cuộc sống và chiến đấu của hàng ngàn chiến sỹ hoàn toàn trên mặt nước sình lầy, phải tự lưc mọi bề, người này ngã xuống, người khác tiếp tục tiến lên, chiến công nối tiếp chiến công làm vang động cả một vùng thời đánh Mỹ. Sau hai mươi năm giải phóng, các đoàn tham quan của lãnh đạo, báo chí, của lớp trẻ khi ngồi trên tàu chạy ngược dòng sông nước mênh mông, nghe kể lại những câu chuyện rừng Sác, anh em đã phải thốt lên một cách chân tình " Thật không hiểu nổi hồi đó các anh, các cô các chú Đoàn 10 sống như thế nào mà đánh thắng địch. Thật là anh hùng".
....
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Tướng Oétmôlen đã viết trong bản tường trình người lính: “ Ở đây (rừng Sác) lính Mỹ đã phải trải qua những điều kiện gay go và khác thường mà chưa một người lính Mỹ nào đã phải trải qua. Vì binh lính Mỹ phải đi tuần tra hàng giờ trong nước nên các đại đội phải thay đổi thường xuyên, luân phiên nhau để tránh các bệnh ở chân và ở da, binh lính ngủ trên các đệm bơm không khí và đặc biệt trong lúc thuỷ triều lên cao, họ phải thức để khỏi bị ngập nước. Những cái sàn bằng gỗ cao hơn mặt nước thuỷ triều dùng làm bãi cho trực thăng đổ bộ, đây là một cuộc chiến đấu kỳ lạ trong một cuộc chiến tranh kỳ lạ…”. Nói về các lữ đoàn lính thủy đánh bộ, Oétmôlen đã viết:: “ Ba lính, thường mới chọn được một, những tên lính đã lừng danh trong những cuộc đổ bộ ở Thái Bình Dương và châu Âu trong chiến tranh thế giới thứ hai…”. Và một đoạn nói về Việt Cộng rừng Sác: “ Từ lâu tôi vẫn sợ Việt Cộng đánh chìm những chiếc tàu lớn dọc đoạn đường bốn mươi dặm của sông Sài Gòn nhằm chặn con đuờng thuỷ huyết mạch từ Sài Gòn ra biển. Con đường chính này, chảy qua một vùng rộng 50 dặm vuông gồm toàn đầm hồ, cây sú, cây vẹt và có hàng ngàn phụ lưu, một vùng gọi là rừng Sác, được coi là căn cứ lý tưởng cho Việt Cộng sử dụng đánh tàu bè…”.
Sau tết Mậu Thân 1968, Mỹ tổ chức phản kích, tập trung lực lượng hải quân với hàng trăm tàu các loại lớn nhỏ từ bo bo, khinh tốc cho đến thập ác hạm tàu chở lữ đoàn 199 đổ quân tiến vào sông Ông Kèo, bao vây diệt Sở chỉ huy Đoàn 10 đóng cách Sài Gòn khoảng 15 cây số đường chim bay. Để đảm bảo an toàn, vào đem tối trước đó bắt đầu từ 19 giờ cho đến 7 giờ sáng tất cả sáu lượt “B” xanh- căng-dơ (B52 theo cách nói của dân Sài Gòn) từ đảo Guam đến rải thảm bom toạ độ dọc từ Ông Kèo xuống Tắc Chợ, Bà Bông đến Ba Voi thành vệt dài trên toàn bộ đội hình của trung đoàn. Thật khủng khiếp, trong nội đô rung rinh tiếng chấn động, cứ khoảng cách hai loạt bom B.52 vừa dứt thì chiếc máy bay hai thân OV10 ì ì trên bầu trời, mở máy phát kêu gọi liên hồi: “Tử thần, tử thần, cán binh Đoàn 10 hãy chiêu hồi, chiêu hồi” kèm theo tiếng đờn cò rên rỉ, tiếng trẻ nhỏ gọi “Ba ơi, Ba ơi”, tiếng vợ kêu thảm thiết “anh ơi, về đi anh ơi…”. Anh chị em đơn vị dưới này vẫn bình thường, vui vẻ coi như được nghe một đoạn hài kịch. Lê Bảy ngồi xem đồng hồ, hễ sắp đến loạt bom, dùng điện thoại thông báo cho tất cả toàn tuyến vào hầm trú ẩn đắp nổi khỏi mặt đất (vì không có chỗ nào cao ráo) sình lầy. Dứt đợt sóng xung kích, lại chui ra ngồi uống trà dưới ngọn đèn dầu leo lét coi như chẳng có chuyện gì xảy ra. Qua trận oanh kích này phía không quân Mỹ với 6 đợt B.52 chỉ làm hy sinh 2 chiến sỹ Ban quân y vì đi bắt cá để cải thiện, về hầm không kịp.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Mờ sáng bắt đầu cuộc tiến công vào Ông Kèo, tưởng rằng theo lý thuyết quân sự Hoa Kỳ thì sau khi B.52 rải thảm chỉ cần cử sỹ quan tác chiến mang sổ tay vào ghi chiến tích, nhưng chúng đã lầm to, bị sự chống trả quyết liệt của Đoàn 10 từ trong khói lửa đạn bom vùng dậy. Sau 20 ngày bị vây đánh, đơn vị đã bắn cháy, chìm 40 tàu chiến các loại có chở bộ binh. Tên chuẩn tướng lữ trưởng lữ 199 bị gãy cột sống khi trực thăng hạ cánh trên chiếc tàu thập ác, hứng một loạt đạn B41 của đại đội 12, hàng trăm xác Mỹ chìm sâu xuống dòng sông Ông Kèo làm mồi cho cá sấu đã từng nổi tiếng từ lâu. Bắt đầu với tiền lệ này, cá sấu rừng Sác quen mùi thịt sống, hễ nghe tiếng sung nổ là lao vào tìm mồi. Cá sấu đã quật đuôi nhe hàm răng nhọn, nhai gọn hai Trung đội trưởng đặc công Nguyễn Nghĩa và Trần Khét, những cán bộ dũng cảm bơi lôi như rái cá, và người chỉ huy đơn vị phải ra lệnh cấm chiến sỹ lội qua đoạn sông này để bảo đảm an toàn.
Rừng Sác một thảm đước xanh tồn tại hàng trăm năm qua với nhiều thân cây rễ chằng chịt, cao vút, tàn lá phủ xanh kín mặt sông đến nỗi hành quân ban ngày bằng ghe xuồng qua các tắc Chảng Hảng, Ông Thọ… phải đốt đuốc lên mới thấy đường. Nhưng sau những thất bại nặng nề trên sông Lòng Tàu, các bến cảng, địch phản kích điên cuồng dùng máy bay rải chất độc hoá học nặng liều xuống toàn bộ khu rừng, mà đài BBC lúc bấy giờ bình luận: “Mỹ sử dụng chất độc nồng độ cao để có thể đến 25 năm sau, cây rừng Sác mới hồi phục…”. Chỉ còn lại cây đứng nguyên hình rụng lá, anh em phải đắp hầm nổi, nguỵ trang bằng màu cây khô để trú ẩn, đến lúc cây mục ngã rụi xuống còn trơ mặt nước mênh mông, thì tìm những chòm cay mới mọc cao đến đâu, đưa công sự lên theo đến đó. Làm sạp trên mặt nước, ăn ở sinh hoạt. Không như sự tính toán của Mỹ, chỉ vài ba năm thì cây đước đã hiên ngang trồi lên. Màu xanh lại tiếp tục che phủ cho bộ đội chớ không cần chờ đến một phần tử thế kỷ?.
...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Bốn năm phản kích ác liệt từ 1969 đến 1972 địch hòng “trục xuất” lực lượng đặc công Việt Cộng ra khỏi rừng Sác. Với ưu thế máy bay, tàu chiến, trực thăng, đầm già quần đảo oanh kích suốt ngày đêm, hễ phát hiện ra vật gì nổi trên mặt nước, hoặc ban đêm có vệt trắng bọt nước dấu hiệu của xuồng ghe đi qua thì lập tức bắn phá suốt cả tiếng đồng hồ vào một khu vực. Anh em phải nhận chìm ghe cho qua cơn lửa đạn, lại lắc xuồng chèo đi tiếp. Trong mỗi cuộc càn có đến hàng trăm tàu hải quân đủ loại quần nhau khắp sông rạch làm mặt nước nổi bọt như cơm sôi. Đến năm 1970 toàn bộ phương tiện di chuyển của đơn vị bị phá huỷ, tất cả đều phải hành quân bộ trên sình lầy, gặp sông rạch thì bọc ny-lông vượt qua, cả dìu thương binh hàng chục cây số cũng chỉ bằng tấm ny-lông nóc dài hai mét năm, túm hai đầu với hai chiến sỹ bơi lội giỏi kéo về trạm xá cấp cứu. Đơn vị phát động một đợt thi đua bắn máy bay bay thấp, qua một tháng hạ 12 trực thăng, Ong ruồi (OV6) buộc chúng phải nâng tầm bay lục soát lên cao, nhưng ta vẫn phải chấp nhận thương vong hơn 30 đồng chí vì bị phản ứng nơi trận địa sình lầy không đường rút.
Mỗi khi thuỷ triều lên, để đưa tàu vận tải quân sự hàng vạn tấn lù lù từ Vũng Tàu vào Nhà Bè, thì mờ sáng các loại tàu rà, tàu quét gầm rú ầm ĩ chạy cặp hai bên bờ sông nhằm cắt đứt tất cả dây điện thuỷ lôi của Việt Cộng. Đề phòng bị phục kích, đầm già, trực thăng rà sát yểm trợ cho tàu đổ bộ chốt quân án ngữ các nơi nguy hiểm, rồi pháo bắn dọn đường vào các nơi nghi vấn…ngày nào cũng như ngày nào “ bài ca án ngữ” này vẫn cứ thực hiện đầy tốn kém, thế mà tàu chiến, tàu vận tải vẫn bị chìm liên tục, làm đau đầu Lầu Năm Góc.
Biết rằng Việt Cộng sẽ phải hành quân từ phía sau lên áp sát Sài Gòn tiến công vào Dinh Độc Lập, toà đại sứ Mỹ nên địch triển khai người nhái, biệt kích, các loại tàu sắt tắt máy thả trôi, ém trước ở các vàm tắc như Rạch Lá, Tắc Hông, Tắc Cò, Bà Bông… gây khó dễ cho anh em rừng Sác và cũng đã làm tổn thất khá nhiều về người, vũ khí. Tỷ lệ thương vong trong hành quân tác chiến thường cao gấp chục lần một trận đánh đặc công vào kho tang, bến cảng.
Toàn bộ rừng ngập mặn, quanh năm không có nước ngọt ăn uống cũng là bài toán tính bằng xương máu. Anh em phải chèo ghe ban đêm luồn lách tránh biệt kích, máy bay, đột vào các ấp chiến lược Bà Bông, Bảy Giả, vào Cần Thạnh, Lý Nhơn… chở từng can, từng phuy nước giếng. Nếu gạo hết có thể nhịn được năm ba ngày, chớ nước thiếu thì thật gay go. Về sau, địch biết rõ, tiến hành phục kích án ngữ các miệng giếng, bờ ao. Nhiều dòng máu chiến sỹ đã đổ để đổi lấy thùng nước ngọt. Vào thời kỳ căng thăng nhứt không còn cách nào bám đất liền, đơn vị phát huy sáng kiến lấy thùng phuy nấu nước mặn chảy ra từng giọt như kiểu nấu rượu, cứ hai chiến sỹ nấu ngày đêm thì cũng đủ ăn uống cho một trung đội. Phải giữ khói, che lửa đối với máy bay quan sát từ xa, hoặc dùng nồi nhôm nấu cơm lật ngược nắp đậy, bỏ vào trong một cái dĩa nổi nấu nước mặn cũng có thể chống khát được qua ngày cho từng tiểu đội.
Để bám trụ và đánh được giặc, theo chỉ tiêu trên giao, phải có đủ lương thực nuôi quân, trong lúc Nguyễn Văn Thiệu cứ gào thét “Tử hình, tử hình cho ai đem ra một ký gạo tiếp tế Việt Cộng”. Bọn bình định, phượng hoàng bám sát các cửa ấp, người dân ra rừng đem theo một gô cơm cũng bị làm khó dễ, xét hỏi găt gao. Nếu ở rừng giồng có thể đi đào củ chụp, củ mài, hái lá bép, rau tảu bay như trung đoàn Q4 có lúc nhờ vào rẫy chuối rừng hoang Hưng Nghĩa. Còn ở rừng Sác, duy nhứt chỉ có đọt cây chà là gai là ăn được, dưới sông nhiều tôm cua cá nhưng nấu ngót (toàn cá) không có gạo ăn chỉ ăn chống đói, cao lắm là hai ngày là “chảy re”. Bộ đội phải nhờ vào số bà con cơ sở chí cốt dũng cảm chấp nhận tù đày khi bị lộ, dùng ghe vận chuyển từ Cà Mau, Bến Tre, Châu Đốc… đưa về mỗi lần hàng chục tấn gạo khéo nguỵ trang bằng lá dừa nước đậy khẳm qua mắt địch, tìm con đường đi thuật lợi nhứt, cả bố trí lực lượng yểm trợ tác chiến từ xa. Nhiều lần hậu cần cấp trên rót tiền xuống chậm phải vận đông mượn vàng trong ấp mua gạo nuôi quân, phát động đơn vị thành phong trào “Thi đua bắt cua mua gạo”, được mấy ngày, có một du kích địa phương ra chiêu hồi khai với giặc, lập tức bọn tâm lý chiến chớp thời cơ cho trực thăng bay trên bầu trời phát loa inh ỏi “Hỡi các cán binh Đoàn 10, các bạn bị đói phải bắt cua đổi gạo, hãy ra chiêu hồi Quốc gia…”. Nhờ bám vào dân và khéo tổ chức tuyến hậu cần nên qua thời kỳ ác liệt nhứt chỉ phải ăn cháo đôi ba ngày, đơn vị hầu như chưa khi nào bị đói.
...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Là đơn vị thọc sâu, việc tiếp tế vật chất khí tài có nhiều khó khăn, phải vượt qua các tuyế án ngữ từ biên giới Campuchia về đến rừng Sác, với khẩu hiệu đề ra CÓ LỊNH LÀ ĐI, HOÀN CẢNH NÀO CŨNG ĐÁNH, ĐÃ ĐÁNH LÀ THẮNG, dù còn một khẩu sung, một viên đạn cũng tấn công. Trong phương thức tác chiến, đặc công xưởng có máy tiện, máy khoan trên sạp đước sình lầy, khi địch càn, phải dấu dưới sông. Thật vô cùng khó khăn, anh em đã khắc phục sáng tạo sản xuất các loại ĐH10, ĐH5…mỗi trái với 500 viên bi bằng những cây sắt phuy 5 chặt nhỏ xù xì mà Mỹ rất sợ, nguy hiểm hơn nhiều so với mìn clay-mo từ Hoa Kỳ đưa sang. Một hôm có tiểu đội Mỹ da đen hành quân hàng dọc theo con lạch tiến công Sở chỉ huy ta gần Bà Bông (Vũng Gấm) chỉ chấm điện 1 trái ĐH10 diệt gọn gần hết, mấy khẩu AR15 bỏ lại chiến trường bị gãy nát. Hết thuốc TNT, C4, tổ chức tìm bom đạn lép, cũng may chiến trường sình lầy hễ bom lép theo quán tính chúng đều trồi lên trên mặt đất, ta đem về cưa ra, lấy thuốc nổ sản xuất trái. Các loại kíp hẹn giờ M18 Chê-rô Tiệp, cả đồng hồ hẹn giờ Liên Xô hiện đại vẫn chưa bảo đảm đúng thời gian, làm mất an toàn. Người chỉ huy và kỹ sư mày mò, sản xuất thành công loại ngòi phèn chua hẹn giờ mà chiến sỹ đặc công thuỷ rất tin tưởng, không bao giờ xảy ra nguy hiểm khi đánh.
Mỗi khi ta đánh chìm một tàu, hay pháo kích vào nội đô theo quy luật, địch tập trung phản ứng càn quét ngay tức khắc, nên tất cả đơn vị lúc này phải nấu cơm ăn đêm trước trời sáng, tránh khói lửa, ém nồi niêu chén bát dưới bùn sâu chuẩn bị chống càn cho đến tối mịt.Khi máy bay mỏi cánh về căn cứ, pháo nóng nòng ngưng phần tử, tàu, bộ binh cụm lại và màn đêm buông xuống, anh em mới leo lên sạp, quần áo ướt sũng, dưới đèn dầu, kiểm tra lại chiến tích. Mỗi chiến sỹ đặc công khi xuất kích phải bơi lội dưới nước hàng hai chục cây số, chân không đụng đất, phải ém lại dưới hầm bí mật ngập nước ở các gò ô môi, gò bình bát xã Phú Hữu, Phước Long, chỉ nhờ duy nhất vào túi gạo rang, bình toong nước, bọc ny lông dán bằng dầu muỗi của Mỹ làm phao, cả thân chui vào chống lạnh chịu được từ ba đến năm ngày đêm mới rút về hậu cứ. Trong tay chỉ tự vệ bằng quả lựu đạn, cây dao găm, mấy miếng võ thuật sở trường, cổ đeo lủng lẳng chiếc ống thở để lặn sâu áp sát mục tiêu. Trong tác chiến, nếu có hy sinh là chuyện bình thường, nhưng anh em rất sợ bị thương phải để cho đồng đội mang vác, điều động về tuyến sau trên sông nước, mà cũng không an toàn vì địch đánh phá quyết liệt. Nơi sình lầy, sông nước mênh mông, đã có 4 bác sỹ quân y liên tiếp hy sinh trong mấy năm bám trụ (các BS Răng, Luân, Quang, Ba).
Qua mười năm bám trụ tại chiến khu rừng Sác, trong điều kiện vô cùng khó khăn ác liệt, Đoàn 10 đặc công đã đánh cháy và chìm hơn 500 tàu chiến các loại của hải quân Mỹ-nguỵ, nhận chìm, đánh cháy gần 200 tàu vận tải quân sự từ sáu ngàn đến vạn tấn trên sông Lòng Tàu và các bến cảng, bắn rớt hàng chục trực thăng. Đơn vị pháo đặc công, phóng đạn liên tục vào nơi sào huyệt ở nội đô Sài Gòn-Gia Định, tiêu diệt hơn ngàn tên địch đa số là lính kỹ thuật, phá huỷ 90 phần trăm kho bom thành Tuy Hạ năm 1972, thiêu huỹ hãng SHELL, kho xăng Nhà Bè thiệt hại 250 triệu lít năm 1973. Trung đoàn được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang năm 1973, nhưng cũng phải chấp nhận hy sinh mất mát gần 800 cán bộ chiến sỹ, trong đó có gần 500 đồng chí chỉ còn tên trong danh sách, hài cốt bị chìm sâu dưới lòng sông hoặc trôi ra biển cả. Cho đến bây giờ, hơn hai mươi năm trong hoà bình, qua cuốn phim Bông hoa rừng Sác, một số bài báo và hình ảnh có ghi lại đôi điều, cũng chưa thể nào nói hết được những gian khổ, ác liệt và hy sinh tỏng cuộc chiến đấu trên mặt trận sông nước sình lầy của quân và dân rừng Sác anh hùng.
...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
MỘT CHUYẾN GẠO

Tang tảng sáng, nước lớn ngập tràn rừng Sác mênh mông. Tiếng máy đuôi tôm, máy dầu rền vang trên sông nước xen lẫn tiếng gõ be xuồng đều đều của dân vây bắt cá đối ở xa xa.Mặt trời vừa ló dạng, ánh nắng ban mai toả xuống trên những thảm rừng đước, chà là gai. Gió mát rượi miền duyên hải. Có tiếng nổ đều của chiếc máy kô-le quen thuộc từ xa vẳng lại. Biên- chiến sỹ trinh sát bảo vệ Sở chỉ huy ngồi hút thuốc rê trên sạp đước nói với trung đoàn trưởng Lê Bảy:
- Đúng là tiếng máy của ông già em, từ Quán Chim ra.
Tiểu đội trinh sát của Đoàn 10 đặc công này hầu như đã quen hơi tiếng của các loại ghe máy đi lại làm ăn trên sông Thị Vải, của ai, ở đâu tới, loại nào F5, F10 đến cônlintông… Hễ khi nghe tiếng máy lạ xuất hiện, lập tức họ phân công nhau nổ máy đuổi theo kiểm tra. Đã có vài lần họ tóm gọn lũ thám báo ác ôn từ các ấp chiến lược An Thị, Lý Nhơn…cải trang thành dân chài trà trộn đột nhập vào “lõm sông nước giải phóng ” này.
Tiếng máy kô-le nhỏ dần, sau động tác nhấc bổng chân vịt, rụ máy ba lần làm ám hiệu, mũi ghe lường của ông Năm Mạt Cưa đã vào đến tận sạp ngủ của anh em cơ quan chỉ huy. Lê Bảy vui vẻ bước ra nắm dây mũi, cột ghe vào gốc mắm mà máy bay không tài ào thấy được.
- Chào anh Năm, chị Năm. À, cả cô bé Cát nữa
- Ờ chào chú Bảy, chú Tám. Chào anh em. Chào các cháu
Ông già nông dân da xạm nắng có nét mặt chất phác, mặc bộ bà ba trắng ngả màu cháo lòng, tay phải cầm chai rượu đế còn đọng bọt cườm trên cổ, tay trái xách bịch thuốc rê to tướng, vừa chào hỏi vừa bước lên rồi ngồi xếp bằng tròn ngay giữa sạp. Chị Năm gọn ghẽ trong chiếc quần lãnh đen, khăn rằn quấn cổ, dáng người nhỏ nhắn, lấy từ giỏ mây ra bọc kẹo đậu phộng, mấy gói Rubi, lạng thuốc rê và vài tập giấy quyển đưa cho Biên- con trai lớn- chiến sỹ ở đây. Còn cô bé Cát mới tuổi 12 đã là giao liên công khai thường mang thơ từ Phước Thái lên một tiệm may giữa chợ Long Thành, đó là trạm đầu cầu của hai nữ chiến sỹ nội tuyến Đoàn 1, Hai Điệp và Chín Tién.
Trên sạp cao cách mặt nước lớn chừng ba mươi phân, quây quần với tiểu đội vệ binh là một gia đình ngư dân chí cốt từ ấp chiến lược nghẹt thở ra, được gặp mặt anh em giải phóng, họ vui như chim sổ lồng.
- Bữa nay rảnh sao mà anh chị Năm ra sớm vậy? Lê Bảy mở đầu câu chuyện.
- Ờ, rảnh rang chi. Có lịnh chú Bảy tụi tui ra liền. Nè chú thấy không? Qua vịnh Cây Trường, đụng bọn cánh dơi biệt kích Long Thành xét ghe, còn hỏi: “Bộ đem rượu ra cho Việt Cộng rừng Sác hả?...”.
- Nhờ tôi lanh tay đem theo ốp nhang nói gạt là đi Bà Bông cúng cơm, qua mặt tụi ác ôn đó gọn hơ.- Chị Năm chen vô
- Mẹ Cát lấy mấy con cua luộc rồi ra nhậu ít ly với mấy chú chớ. Anh Năm nhắc vợ. Rượu vào lời ra, mặt hồng đỏ, họ kể chuyện dân, chuyện địch ngoài ấp, rồi chuyện chài lưới, thông báo tin chiến thắng đường 9 Nam Lào… Nước ròng xuống dần, Biên đã ba lần lùi ghe vì sợ mắc cạn, ông Năm vẫn tiếp tục:
- Uống nữa chú Bảy, không sao đâu, hễ còn nước trong lòng lạch là tui nổ máy chạy được thôi, lâu lâu mới gặp an hem. Thiệt tui không muốn về chút nào.
- Thôi anh em cứ vui tiếp đi. Nước sắp cạn rồi, mời anh Năm bước qua ta bàn chút việc riêng. Lê Bảy nói
Đoạn hai người bước qua sạp ngủ cách đó ba nhịp cầu chà là.
- Tôi biết chú Bảy nhắn ra là có việc cần, tôi sẵn sàng. Có chi chú cứ giao.
- Nói thiệt với anh Năm, gạo ăn cho toàn trung đoàn chỉ còn đôi ba ngày. Trên sông nước mặn này, địch lại bao vây chặt các cửa khẩu, phong toả ngặt nghèo, mỗi ngày vô vài ba chục lít, có khi lính ta bị đói mất . Kỳ này nhờ anh Năm xuất tướng nghen.
- Cái gì chớ công tác thì chú yên trí, cứ giao cho tôi.
...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Ông Năm chậm rãi hớp ngụm trà đậm, quấn điếu thuốc rê Bàu Hàm bằng ngón tay cái, bật ống quẹt zippo hít hơi dài, nét mặt vẫn bình thản.
- Bữa nay vào ấp anh đi ngay lên Cai Lậy, Mỹ Tho kiếm nhà anh Bảy Dừa Khô nói giùm một câu: “Đúng rằm tháng này lên gặp tôi đi cúng đình Phước Hoà”.
- Có nói thêm gạo thóc chi không?
- Anh chỉ nói gọn vậy là hoàn thành nhiệm vụ. Tuyệt đối không nói chi khác. Dặn ảnh bằng mọi giá không sai hẹn.Tôi mong lắm.
Lê Bảy chấm ngón tay vào chung trà vẽ lên mặt bàn chỉ đường đến Cai Lậy, đi xe ôm tới nhà cơ sở, hướng dẫn xử trí vài tình huống có thể xảy ra dọc đường, rồi họ chia tay nhau. Ông già nông dân không biết đến chữ nhứt, lúc nào cũng cặp nách gói thuốc rê, đã nhiều lần ra vô Sài Gòn với nhiệm vụ mật mà màng lưới công an mật vụ địch dày đặc không hề ngờ tới. Lần này nếu không có 20 tấn gạo đến kho thì toàn bộ chỉ tiêu tác chiến R giao, kể cả nhiệm vụ bám trụ rừng Sác của Đoàn 10 sẽ gặp nhiều khó khăn.
Ngày rằmg tháng 7 công 3 theo qui ước là ngày 18 hôm nay. Lật tờ lịch, Lê Bảy quay lại hỏi chủ nhiệm hậu cần Bảy Biên:
- Anh Bảy đã chuẩn bị người bốc gạo chưa? Định điều tào vào ụ nào?
- Báo cáo anh, sẽ huy động toàn bộ anh chị em hậu cần với quyết tâm và có khả năng giải phóng tàu trước nứoc ròng. Cho tàu vào kho 2 tăc Cây Mắm kín đáo hơn, tuy gần địch nhưng bất ngờ.
- Phải có 20 tấn gạo để chúng mình dóc hết toàn sức lên tuyến 1 bám kho bom Tuy Hạ, kho xăng Nhà Bè, cả các mục tieu như Bộ tư lịnh hải quân nguỵ. Bữa nay nếu cơ sở không đến kịp thì gay go lắm. Thuỷ triều hai ngày nữa là nghịch rồi, mất thời cơ cho đặc công thuỷ bám bàn đạp.
Quay sang tổ điện đài PRC25 do Vui, Hùng phụ trách, Lê Bảy chỉ thị thêm:
- Báo cho các chốt B41 ngã ba Đồng Tranh, Thiềng Liềng, Tắc Hông, Thạch An và trên sông Lòng Tàu, từ giờ cho đến lúc có lịnh mới bám sát tàu tuần tiễu địch, tuyệt đối không được nổ sung. Chờ khi có tín hiệu tàu cơ sở ta vượt qua thì bằng mọi giá phải đánh bật các loại tàu Mỹ- nguỵ ra, bảo vệ cho mục tiêu ta vận chuyển an toàn.
Không khí Sở chỉ huy căng thẳng. Mỗi người một việc đều tập trung theo dõi qua hệ thống điện đài để điều khiển tiếp đón chuyến tàu chở gạo, giống như một trận đánh trên sông Lòng Tàu.
Chiến sỹ thông tin Hùng thổi phù phù vào óng nói điện đài ba lần:
- Đại bàng, đại bàng nghe rõ trả lời?
- Ngỗng trời xuất hiện đúng kế hoạch. Mặt lộ 15 yên tĩnh- Tiếng đáp đầu kia.
Sông rộng mênh mông. Bằng ống dòm, chốt tiền tiêu đã nhận dạng rõ một tàu vạn chuyển chở khẳm lừ, đang rẽ sóng lao từ cửa biển Vũng Tàu vào hướng sông Thị Vải. Đặc biệt mũi tàu cắm 2 lá cờ ba que mới nguyên, tung bay trước gió, trong lúc tàu hải quân Mỹ- nguỵ dăng dăng dập dìu qua lại, đồn bót tứ bề, trực thăng, đầm già rà qua đảo lại.
Chính uỷ Tám Lập vẻ mặt hiền từ, hội ý chớp nhoáng với trung đoàn trưởng.
- Anh Bảy theo dõi ở căn cứ, để tôi lao xúông Bàn Thạch đón tàu, có gì xử trí tại chỗ cho chắn ăn.
Chiếc xuồng lường nổ máy rẽ sóng hoà vào tốp thuyển chài xuôi ngược trên sông mặc cho máy bay trinh sát địch trên trời vẫn dòm ngó.
Chiếc tàu mũi quớt cao, đóng đúng kiểu đồng bào di cư với cặp mắt sơn đỏ trông thật dữ dằn, chất lớp lớp ngang dọc toàn lá dừa nước dằn cẩn thận lên trên đống dừa tươi vài trăm trái nằm lăn lóc. Anh Bảy Dừa Khô đội nón nỉ đen, kiếng đen, mặc sơ mí trắng ngồi ngất nghểu trong buồng lái trên mui tàu, hướng thẳng mũi vào Quán Chim- Phước Thái như là đem lá dừa nước vào đổi củi chở về Bến Tre như mọi khi.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Sau khi vượt qua 4 chốt B41 bí mật cảnh giới trên sông Thị Vải, đến vàm Phú Mỹ tàu giảm tốc độ dẫn quay mũi qua phải vào Tắc Trũng. Đi trước là chiếc ghe máy dầu nhỏ máy F5 chở đầy lưới, có ba người ngồi, thoạt nhìn tưởng là dân chài, nhìn kỹ thì ra Mười Chuột cán bộ cửa khẩu ngồi mũi. Ba Bạch Yến phó ban hậu cần cầm lái, Tư Khuê cặp khẩu AK ngồi giữa giống như tàu hải quân nguỵ dẫn đường cho tàu vận tải trên sông Lòng Tàu tiến vào cảng Sài Gòn.
Quanh qua quanh lại 4 lần vào sâu trong hà lảng, tàu tắt máy từ từ cặp bờ êm ả, chui vào đoạn lạch khuất dưới lùm cây mắm đen. Lập tức hàng chục nam nữ chiến sỹ ào ra vui vẻ, thành thạo, nhanh nhẹn bóc dỡ lớp lá dừa nguỵ trang dày đến cả thước tây. Hai Dân chiến sỹ có cánh tay khoẻ nhứt nói vui với chủ ghe:
- Chà, lúc rày Bến Tre lá hạ giá hay sao mà anh Bảy chở đầy quá vậy?
- Vậy mà khi qua bót Bình Đại, thằng lính ác ôn đem chỉa xăm gặp sống lá chen khít khong xuống tới gạo. Chuyến này chở tới 12 tấn, tôi phải mua dừa tươi dằn thêm để qua mắt tụi nó, chớ chở lá sao lại khẳm lù. Anh Bảy Dừa Khô vui vẻ kể lại.
Từng bao chỉ xanh 100 ký xếp đều, đầy ắp khoang. Các chiến sỹ bốc vác cứ hai người nâng một chuyển sang ghe nhỏ, đầy rồi nổ máy chở đi rất khẩn trương.Trong lúc tai mọi người vẫn nghe tiếng còi ô tô trên lộ 15, thi thoảng một loạt sung máy nổ rền, bởi kho gạo không xa bót địch là bao, và cũng không có chỗ nào kín hơn nơi vùng ven ác liệt này.
Bên kia rạch, dưới mái ny-lon của chốt cửa khẩu, Bảy Dừa Khô ngồi trên sạp, phấn khởi uống trà, báo cáo tường tận chuyến đi thắng lợi với ban chỉ huy Đoàn 10. Tuy địch phong toả nguồn tiếp tế quyết liệt, sử dụng cả biện pháp tù đầy thế mà 12 tấn gạo đến được với chiến khu ngập đày sông nước quanh năm mặn đắng trong vòng vây phong toả tứ bề, thật là vô cùng quí giá. Chở gạo cũng coi như ngang với thuốc nổ, bất chấp nguy hiểm tù tội, người dân yêu nước đã góp phần công lao không nhỏ cùng anh em tham gia dánh Mỹ. Đối diện với Bảy Dừa Khô là Lê Bảy, có thêm Bảy Biên, Sáu Sang tham mưu phó điểu khiển cuộc bảo vệ vừa về tới. Người chủ ghe kể rành rọt như thuộc lòng:
- Xin báo cáo lại anh Bảy và các anh, được ông Năm Mạt Cưa báo tin, chuyển mật khẩu từ Mỹ Tho, tôi tốc liền xuống Bến Tre ghé ăn gạo ở nhà máy xay chị Tư như lần trước.
- Thái độ chủ nhà máy thế nào? Lê Bảy cắt ngang- Anh Bảy nói rõ lại xem, nhứt là những người chung quanh có quan hệ
- Theo tôi được biết, chồng chị Tư làm nghề dạy học nhà chỉ có máy xay xát nhỏ. Chị đặt mua lá dừa nguỵ trang giúp tôi. Với lại chắc chắn qua mấy lần ăn gạo, gia đình biết tôi chở cho anh em đàng mình, nên thái độ vui vẻ, kín đáo, giá cả phải chăng. Vác gạo xuống ghe toàn là con cháu họ cả.
- Anh kể tiếp lúc vận chuyển dọc đường ra sao?
Quay sang Sáu Sang, Lê Bảy dặn:
- Anh Sáu điểm đường đi trên bản đồ để đối chiếu với lần trước nghen.
- Dạ lần này gặp hải quân nguỵ một lần, nó cặp tàu đòi xét, tôi tắp luôn cho thằng chỉ huy trăm ngàn, nhưng nó lại bắt phải mua hai phuy dầu “tình nghĩa”. Qua bót Lý Nhơn như thường lệ, tôi cặp giấy bạc 500 vào giấy phép vận chuyển, nó đóng mộc cái cộp liền hà. Mà thiệt rủi, nó gởi 2 tên lính quá giang say mèm, mình lại phải lai rai với tụi nó hơn lít. Tính sẵn trong bụng, êm thì thôi, còn dở quẻ tôi và thằng nhỏ, hai cha con phân công rồi, đủ sức dứt luôn cho nó trôi sông. Bỏ đứt luôn con đường này.
...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Anh quơ tay kể tiếp:
- Chà lần này qua bót Đồng Hoà chi khu Quảng Xuyên (Cần Giờ) găng quá, gặp thằng thiếu uý mới đổi ác ôn quá cỡ, đòi tốc ghe lên nghi là chở gạo. Nó điểm huyệt mình trúng y, nói ghe chở gạo cho Việt Cộng chớ lá gì mà khẳm tới be gió. Tôi tưởng “măc cạn” rồi, phải mời đi uống cà phê đút nhẹ 20 ngàn vẫn không êm, sau nâng lên 50 ngàn qua tay một tên khác mới chịu nhận.
Hớp qua ngụm nước anh kể tiếp:
- Qua bót Bà Nghĩa thì lại ngon, tên xếp bót rủ tôi lên nhậu, tôi chuẩn bị sẵn cho y gói khô mực, nó ghé tai khoe nhỏ: Rượu này là toa rượu Bác Hồ bổ lắm. Tên này chắc có họ hàng gì đó tham gia cách mạng nên thái độ coi bộ dễ chịu . Nói chung đường đi nhiều khó khăn, cũng hồi hộp lắm. Tôi chuẩn bị con bài sẵn 200 ngàn đây, có gì đắp luôn vào miệng tụi nó. Với lại nguy hiểm gì thì nguy hiểm, chớ để anh em mình đói thì đâu có nỡ. Nhứt là ở cái xứ rừng Sác này không có một củ mì, củ chụp gì ráo như rừng giồng, chẳng có thứ gì ăn đỡ đói được.
Lê Bảy suy nghĩ, lấy bút chì đỏ vẽ lên bản đồ đường đi tàu gạo rồi nhẹ nhàng kết luận:
- Chuyến này anh Bảy làm ăn như vậy là khá, xử trí dọc đường trót lọt hết, nhưng phải tính tới cái bót Đông Hoà với tên thiếu uý mới, nó đã đánh hơi rồi đó. Tôi có ý kiến thế này, nước tới anh về chở chuyến lá dừa chất dừa tươi như cũ thật khẳm. Không chở gạo, chịu lỗ một lần đi không, gặp tàu nguỵ thì liệng dừa tươi làm quen, hút dầu của nó, đút lót chút chút cũng được. Đặc biệt tên thiếu uý ác ôn , khích cho nó ra lịnh khui ghe, cứ neo đôi ngày không sao. Xong anh vuốt lưng cho thêm một mớ, mát ruột nó tin là anh buôn bán thật thà không phải Việt Cộng, để mua luôn khúc sống này, ráng tranh thủ anh em binh sỹ trong đồn.
- Ờ, ờ anh nói phải. Chớ cái bót này nhất định mình còn phải đi qua dài dài khống có con đường nào né được. Bảy Dừa Khô chen vô
- Còn cái bót Bà Nghĩa hôm về, anh ghé tặng vợ xếp bót vài bao cám. Anh Ba Yến bảo bác sỹ Tư Tiến đưa theo lít rượu thuốc uống với anh ta, anh nói nhỏ: đây mới là toa thuốc Bác Hồ chính hiệu. Nếu anh ta hỏi ở đâu có thì anh trả lời sao cho trôi? Lê Bảy gợi mở
- Dễ thôi, tôi nói đi buôn qua vùng giải phóng, mấy ông Việt Cộng cho. Với lại xem qua cách anh này không chống đối ta, hoặc lính kiểng, hay ít nhất cũng có cảm tình với cách mạng chớ không ghét kháng chiến.
- Tính toán đường đi vậy thôi.Lê Bảy chuyển sang ý khác.- Các anh hậu cần đề ra nhiệm vụ tới đi
Trần Biên trưởng ban hậu cần ghi một dọc các món cần thiết, dặn thêm:
- Chuyến tới ngoài gạo, anh ráng chạy thêm 500 lố pin điện đài, có được pin PRC25 nhà binh thì hay hơn, như kỳ trước vậy, hai ngàn mét vải ny-lon, 500 đôi giày bắt cua cao cổ anh em rất cần để lội sinh tác chiến chống gai chà là, rễ đước và hai trăm ngàn thuốc tây. Nhứt là máu khô và nước biển cho thương binh. Kế hoạch này anh Bảy nhắm kham nổi không?
Bóp bóp trán suy nghĩ, chủ ghe trả lời:
- Chà khó nhứt là pin nhà binh và thuốc tây, phải chạy nhờ anh em sỹ quan nguỵ cảm tình giúp một tay, còn giấu trong gạo thì cũng vậy thôi, loại hàng quốc cấm thuộc nhà binh thì ở tù ngang như gạo. Nói chơi vậy chớ các anh yên trí, dễ gì phát hiện được ghe tôi, mình cũng phải trăm phương ngàn kế. Với lại lúc này mình đánh mạnh khắp chiến trường tinh thần tụi nó xuống dữ lắm, thuận lợi cho việc làm ăn nhiều của bà con.
Họ tiếp tục thêm chuyện thời sự, tình hình Mỹ-nguỵ thua to, lòng dân vùng bị chiếm đóng luôn hướng về cách mạng. Anh Bảy Dừa Khô sai con ra ghe xách vô hai con vịt quay ( của vợ vái cúng thiên địa, anh chị em khuất mày khuất mặt phù hộ cho chuyến đi an toàn) cùng can rượu nếp than bồi dưỡng anh em. Nhìn mức thuỷ triều xuống thấp, Lê Bảy gút lại:
- Chuyến gạo này trót lọt công nhờ anh Bảy khôn khéo, luồn lách giỏi, giữ đúng thời gian hợp đồng theo mật khẩu, anh Bảy về nói lại với gia đình thân thuộc: anh chị em quân giải phóng rừng Sác tụi tôi gởi lời thăm hỏi với lòng biết ơn. Nhớ nhắn giùm anh Sáu Ăn Chay, anh chị Tư Mập, ông già Ma-du, báo các ghe kia cũng sẵn sàng nhận thông tin tháng tới. Anh nhớ đóng cho được cái dấu tỉnh Phước Tuy để về Mỹ Tho khỏi bị làm khó dễ.
Họ bắt tay, ôm hôn nhau rồi cho ghe nổ máy rẽ sóng trong lúc trực thăng đầm già liên hồi soi mói trên đầu. Rừng đước thấm đậm màu xanh. Sông nước vẫn cứ mênh mông phẳng lặng dường như cũng vui lây với chiến sỹ đặc công rừng Sác, cùng với cơ sở chiến thắng sau trận đánh thầm lặng này. Đến bây giờ Lê Bảy cũng chưa biết rõ tên thật, nơi ở chính xác của những người con yêu nước đó. Những cái tên Bảy Dừa Khô, ông Ma-du, ông Sáu Ăn Chay chỉ là tên tự đặt ra để che giấu đề phòng bị lộ...họ chỉ cộng tác với nhau bằng niềm tin yêu của tấm lòng yêu nước, cùng nhau chống giặc ngoại xâm.
...
 

omerta77

Xe container
Biển số
OF-35686
Ngày cấp bằng
21/5/09
Số km
5,197
Động cơ
514,082 Mã lực
Còn ko cụ ới. Đang hay quá=D>
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
SẤU DỮ RỪNG SÁC
Chiến khu Rừng Sác, một vùng đất ngập mặn, sông rạch chằng chịt. Thuỷ triều lên, chỉ nhìn thấy mênh mông sông nước hoà lẫn trong thảm đước xanh. Con sông Lòng Tàu uốn khúc nối liền Vũng Tàu đến thành phố Hồ Chí Minh, nơi đây là căn cứ của trung đoàn 10 đặc công bám trụ suốt thời kỳ đánh Mỹ ở hướng đông nam Sài Gòn – Gia Định, đơn vị lập được nhiều chiến công về nhận chìm tàu giặc đủ loại. Cán bộ chiến sỹ đặc công thuỷ luôn phải lặn hụp ngày đêm trong sông nước. Muốn đánh được một trận tại bến cảng thì chân phải không đạp đất, bơi lội hàng mấy chục cây số, phải chịu đựng ác liệt với tất cả các loại máy bay tàu chiến kể cả B52 rải thảm và các cỡ pháo nòng ngắn nòng dài. Chưa đủ, đơn vịi còn phải lo đối phó với một loài cá dữ không kém phần gay go nguy hiểm là cá sấu Rừng Sác.
Trong một lần hành quân bằng xuồng đến ngã ba Thiềng Liềng lúc ban đêm, một tổ chiến đấu đang vượt sông thì biệt kích Mỹ trên bờ bắn xối xả, anh em phải đạp xuồng lặn sâu thoát khỏi vòng vây của lưới lửa. Chiến sỹ Nguyễn Đức Chương bị một con cá sấu lao tới nhe hai hàm răng nhọn hoắt quặp vào bên vai phải dìm xuống sâu, với phản ứng tự nhiên, anh dùng tay trái còn lại sờ soạng với hết tầm tay gặp phải mắt nó, anh móc mạnh vào, có lẽ sấu bị nhột nên thả con mồi ra. Chương trồi lên mặt nước thở hơi dài lập tức lại bị nó lao đến lần hai gắp vào vai trái lôi đi. Anh hết sứ bình tĩnh nhớ đến cây dao găm, một kỷ vật của ông bố ở Nam Định trao cho khi bắt đầu vượt Trường Sơn vào Nam chiến đấu. Rút dao ra khỏi vỏ, dùng hết sức mạnh còn lại của bàn tay phải đâm một nhát vào mắt nó vọt máu tươi. Sấu đành nhả con mồi lặn mất. Anh cố sức bơi vào bờ trườn lên bãi nằm bất tỉnh. Ngay trong đêm khi ngớt tiếng súng, đồng đội tìm được anh, dùng chiếc xuồng chèo với thêm 3 dầm hoả tốc lướt nhanh về bệnh xá trung đoàn ở sông Thị Vải, mãi bốn tháng sau, Chương mới ra viện với nhiều vết sẹo do răng sấu kéo dài trên thân thể.
Trên sông Ông Kèo, Trung đội trưởng Khét, quê ở Long An cùng một chiến sỹ đang lội dưới nước kéo cá cải thiện cho đơn vị, một con sấu từ khúc quanh của vịnh hẳm đứng, lao tới quật đuôi ngang, gắp Khét đi chưa kịp kêu lên tiếng nào, chiến sỹ bảo vệ trên bờ chỉ còn biết bắn mấy loạt AK cảnh cáo theo dòng nước. Một tổn thất bất ngờ của đơn vị.
Cũng trên đoạn sông này trung đội trưởng Nghĩa, một chiến sỹ đặc công thuỷ bơi giỏi như rái cá, đã từng bị tàu quét mìn lôi vướng vào răng cào, vẫn tìm cách thoát ra còn cướp được khẩu AR15 giết 3 tên giặc phục ở ngã ba Đồng Tranh. Một hôm anh nhận được lệnh của trung đoàn mang bọc tiền và công văn hoả tốc vượt sông Lòng Tàu qua khu B, vì chiến trường chia cắt ác liệt, nếu đi bằng thuyền thì không qua nổi tàu tuần tiễu án ngữ dày đặc, đã có nhiều đồng đội thương vong, nên đơn vị quy định phải bơi sang để bảo đảm an toàn.
Như thường lệ, sau khi bắ tay đồng chí tiễn mình ra tận bờ sông, Nghĩa bình tĩnh, ung dung xuống nước thi hành nhiệm vụ, nhẹ nhàng bơi sải dài trên mặt sông, bỗng một con sấu không rõ lớn cỡ nào lao thẳng vào gắp ngang người, chỉ nghe tiếng quậy nước và rồi im lặng, anh đã mất hút trong đêm thanh vắng. Sau 3 ngày tìm kiếm chỉ vớt lên được sợi dây thắt lưng to còn nguyên vẹn gói bạc, tài liệu và chiếc bình toong, lại thêm một tổn thất đau lòng, đơn vị mát đi một anh hùng sông nước.
...
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Trong một trận đánh tàu ở khu vực Độ Hoà trên sông lòng tàu, khi rút về bị máy bay truy kích quyết liệt nene lạc đội hình, một mình đại đội phó Lương Đình Mướt với cây chà là nhọn vác trên vai để sỏ mang con cá chép to tướng vừa bắt được. Đến bờ sông Đồng Tranh, nhìn bên kia là căn cứ của đại đội 5 của mình, anh từ từ xuống nước. Đặc công thuỷ mà lao vào sóng nước cũng như người đi dạo bước vào vườn hoa. Vừa ngập đến đầu gối thì một con cá sấu với cặp mắt đỏ lừ lao thẳng tới, hai hàm răng sắc nhọn quặp ngay vào đầu gối, tiện tay anh đâm thẳng vào mắt nó không rõ vì đau hay vì đã gắp được con cá chép tuột ra, nên hắn lặn mất. Nhưng Mướt bò lên bờ chân đau nhức, máu ra đầm đìa theo vết răng, vết thương sưng to phát sốt ngay và nằm mê man bất tỉnh giữa rừng chà là rậm rạp. Có lẽ hàm răng nó dơ dáy đầy chất độc, đã gây nhiễm trùng cho vết thương.
Ở đơn vị, anh em bủa ra đi tìm 2 ngày không thấy Mướt đâu và đã điện báo về trung đoàn chuẩn bị làm lễ truy điệu. Qua ngày thứ 3 dần dần tỉnh lại, nghe được tiếng chuống nhà thờ ngân vang hướng lộ 19 quận Nhơn Trạch, anh mừng rỡ biết mình còn sống. Không còn cách nào khác hơn, và cũng may có một chiếc bình tông cỡ lớn của tàu Mỹ bị đánh chìm trôi dạt vào bờ, anh nắm lấy làm phao hỗ trợ cho một chân tê, đau nhức, cũng phải rợn mình từ từ xuống nước lội đứng nhẹ nhàng vượt sông về đơn vị.
Một mình mang điện khẩn từ Sở chỉ huy lên tuyến tiền phương Ông Kèo, chiến sỹ vệ binh Mười Mót lái chiếc xuồng máy kô – le 4, ban đêm trà trộn với dân chài lưới vượt qua bót Vũng Gấm, khi vừa đến vàm Rạch Lá đụng ngay hoả lực tới tấp của biệt kích Nhà Bè mai phục, anh đạp ghe máy lặn xuốn nước mấy hơi qua khỏi vòng lưới lửa, thì con sấu từ đâu lao tới gắp ngay vào đùi, định tha chạy giỡn với con mồi cho đến khi tắt thở mới ăn thịt. Nhớ ngay đến kinh nghiệm Đức Chương đâm mắt cá sấu thoát nạn, nhưng anh lại không có dao găm, chỉ còn cây đèn nghéo (loại đèn pin nhà binh) dắt ngang thắt lưng, tiện tay rút ra đút thẳng vào miệng nó đang mở rộng. Có lẽ cá sấu vướng cổ tạm thời nhả mồi ra, Mướt vớ ngay được cành bần xoà mặt nước, níu lấy trườn lên bờ. Thế là sau hai tháng nằm viện điều trị, anh về còn rõ mấy vệt răng kéo dài bên đùi phải.
Trước tình hình phải đối phó với loại sấu hung dữ đã quen mùi thịt người này, anh em rất căm tức và ũng có phần ngán ngại, vì không biết chúng có mắt ở chỗ nào. Nhiệm vụ đặc công là phải lao xuống nước đi tìm tàu giặc nơi bến cảng, ban chỉ huy Đoàn phát động đợt thi đua đánh trả cá sấu.
Đại đội 14 mua ngay một con vịt bầu béo mượt, cặp hai bánh thuốc nổ gắn kíp liền với dây trên bờ vào bên đôi cánh, thả cho vịt lội bập bềnh trên mặt sông Ông Kèo. Đến nửa đêm, con sấu mò tới gắp ngay miếng mồi bơi đi, một tiếng nổ ấm, vang trong đêm đen, dòng máu loang ra, nó bị chìm sâu, luồng nước chảy xiết đã cuốn đi theo một thằng “giặc dữ”. Mãi về sau này dân phát hiện một cá sấu trôi dạt và tan rã ngoài sông xa.
Từng tổ phân nhau đi lục tìm những bầy sấu con nở trứng trong các hố bom đìa B52, vừa lớn khoảng cườm tay, chúng táp hỗn như chó cón. Anh em có sáng kiến cởi quần dài, quấn vào cánh tay quơ qua quơ lại ở hố bom, sấu con háu đá lao vào cắn, răng sữa nhọn dính ngay vào vải, bắt lên từng con một đem về kho nghệ. Tiếc là thịt của chúng còn nhão, ăn chưa ngon, nhưng cũng được bữa cải thiện.
Đã diệt thì phải diệt từ trong trứng, tìm ở các bãi sình lầy, có hôm đại đội 12 hốt gọn một ổ hơn 30 quả, hình dáng như hột vịt hơi tròn hơn và nhỏ hơn, khi nấu chín lòng trắng vẫn bầy nhầy không bao giờ đặc, ăn vào rất béo. Sau bữa tiệc nhậu trứng sấu với rượu đế, anh em dành lại 6 trứng tối đó tổ chức đột ấp chiến lược Quới Thạnh, đến gõ cửa từng nhà như ông Năm, bác Tám, chú Sáu… những gia đình cơ sở hậu cần của đơn vị, thân tặng món nhậu đặc sản. Ông Năm vui vẻ nói: “Tao sống ở đất Ông Kèo này cả đời vậy mà chưa thấy được trứng sấu, cám ơn mấy thằng con giải phóng…”.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Một buổi sáng tinh sương, trung đội phó Hùng từ căn cứ vác khẩu súng AK đi tuần tra qua tắc Bào Thai dọc theo sông Ông Kèo, đề phòng biệt kích Nhà Bè vào quấy phá. Anh dừng lại vàm tắc Xay Lúa, nơi cách đây mấy tháng một tiểu đoàn biệt động quân nguỵ hành quân qua, một chú lính đi sau cùng níu cành cây thả chân quậy nước rửa sình, bất thình lình con sấu phục đâu sẵn và cũng có thể ngay vào nơi ở dưới bờ hẳm của nó, quật đuôi ngang một cái, chú lính văng xuống sông rồi mất hút. Và cách đó mấy trăm thước, một phụ nữ trong ấp chiến lược lộ 19 xuống bắt cua, lội ra tắm ban ngày, chỉ nghe một tiếng quẫy nước rồi mất xác. Hùng đang miên man suy nghĩ về con thú dữ này trên sông nước Ông Kèo, Rạch Lá, thì bỗng anh dừng lại khom mình nhìn vào gốc bụi chà là rậm rạp, sợ mắt mình mờ anh đưa tay áo dụi dụi mấy cái, nhìn kỹ lại là con cá sấu dài khoảng năm sáu mét, da mốc xù xì như khúc gỗ mục đang đói mồi nằm im phục kích. Không chần chừ, anh mở khoá an toàn, đưa đường ngắm lên, xiết nguyên băng đạn. Cá sấu từ từ lặn xuống mép rạch, đầu chìm sâu vẫn còn lại khúc đuôi. Không để cho nó thoát, Hùng buông súng lao tới hai tay nắm chặt, miệng cắn phụ, lần lưng rút chốt lựu đạn ném vào đầu đan ghìm sâu dưới nước, nhưng không nổ, không thấy sấu phản ứng (về sau mới biết xương sống nó bị trúng đạn), anh ném thêm quả thứ 2, bị kích động hai trái cùng nổ tung toé nước. Một tiếng rền vang, ầm cả khu rừng.
Đại đội trưởng Ngọc ở nhà nghe tiếng súng và lựu đạn tưởng là đụng biệt kích lập tức cho tổ trinh sát bám ra, thì thấy Hùng vẫn ghì chặt đuôi sấu, thêm chiếc lưỡi lê nhọn xuyên ngang tạo thế. Anh em vui mừng đưa ngay chiếc xuồng be nhứt ra, không làm sao dìu nổi sấu lên ghe. Sau phải nhận chìm đưa sấu nằm gọn vào rồi tát cạn nước chở về căn cứ. Cả đại đội tập trung dao, búa xẻ thịt, lột da treo đầy vách lá, cả trên giường ngủ. Riêng cái đầu phải hai người khiêng mới nổi. Trinh sát Đức Inh đem ra sông rạch cái bao tử xem có gì? Một heo rừng con vừa bị nuốt và còn cả một mớ tóc đen khi ăn thịt người chưa tiêu hết, quyệt cùng mớ lưới dây giăng cá. Anh em lấy ghe máy cắm cờ ba que nguỵ, công khai chở thịt đi phân phối đến các chốt tiền tiêu Rạch Tràm, Bà Bông, Tắc Trũng… cả trung đoàn được bữa ăn ngon. Thịt cá sấu già ăn dai và ngọt giống như thịt heo rừng, nhưng điều phấn khởi là đã đánh trúng được thằng giặc không tên này trả thù cho đồng đội.
Câu chuyện cá sấu Rừng Sác gắn liền với cuộc chiến đấu vô cùng anh dũng, trung đoàn đặc công anh hùng phải đối đầu với quân thù tàn bạo và cả cá sấu hung dữ, chấp nhận hy sinh tổn thất và mất mát để giành thắng lợi vẻ vang cho sự nghiệp.
Kết thúc một cuộc chiến tranh chống xâm lược, về phần những người lãnh đạo chỉ huy vẫn còn phải suy nghĩ vè đồng đội của mình đang còn mất tích hài cốt chưa lo trọn vẹn. Và cũng phải chấp nhận những tổn thất, mất mát chìm sâu dưới lòng sông, trôi ra biển cả. Chẳng những ở chiến khu Rừng Sác này và cả trên các trận đại núi rừng khác của khắp chiến trường. Người ta không thể nào đếm số lượng nấm mồ, hoặc túi ny lông người chết ở nghĩa trang để đối chiếu cân bằng với sổ sách quân lực khi điểm số lúc hành quân khởi đầu cuộc chiến.
Ngày 25 tháng 9 năm 1992, đại tá phó chỉ huy trưởng Tỉnh đội Đồng Nai, nguyên là trung đoàn trưởng Đoàn 10 trong một dịp tiếp xúc với 4 sỹ quan quân lực Hoa Kỳ phái đoàn MIA tại khách sạn Đồng Nai, theo yêu cầu của đoàn, muốn tìm tin tức về hài cốt của 2 lính Mỹ mất tích tại chiến trường Rừng Sác. Sau khi xác định ở hai toạ độ thuộc Bình Khánh và Tắc Hông. Vị đại tá đã nhin nhận đơn vị đặc công đã đánh chìm 2 tàu tuần tiễn, trong đó có 2 anh bạn Goot – giơ và Veo – rơ – vơ, cả 2 người này đều tử trận, không phải mất tích, và cuối cùng đã chìm sâu dưới lòng sông, hoàn toàn không còn hài cốt. Ông cựu trung đoàn trưởng này cũng đã phát biểu thêm với các thành viên đoàn MIA.
- Chúng ta rất đau lòng về những hài cốt chưa tìm thấy. Lương tâm và trách nhiệm của người quân nhân, phía chúng tôi cũng rất ray rứt là đơn vị bám trụ 9 năm ở Rừng Sác hồi chiến tranh chấp nhận hy sinh hơn 800 người, và cho đến nay chỉ mới tìm đưa về nghĩa trang được hơn một phần ba. Còn về phía các ông, là người chỉ huy chiến trường tôi biết rất rõ rằng trên mấy trăm tàu chiến bị đánh cháy và chìm mà các đơn vị tham chiến bị tổn thất, thì ít nhất cũng mấy trăm người thiệt mạng nơi Rừng Sác. Sự mất mát đó, tôi tin là các ông chỉ có đủ tên trong sổ sách, còn thực trạng thì là người lính chiến, chúng ta hiểu rằng ở đặc điểm chiến trường mênh mông sông nước này, nhiều sinh mạng sau khi tử trận đã phải làm mồi cho cá sấu hoặc trôi ra biển cả, không thể nào tìm được. Nếu nói con số hơn 2000 mà phía các ông đang tìm, thì tôi xin phép được đề nghị phái đoàn nên báo cáo lại với ông Bush (đương là Tổng thống Hoa Kỳ) nên trừ bớt đi, con số có thể là trên dưới 500 của riêng chiến trường này mà tôi đã đảm trách 10 năm, trước ngày hoà bình lập lại.
Việc cá sấu quen ăn thịt người, cũng như cọp ba móng miền Đông thời kỳ đánh Pháp, chúng là loại thú dữ không hề biết ai là bạn, ai là thù. Anh em chiến sỹ đặc công Rừng Sác đã lập được chiến công trong việc diệt cá sấu để bảo vệ mình, ít nhất cũng đã ghi lại đôi điều kỷ niệm với lịch sử câu chuyện về cá sấu, mà sau này có thể sẽ không bao giờ còn hoàn cảnh cụ thể nào lập lại những sự kiện đau lòng này.
..
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
TÌM GIỌT MÁU RƠI
Chiếc xe honda từ ngoài ngõ chạy vào, chở hai người khách lạ mặc sắc phục công an. Sau khi dừng xe, họ bước vào nhà, lễ độ hỏi chào:
- Xin lỗi, cho chúng tôi hỏi thăm, đây có phải là nhà anh Bảy Rừng Sác?
Nhìn thái độ, Lê Bảy cũng đoán biết là người từ xa mới đến và có lẽ muốn tìm hiểu việc gì đó có liên quan đến cái tên mà anh em trìu mến đặt cho mình, với tay rót tách nước mời khách, Lê Bảy mời:
- Mời hai đồng chí ngồi uống nước, rồi có gì anh em ta trao đổi. Tôi là Bảy Rừng Sác đây.
Sau một tuần nước, một ông khách mở đầu câu chuyện:
- Thưa anh, tôi từ Hà Nội vào, gốc quê ở xã Tây Tiến, Tiền Hải, Thái Bình. Nguyên gia đình tôi có hai anh em, anh tôi đi vào Nam chiến đấu ở lực lượng đặc công, ở nhà nhận được báo tử là đã hy sinh thời kỳ đánh Mỹ tại chiến khu Rừng Sác. Nhưng có một điều ray rứt là mẹ tôi từ lâu nay ở dưới quê, vợ chồng tôi mời mãi về Hà Nội chung sống để dễ bề phụng dưỡng, mà cụ không chịu, bảo tôi làm sao tìm được hài cốt anh tôi về chôn cất nơi quê nhà thì mới chịu đi. Tôi nghe các anh cán bộ Đoàn 10 xuất ngũ kể lại là phải vào đây tìm anh Bảy Rừng Sác thì có thể biết được. Nay được gặp, xin đề nghị anh vui lòng giúp đỡ cho. Tôi tên Nguyễn Đức Vượng, thiếu ta công an đang công tác ở một cơ quan - Bộ Nội Vụ.
Lê Bảy chăm chú nghe, bỗng ganh dừng lại hỏi:
- Có phải liệt sỹ Nguyễn Đức Inh không, nhìn cái miệng anh nói tôi đã thấy ngờ ngợ giống Đức Inh như đúc.
Thế rồi không kềm được lòng mình, người chỉ huy già thấy nóng lên từ khoé mắt, nước mắt từ đâu trào ra, anh cúi đầu không nói được làm cả ba người đều sụt sùi thương cảm. Những hình ảnh thân thương sống dậy thật đậm nét. Cách đây đã lâu, hơn hai mươi năm, từ một chiến sỹ vượt Trường Sơn về, bổ sung trong đội hình chiến đấu của Đoàn 10, Đức Inh là xạ thủ bắn tỉa rất giỏi, người lính đặc công thuỷ bơi lội như rái, lại khoẻ mạnh nên được chọn làm lính bảo vệ Sở chỉ huy. Rồi trưởng thành lên cán bộ Trung đội, Inh luôn sát cánh cùng trung đoàn trưởng Lê Bảy suốt thời kỳ bám trụ ác liệt nhất.
Những kỷ niệm một thời gian khổ, gắn bó cùng Đức Inh hiện lên rõ rệt như in trong đầu, Lê Bảy chậm rãi kể lại, Đức Vượng đứa em trai duy nhất của Inh ngồi nghe, liên tục dùng khăn tay chấm nước mắt chảy quanh, Đức Vượng nhỏ nhẹ hỏi thêm:
- Thưa anh, thế anh Inh của em hy sinh trong trường hợp nào. Hài cốt hiện nay có còn không?...
- Cuối năm 1974, trong một trận tổ chức bao vây đồn Vũng Gấm dọc lộ 19 xã Phước An, huyện Nhơn Trạch, lúc này Inh phụ trách Trung đội trưởng chỉ huy tác chiến. Với khẩu súng bắn tỉa trong tay, hàng ngày bám sát đồn giặc, Inh đã làm cho quân thù hoảng sợ không dám ló đầu ra hàng chục ngày liền. Vào một buổi sáng như thường lệ, Đức Inh ra bám chốt, do một động tác sơ xuất kỹ thuật nhỏ, anh đi lạc một bước chân, vấp phải dây mìn địch gài từ lâu. Một tiếng nổ tung người lên, Đức Inh đã hy sinh. Anh em đem về chôn cất ở Gò Cát Bà Bông, sau ngày giải phóng bộ phận tìm kiếm hài cốt trung đoàn đã bốc cốt đưa về nghĩa trang liệt sỹ huyện Long Thành nằm chung với đồng đội.
- Thế bây giờ gia đình muốn xin đưa hài cốt về quê, có được không ạ?
Lê Bảy suy nghĩ, một câu hỏi khó giải đáp. Một đàng là gia đình còn bà mẹ già ngày đêm tha thiết mong tìm cho được hài cốt đứa con liệt sỹ yêu thương của mình, đưa về gần gũi để an ủi tuổi già đang như ngọn đèn leo lét trước gió, một đàng theo chủ trương của ngành Thương binh xã hội từ lâu nay không cho ai bốc mộ liệt sỹ di dời chỗ khác. Vì rằng liệt sỹ là điều thiêng liêng của cả dân tộc, phải giữ gìn khi đã đưa vào nghĩa trang. Lê Bảy trả lời:
- Việc này khó thật, nhưng giải quyết thế nào để tôi còn hỏi lại địa phương và bàn với anh em trung đoàn 10, rồi sẽ gặp lại các anh trong sáng chủ nhật này.
Họ lưu luyến tiễn nhau.
Sáng nay ở văn phòng Ban chỉ huy trung đoàn 10, đóng quân cặ thoe xa lộ Biên Hoà thuộc Thủ Đức thành phố Hồ Chí Minh có cuộc họp thân mật, trung đoàn Trưởng đương nhiệm Nguyễn Hồng Thế (anh hùng quân đội) người còn sống trong 8 dũng sỹ đánh kho xăng Nhà Bè cùng khoảng 10 sỹ quan dưới quyền còn trẻ măng, cùng tham gia có Lê Bảy người chỉ huy năm xưa, Tư Văn cán bộ đồng cấp với Đức Inh, giờ là Hiệu trưởng trường Công an Thủ Đức, thêm ông chú ruột Đức Inh, cán bộ nghỉ hưu ở Sông Bé, Đức Vượng em trai của liệt sỹ. Họ quây quần xung quanh ấm trà, bàn bạc câu chuyện thân tình về liệt sỹ Nguyễn Đức Inh. Lê Bảy tóm tắt ý kiến chung:
- Thể theo nguyện vọng của bà mẹ, chúng ta đã có liên hệ với các cơ quan chức năng địa phương theo quy định lẽ ra không được di chuyển hài cốt liệt sỹ, nhưng xét về mắt khác cũng phải thấy rằng một bà mẹ đã mang nặng đẻ đau, sinh ra đứa con, nuôi cho đến khôn lớn trưởng thành và động viên con đi chiến đấu. Giờ này đã anh dũng hy sinh không còn được trở về như những người khác, thì hài cốt này với người mẹ là điều thiêng liêng, chúng ta không thể để cho bà mẹ cứ mỏi mòn trông đợi. Những năm tháng cuối đời của bà cần được yên ổn. Theo ý kiến các đồng chí đề xuất thì chúng ta tổ chức đi “lấy cắp hài cốt” đem về cho mẹ. Nói đúng ra, có vi phạm đến quy định chung, nhưng chúng ta làm được phần chính với lương tâm, đạo nghĩa và trách nhiệm với mẹ.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Anh em vui vẻ chuẩn bị lên đường, coi như “vào trận” thời xưa. Bốn chiếc honda chở 7 người, ăn mặc quân phục tề chỉnh, đầy đủ nghi lễ do Hồng Thế chỉ huy, còn giành chỗ trống phía sau cho hài cốt liệt sỹ.
Ở căn cứ trung đoàn, Lê Bảy và anh em xem lại các cuốn băng ghi hình truyền thống đơn vị nhân ngày kỷ niệm 22 tháng 12 hàng năm ở Nhà Bè, ai cũng nhấp nhổm chờ đợi, không biết có việc gì xảy ra mà đã quá nửa đêm chưa thấy trở về. Lê Bảy nói vui:
- Anh Thế này chỉ huy trận đánh bốc lửa kho xăng Nhà Bè thì hoàn thành xuất sắc, không khéo trận đánh “đặc công” trong hoà bình này lại thua.
Mãi đến một giờ sáng mới nghe tiếng honda rền vang. Mọi người hồi hộp chờ đón, thấy Cộng – phó chỉ huy chính trị khệ nệ bưng chiếc tiểu vào đặt nghiêm chỉnh giữa bàn đã chuẩn bị sẵn đèn nhang toả khói hương trầm nghi ngút. Tấm vải đỏ được phủ lên. Một không khí trang nghiêm ắng lặng đầy xúc cảm. Không ai bảo ai, dường như mọi người đều thấy hình bóng Đức Inh người bạn chiến đấu hiện về với nụ cười đôn hậu đáng mến, nét mặt sắc lạnh khi đang cầm khẩu B41 ngắm vào tàu giặc trong những trận chống càn khốc liệt. Mọi người sụt sùi ứa lệ. Ông chú già run run, tay thắp nén hương đầu tiên, tiếp đến Đức Vượng và Lê Bảy cầm nhang khấn vái:
- Đồng chí Đức Inh yêu thương, chúng tôi làm việc này biết là có lỗi với quy định hiện hành, nhưng không thể nào khác hơn được vì tình cảm yêu thương quý mến đối với mẹ già, hàng chục năm qua bà vẫn ngày đêm mong đợi hài cốt của con trai và mong muốn đưa con mình về mảnh đất quê cha đất tổ gần gũi, ấm cúng trong tình thân của xóm làng. Chắc chắn đồng chí cũng vui lòng…
Một tháng sau, Đức Vượng lại trờ vào gặp Lê Bảy tại nhà riêng:
- Trước tiên, mẹ em kính lời cám ơn anh và các anh trong đơn vị. Ngày đưa hài cốt về quê vừa đến ga Nam Định, nhờ có điện trước nên cơ quan cho xe đón và chở thẳng về quê. Thật là mừng rỡ không thể tả được, xóm làng cờ trống, họ hàng chen chúc, đốt hương và đèn nến, đón anh Inh em về an nghỉ nơi nghĩa trang liệt sỹ của địa phương. Mẹ em thì thật là mãn nguyện. Nhưng còn điều này, mẹ bảo vào thưa thêm với anh…
- Có gì chú cứ trình bày, nếu trong khả năng của mình làm được, thì sẽ hết sức cố gắng, đó là trách nhiệm phải làm đối với mẹ và Đức Inh.
- Mẹ em nghe nói lại có một lần anh Inh bị kỷ luật không rõ là việc gì sai sót trong chiến đấu hay như thế nào? Và nghe đâu có để lại một giọt máu rơi trong miền Nam, bà cụ cứ băn khoăn thương tiếc mãi. Nếu đúng như vậy đề nghị các anh giúp tìm để cụ được yên tâm.
Lê Bảy nhìn lên trần nhà, gõ gõ trán suy nghĩ, ôn lại trong đầu những ký ức xa xưa thời chiến ở Rừng Sác, xem có còn dấu vết gì không. Anh hẹn với Đức Vượng một tuần sau gặp lại để có thời gian tìm hỏi chu đáo.
Sự thật thì vào thời kỳ sau Mậu Thân 68, địch phản kích liên tục, chiến trường trở nên vô cùng ác liệt. Bị bao vây phong toả tứ bề, sự tiếp tế hỗ trợ chỉ còn dựa vào các gia đình cơ sở làm nghề cá tôm chài lưới từ trong các ấp chiến lược, nhất là Phước Thái. Hàng ngày, dân công khai ra mò cua bắt ốc đưa lương thực tiếp tế, trong số này có gia đình ông Chín Bi, một xã đội phó hồi 9 năm thường xuyên ra vào móc nối với cách mạng, do vậy trong một đám hát cúng đình làng, lính nguỵ tổ chức ném lựu đạn ám hại ông. Gia đình có mấy cô con gái và cậu con trai vẫn tiếp tục làm nhiệm vụ theo đường cha đã đi cho đến ngày giải phóng hoàn toàn.
Trong cặp bài trùng này, cô Nương là chị, cô Nga là em thường hay lủi ghe vào Sở chỉ huy báo cáo tình hình, tiếp tế hậu cần cho trung đoàn. Người được phân công móc nối với 2 cô là Đức Inh và Hùng chiến sỹ thông tin khá “bô” trai. Hai chiến sỹ rất vất vả ngày đêm chờ đợi, tiếp đón làm nhiệm vụ được giao, đặc biệt trong mối quan hệ giúp đỡ cơ sở làm ăn, tạo điều kiện sinh sống. Đêm đêm họ phải lặn hụp sình lầy, chài tôm đăng cá, chịu đựng muỗi mòng, luồn lách trực thăng soi đèn bắn phá, hoặc tàu thuyền hải quân phục kích, tìm mọi cách để có con cua, con cá làm bằng chứng qua mắt địch đem về ấp, bán lấ tiền nuôi gia đình và mua gạo cho bộ đội.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Tình quân dân cá nước mặn nồng ngày càng trở nên thâm tình như anh em một nhà. Nhưng ngoài nhiệm vụ chiến đấu và công tác ra, họ vẫn còn nhịp đập của bốn trái tim ở lứa tuổi đôi mươi, gần gũi yêu thương, gắn bó với niềm mơ ước tốt đẹp về hạnh phúc tương lai trong tình thương của gia đình đối với hai thằng con miền Bắc xa xôi lặn lội vào Nam chiến đấu thiếu thốn bàn tay ấm áp của mẹ cha. Lính Hùng yêu Nga tha thiết, đôi trai gái này thật xứng đôi vừa lứa. Đến sau 30 tháng 4 năm 1975 chiến sỹ Hùng quê tận Gia Lâm Hà Nội được xuất ngũ về với Nga ấm cúng trong túp lều tranh tại xã Phước Thái, tham gia công tác địa phương làm nghề chài lưới nuôi con.
Riêng Đức Inh và Nương hoàn cảnh thật éo le, làm anh chị lo vun đắp cho hai em, họ cũng đã tính đến hạnh phúc của mình. Nhưng vào những ngày sóng gió lửa đạn cuối năm1974, trong một bức thư gửi ra ấp chiến lược cho Nương, mà mẹ của Nương, bà Chín Bi còn giấu dưới *** bàn thời hai chục năm qua, có đoạn ghi tuy nhoè chữ, vẫn còn đọc rõ: “Anh vẫn còn phải chiến đấu ngoài này, đã nhận được đôi quần đùi của em may gởi ra. Anh dặn em ráng giữ gìn thai nhi, nếu sau này sinh con trai thì đặt tên Tuấn, con gái tên Hồng theo họ Nguyễn Đức của Anh. Còn việc kỷ luật của anh, em yên tâm, chỉ vì tụi mình chưa chính thức báo cáo với tổ chức kịp thời , chớ về gia đình thì đã rõ tình cảm của đôi ta và nhất trí chờ đến ngày độc lập. Nhưng “chuyện ấy” xảy ra ngoài dự định nên anh phải gánh chịu phần cảnh cáo, điều đó em đừng lo ngại anh sẽ lập công nhiều hơn nữa để chuộc lại…”.
Phải chăng bức thư đó là lời trăn trối cuối cùng. Mấy tháng sau trong trận bao vây đồn Vũng Gấm, Đức Inh mãi mãi nằm xuống, còn Nương sinh một cháu gái. Theo lời dặn xưa, chị đặt tên con là Hồng. Ai có hỏi thì chị trả lời tự nhiên là con anh bộ đội Rừng Sác chưa về. Thời gian bé Hồng khôn lớn cắp sách đến trường, học hết lớp 9 vẫn mang nỗi niềm là con không cha vì chưa chưa chính thức cưới hỏi, chấp nhận thoe pháp lý nên nhức nhối là mẹ con Nương chưa được hưởng chính sách gia đình liệt sỹ như mọi người. Có đôi lần, Nương âm thầm dắt con qua thăm mộ Đức Inh ở Vũng Gấm lúc chưa bốc về nghĩa trang.
Thế rồi với cuộc đời còn quá trẻ, cô phải đi bước nữa, Nương dọn nhà về Xuyên Mộc với người chồng mới tiếp tục hạ sinh thêm 3 đứa con. Gia đình yên ấm vì anh chồng này cũng mến thương bé Hồng coi như con mình. Hàng ngày anh đi biển câu mực, con gái lớn ở nhà với mẹ, chăm sóc đàn em lo việc vá may. Thế là họ đành an phận qua ngày tháng cho quên đi quá khứ một thời.
Nghe Lê Bảy kể lại chuyện mẹ ruột liệt sỹ Đức Inh cho người em trai của Inh từ miền Bắc vào tìm giọt máu rơi – là cháu nội của mình, bà Chín Bi, một bà mẹ miền Nam giàu độ lượng, ngồi gạt nước mắt, không chút băn khoăn oán trách mà vui vẻ lên xe đò xuống Xuyên Mộc bàn bạc với con gái đón cháu Hồng về gặp mặt Đức Vượng tại ngôi nhà riêng của Đại tá Lê Bảy. Đứa cháu gái khá xinh xắn, mơn mởn với cái tuổi 17 hôn nhiên vô tư, liến thoắng ngồi bên ông chú trò chuyện. Nhìn hai cái miệng chú cháu của họ thật y khuôn với nụ cười của Đức Inh. Có lẽ do dòng máu thiêng liêng nên họ dễ dàng gắn bó tình thâm ngay khi mới gặp nhau.
Sau đó bà ngoại Chín Bi nén lòng, lau nước mắt dặn dò cháu ngoại: “Về ngoài Bắc ráng động viên an ủi bà nội thay cho bố đã hy sinh và nhớ lâu lâu, gởi thơ vô hoặc có điều kiện trở lại thăm quê ngoại trong này”.
Hai chú cháu dắt tay nhau lên xe. Mọi người thân xung quanh chi tay họ với tâm tư lẫn lộn niềm vui của cảnh hội ngộ và nỗi thương cảm xót xa cho một mối tình chung thuỷ bị trắc trở do lửa đạn chiến tranh.
 

27091403

Xe tăng
Biển số
OF-173970
Ngày cấp bằng
27/12/12
Số km
1,684
Động cơ
355,283 Mã lực
Nơi ở
Ngoài ruộng
Em kính mời các cụ tiếp tục ạ , hào hùng và bi tráng quá .
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
CHÂN DUNG NỮ LIỆT SỸ
Bộ ghế đá đặt cạnh bờ ao, trên lưng dựa một băng dài có khắ sâu mấy vần thơ:
Bâng khuâng tấc dạ niềm thương nhớ
Lộng gió trên sông đẹp bóng cờ
Mãi mãi hiên ngang Rừng Sác đứng,
Mỗi người ngã xuống, một bài thơ.
Bé Hùng Việt lên 7 tuổi ngồi đánh vần ê a từng chữ, rồi ngước mặt hỏi mẹ là bác sỹ Kim Hương:
- Mẹ à, ông ngoại, bà ngoại, bố mẹ cùng đi bộ đội đánh giặc, sao chỉ có mình bà ngoại được là liệt sỹ, mà bố và ông ngoại không được làm liệt sỹ?
Câu hỏi ngộ nghĩnh của trẻ thơ làm cả nhà đều cười. Ông ngoại chậm rãi giải thích cho cháu:
- Bà ngoại con đi đánh giặc ngoại xâm, đã anh dũng hi sinh ngoài chiến trường nên mới được truy tặng là liệt sỹ.
Bé lại liến thoắng hỏi: “Anh dũng hy sinh là thế nào, ngoại kể chuyện đặc công Rừng Sác đi ngoại…”
Những hình ảnh của một thời chiến tranh ác liệt như hiện rõ mồn một trước mắt anh Lê Bảy, nay đã có cháu ngoại.
Trong những ngày đầu năm 1965, sau khi dựng lên sự kiện Ma - đốc ở vịnh Bắc Bộ, giặc Mỹ cho máy bay ném bom vào thành phố Nam Định bắt đầu mở rộng chiến tranh bằng không quân ra miền Bắc hậu phương. Và ở miền Nam, chiến lược “chiến tranh đặc biệt” bị phá sản, quân xâm lược Hoa kỳ chuyển thành chiến tranh cục bộ quy mô bằng sức mạnh của một siêu cường. Cả nước sôi lên, hừng hực khí thế chống xâm lược. Hai miền Nam - Bắc đều hành quân ra trận.
Trên đồi cọ của đất Vĩnh Phú, nơi sơ tán một bộ phận của bệnh viện Việt – Xô, ông Hoàng Minh Chấp, một đ ảng viên của Nam Kỳ khởi nghĩa 1940 ngồi dặn dò hai cháu:
- Tao giờ già rồi, gần cả cuộc đời hai lần bị nhốt xà lim Côn Đảo, giờ không làm gì được, chỉ ngày Bắc đêm Nam. Hai đứa bây còn trẻ, nếu được phân công đi B góp sức cùng miền Nam đánh Mỹ thì cứ lên đường, để con Hương, thằng Hùng lại, tao và bà mày nuôi dạy. Dù sao tao vẫn phải làm tròn bổn phận một chiến sỹ c ộng s ản già.
Đại uý Lê Bảy và vợ là chuẩn uý Nguyễn Kim Mến, quân y sỹ mới ra trường dắt hai xe đạp xuống đồi, ra ga Chí Chủ để trở về Hà Nội. Bé Hương vừa lên 4, bé Hùng được 2 tuổi ngồi trên vỉa hè vẫy tay dặn mẹ: “Tết, ba má về với tụi con nhé”.
Suốt mấy tháng trường mang vác nặng tập hành quân từ Hoà Bình đến Thanh Hoá, với ba lô gạch đầu tiên chỉ 10 viên, nâng dần trọng lượng lên đến 25 rồi 30 và sau cùng thay vào đầy đủ trang thiết bị, tăng võng, ny lông, lương thực súng đạn để rồi đoàn người âm thầm lặng lẽ trên đường Nam tiến vượt Trường Sơn theo tiếng gọi của non sông. Khi vượt qua ngọn đồi cao 1001 mét gặp bạn bè ngược chiều, Lê Bảy chỉ kịp ghi vội mấy dòng qua bao thuốc lá gửi ra miền Bắc: “Nếu em có vượt Trường Sơn nên cắt ngắn mái tóc dài đến tận gót đi sẽ khỏi bận bịu trên đường đầy gai góc. Hẹn sẽ lại gặp nhau…” Vì anh còn nhớ rõ trong buổi chia tay lần cuối cùng ở ga Hàng Cỏ để lên đường về Nam, Kim Mến đã ứa lệ qua vai, nói khẽ một câu đầy quyết tâm: “Em cũng sẽ sắp xếp 2 con gởi lại miền Bắc, theo gót anh vượt Trường Sơn vì mình là đứa con của miền Nam tập kết…”
Năm 1967 Lê Bảy đang cùng anh em trung đoàn đặc công bám trụ chiến trương Rừng Sác thì được điện anh Năm, nhắn phòng cán bộ: “R quyết định bổ sung về Đoàn 10 quân y sỹ Kim Mến, đang trên đường giao liên xuống vùng ven…”.
Nhiều đêm chờ đợi khó ngủ, một buổi sáng mờ sương, Hoàng một mắt, chiến sỹ giao liên trạm Bà Bông, Phước An cắt rừng từ Phước Thọ đưa xuống tận căn cứ Rạch Tràm một phụ nữ vai mang ba lô con cóc, mặc bộ bà ba đen, tóc ngắn ngang vai, đúng là tân binh C mới bóc tem nói theo ngôn ngữ chiến trường, từ hậu phương lớn chi viện vào, và R tăng cường về chiến khu rừng ngập mặn này. Đó chính là Nguyễn Kim Mến, người đã từ chối quyết định cử đi đại học lấy bằng bác sỹ với lý do đơn giản: “Tôi tự nguyện về Nam chiến đấu, sẽ đi học sau cũng được”. Nước mắt lưng tròng mừng rỡ không phải vì được găp mặt lại người chồng thương yêu mà còn vì thương nhớ hai đứa con thơ đang ở cách xa vạn dặm gửi lại ông bà cùng tập kết, còn ở lại miền Bắc.
Vừa đến đơn vị, đang còn nước da mét vàng do sốt rét trong những ngày Trường Sơn, ngay hôm sau chị Mến đã đề nghị được mổ cho chiến sỹ Chu Văn Khí bị một đầu đạn ép tay xuyên cổ, còn cộm dưới da, vừa trở về đơn vị sau 25 ngày đêm đói khát vì bị thương, lạc đội hình trong trận đánh trên sông Lòng Tàu, toàn thân suy kiệt mình đầy thương tích, chỉ còn cặp mắt sáng, sống cầm hơi bằng đọt chà là và con vọp sống. Do điều kiện thiếu thốn của chiến trường, chỉ với lưỡi dao lam, chai thuốc đỏ, chị đã bạo tay rạch da cổ, gắp viên đạn ra, rửa sạch đưa cho Khí làm kỷ niệm.
 

Cup 70 cánh én

Xe tải
Biển số
OF-188697
Ngày cấp bằng
7/4/13
Số km
223
Động cơ
333,722 Mã lực
Và từ thành tích bé nhỏ ban đầu này, người nữ quân y đã nhanh chóng hoà nhịp cùng đội hình trung đoàn đặc công, lặn lội khắp nơi, từ tiền phương Ông Kèo đến tuyến sau Thị Vải. Những đêm thức trắng kéo cá nuôi thương binh, đột vào ấp chiến lược rut gạo nuôi quân, đội bom đạn phản kích ác liệt năm Mậu Thân 1968. Sáu lần trong đêm bị B52 cầy xới, chị và quản lý Ba Hùng một xuồng vượt khói lửa về Sở chỉ huy tại Tắc Chợ, báo cáo tình hình.
Nơi nào có mặt chị Tư Mến là nơi đó có niềm vui an ủi động viên chiến sỹ từ vết thương sấu cắn, đến nồi cháo cá thòi lòi… Chị đã cùng hoà hơi thở, nhuộm màu da đen nước mặn với chiến sỹ Rừng Sác anh hùng, vẫy vùng lập chiến công.
Trong những ngày ác liệt năm 1969, chị lại sinh thêm một cháu trai sau 15 ngày đã phải gởi vào ấp chiến lược cho một cơ sở là ông Bảy đóng ghe trong Phước Thái rồi chỉ 3 tháng sau, chị Tư Mến hy sinh.
Hôm đó tại căn cứ quân y ở Tắc Kỳ Quang trên bờ sông Thị Vải, chiếc trực thăng OH6 (thường gọi là Ong Ruồi) rà qua rà lại phát hiện dấu vết lạ, nó ném xuống mặt sình lầy 2 quả pháo màu xanh, đỏ chỉ điểm rồi vút bay đi. Đại đội phó Tư Mến liền báo cho đơn vị:
- Các chú thương binh mau chóng thoát ra khỏi khu vực này ngay.
- Chị Tư chạy trước đi “cá lẹp” tới giờ. - Một thương binh nói.
- Yên trí! Chị thu dọn dụng cụ một chút, sẽ đi ngay.
Chưa đầy 3 phút sau, từng cặp trực thăng phóng pháo thân dẹp lao tới. Hàng loạt hoả tiễn 90 ly tuôn xuống như mưa, cả khu căn cứ xác xơ, hầm hố tan tành khét lẹt mùi lá xanh quện với sình lầy cùng thuốc súng. Chị Tư Mến nằm úp mặt sóng soài, với một chân gẫy nát, bên vai vẫn còn nặng trĩu túi cứu thương, chiếc khăn rằn quấn cổ, chiếc ba lô cá nhân rách nát tung toé. Vẫn còn nhận được hình dáng từng mảnh của ba chiếc áo gối nhiều màu sắc với đường kim mũi chỉ thêu khá đẹp, văng dính lên đọt chà là, cành cây đước. Anh Lê Bảy nhớ lại cách đây vài tháng có lẽ là lần gặp nhau cuối cùng ở căn cứ hậu cần, vào một đêm nước lớn ngập rừng, trăng soi qua kẽ lá, nằm gối tay nhau trên sạp đước chị đã tâm tình bên vai anh: “Em còn ít vải trắng và chỉ mua từ Hà Nội, đã thêu cho 3 con 3 mặt áo gối khá đep. Tuy chiến tranh còn ác liệt nhưng chúng mình tin tưởng ngày thắng lợi sẽ gặp lại vì đã đặt tên con là Lê Toàn Thắng, phải không anh…”.
Từ lòng chảo Nhơn Trạch một đêm se lạnh của mùa gió bấc, Lê Bảy nhận được tin sét đánh ấy. Không dằn được lòng mình, anh Bảy đã chui xuống hầm địa đạo trước ánh sáng ngọn đèn cầy khóc âm thầm, ôn lại hình ảnh người vợ thân yêu đã không còn nữa. Đọc lại dòng chữ nguệch ngoạc của chính trị viên phó Hùng, gởi đến: “Em đã chôn cất chị tử tế dưới gốc chà là, chỉ còn duy nhất chiếc nhẫn kỷ vật gởi lại. Mong anh bớt đau buồn…”.
Một tổn thương quặn đau chưa nguôi, thì 5 ngày sau một tin buồn khác lại đến: “Chính trị phó quân y Hùng đã anh dũng hy sinh trong chiến đấu chống càn, để bảo vệ thương binh tại Tắc Kỳ Quang...”.
Bốn tháng sau đó, có quyết định của R. gọi đồng chí quân y sỹ Nguyễn Kim Mến đi học bổ túc bác sỹ. Sự thực cái gì phải đến thì nó đã đến, người phụ nữ miền Nam tập kết ra Bắc, rồi vượt Trường Sơn về Nam, là người vợ thuỷ chung, người mẹ hiền rất đỗi nhớ thương 3 đứa con của mình hơn ai hết đã lao ra trận với niềm tin chiến thắng, và hôm nay đã trở thành liệt sỹ Rừng Sác. Cùng trong trận đánh này, có bác sỹ Tư Quang và y tá Phương Linh, đã ngã xuống để bảo vệ thương bệnh binh.
Anh Lê Bảy lúc này là trung đoàn trưởng, trong nỗi đau riêng cùng với mất mát chung của đơn vị, anh tạm quên đi, cùng anh em lao vào chiến đấu ngày đêm không nghỉ. Từ khu A lội sông Lòng Tàu qua khu B, chỉ huy tác chiến và đơn vị liên tiếp vang dậy những chiến công nhận chìm tàu giặc nơi bến cảng Rạch Dừa, Cát Lái, Nhà Bè. Đốt cháy nhiều kho xăng, nổ tung nhiều kho đạn, hết chiến công này đến chiến công khác có lẽ anh Bảy cũng làm vui lòng người vợ thân thương và bao đồng chí đang vĩnh viễn nằm sâu dưới sông nước, sình lầy.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top