[Funland] [Lịch sử] Vài bài lịch sử - chính trị châu Phi hiện đại

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
3/ Vai trò của tướng Haftar trong cuộc khùng hoảng hiện nay
Ở tình hình hiện tại, phe LNA của Haftar được coi là phe mạnh nhất. Tướng Haftar được coi là có uy tín lớn nhất và là người có khả năng nhất lãnh đạo Libya trong tương lai. Uy thế rất lớn của tướng Haftar trong thế giới Arab giúp ông có sự ủng họ lớn của các nước lớn trong khối Arab, như Ai Cập, Arab Saudi, UAE,...Đặc biệt, tướng Haftar được coi là đồng minh của Nga, Pháp và chống lại phương Tây. Thậm chí đã có bằng chứng cho thấy lính đánh thuê Nga đang xuất hiện ngày càng nhiều trong hàng ngũ LNA.

Chống lại LNA, chính phủ GNA ở miền Tây được LHQ và Liên minh Châu Âu công nhận, nhưng lại chỉ được Thổ Nhĩ Kỳ ủng hộ quân sự. Nhưng vấn đề ở chỗ, sự can thiệp của Thổ Nhĩ Kỳ lại đang gia tăng nguy hiểm. Mới đây Thổ Nhĩ Kỳ đã gửi quân trực tiếp đến Libya, hành động bị coi là thách thức trực tiếp Nga và khối Arab. Trong bối cảnh đó, Nga và các nước Ai Cập có vẻ chưa tìm ra cách đối phó. Còn EU dùng ủng hộ GNA nhưng lại không dám đưa quân vào Libya.

Chiến sự ở Libya đã leo thang rất nhanh trong năm 2019. Hiện tại sau 1 năm, quân LNA đã tiến rất nhanh và đã kiểm soát tuyệt đại đa số lãnh thổ Libya và hiện nay đang vây hãm thủ đô Tripoli. Chiến sự ở Tripoli đang rất khốc liệt, và quân LNA vẫn chưa kiểm soát được thủ đô, trong khi sự can thiệp của Thổ Nhĩ Kỳ đang gây lo ngại. Mới đây nhất, cuộc đàm phán ở Nga đã thất bại, tướng Haftar cự tuyệt ngừng bắn.

Chiến sự Libya còn đang diễn biến phức tạp và chưa thể đoán được tình hình tiếp theo. Nhưng chắc chắn Nguyên soái Khalifa Haftar vẫn sẽ là người có vai trò lớn nhất trong tình hình sắp tới, do thế thượng phong mà LNA của ông đang nắm giữ.

4/ Vị thế của Haftar trong quan hệ quốc tế.
Tướng Haftar tự nhận mình là người theo chủ nghĩa Thế tục, chống lại Hồi giáo cực đoan. Điều này đã chi phối các quan hệ quốc tế của ông.

Tướng Haftar được coi là đồng minh của Nga và Tổng thống Putin. Rất nhiều vũ khí và lính đánh thuê Nga đã tới hỗ trợ LNA của tướng Haftar. Nhưng có nhiều ý kiến cho rằng tướng Haftar ''hiếu chiến'' hơn so với Putin mong đợi, và cự tuyệt đàm phán với Thổ Nhĩ Kỳ.

Ngoài Nga, Pháp được coi là đồng minh lớn thứ 2 của tướng Haftar. Nhưng họ không hoàn toàn nghiêng hẳn về Haftar. Pháp được cho là ủng hộ tướng Haftar nhằm bảo vệ các tài nguyên dầu mỏ của Pháp ở miền Đông Libya. Nhưng trong lịch sử Libya, nước Pháp lại có một vai trò đặc biệt, nên nghiễm nhiên họ cũng có ảnh hưởng lớn tới tình hình Libya.

Đối với các nước Arab, chủ nghĩa thế tục của Haftar được ủng hộ bởi Ai Cập, UAE, Jordan,...Nhất là với Ai Cập, đất nước này rất đặc biệt với Haftar. Mẹ của Haftar là người Ai Cập. Ông được đào tạo quân sự ở Ai Cập, tham chiến cùng quân đội nước này trong chiến tranh. Hiện nay, tướng Haftar có quan điểm rất tương đồng với Tổng thống al-Sisi của Ai Cập - một tướng quân đội cứng rắn chống lại Hồi giáo cực đoan. Ai Cập là đồng minh hỗ trợ tại chỗ lớn nhất cho LNA của Haftar.

Ngược lại, kẻ thù lớn nhất với tướng Haftar được xác định là Thổ Nhĩ Kỳ, mà có người nói là cá nhân Tổng thống Erdogan. Tướng Haftar nổi tiếng là người chỉ trích việc xa rời chủ nghĩa thế tục của Tổng thống Erdogan. Tướng Haftar từng tuyên bố ông Erdogan muốn trở thành "một Sultan thế kỷ 21", một câu nói sau đó được phe đối lập Thổ Nhĩ Kỳ thường xuyên sử dụng. Còn trên thực địa, rõ ràng quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đang chống lưng cho GNA và trực tiếp đối đầu với LNA của tướng Haftar.

Đối với châu Âu, thực tế ngoài Pháp thì đa số các nước còn lại đều không ủng hộ tướng Haftar. Họ ủng hộ GNA, với lý do GNA được LHQ công nhận. Nhưng các nước này rất không muốn can thiệp hành động quân sự nào vào Libya. Châu Âu đã cực lực phản đối hành động của Thổ Nhĩ Kỳ.

Nhân tố cuối cùng là nước Mỹ, cũng là điều duy nhất chưa rõ ràng. Cho đến hiện tại người ta vẫn chưa biết liệu Mỹ sẽ ngang về bên nào trong tình hình Libya, nhưng nhiều người cho rằng nếu Mỹ thực sự ủng hộ LNA sẽ là dấu chấm hết cho cuộc chiến, bởi phe LNA gần như sẽ chắc thắng.

Tuy vậy, thực sự tình thế của nước Mỹ cũng rất khó xử. Trước kia, Mỹ và châu Âu đều ủng hộ GNA được LHQ ủng hộ. Nhưng từ khi tướng Khalifa Haftar quay về Libya, nước Mỹ đã lâm vào thế rất khó xử. Chỉ riêng việc hiện tại, tướng Haftar vẫn là công dân Mỹ đã đủ khiến họ đau đầu. Lật lại lịch sử, Mỹ chính là nước đỡ đầu, hỗ trợ cho phe đối lập của tướng Haftar, cứu ông khỏi trại tù binh ở Chad sau khi bị Gaddafi bỏ rơi. Công khai chống lại tướng Haftar chẳng khác nào hành động tự bắn vào chân của Mỹ. Vậy nên cho đến lúc này, Mỹ đang chọn cách rút chân khỏi Libya, nhường sân chơi cho Nga-Thổ. Đây là điều nhiều người xem là "chiến thắng" của Nga trước Mỹ tại Libya.


Ảnh: Haftar và Lavrov
2020-01-13-libya-ceasefire.jpg
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
9/ Tìm hiểu về các cuộc chiến tranh ở miền Nam châu Phi giai đoạn cuối Chiến tranh Lạnh

Bài này là một chuỗi bài đang viết dở. Người viết dự định viết về các cuộc chiến Angola, Mozambique, Rhodesia, Tây Nam Phi,...nhưng mới chỉ viết được về Rhodesia và Mozambique cùng một bài ngoài lề về Bồ Đào Nha nên em đưa trước luôn.
73321231_416589242604167_4054269696575275008_n.jpg
 

Andydo

Xe điện
Biển số
OF-570664
Ngày cấp bằng
24/5/18
Số km
2,201
Động cơ
162,346 Mã lực
Nếu ngày đó Việt Nam cũng rời Cambodia sớm như này , dân Cam bị Pốt nó thịt hết thì bon LHQ cùng lắm cũng mửa ra được những câu vuốt đuôi tương tự thôi cụ nhỉ?
Trung Quốc là thằng chửi VN mạnh I
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
*Phần ngoài lề: SỰ SỤP ĐỔ CỦA ĐẾ QUỐC BỒ ĐÀO NHA VÀ CÁC HỆ QUẢ

1/ Sự tan rã Đế quốc Bồ Đào Nha, Cách mạng Hoa cẩm chướng và sự ngộ nhận về ''Cách mạng Màu''

Hiện nay trên các phương tiện thông tin, chúng ta không lạ với cụm từ ''Cách mạng màu''. Đây là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều hiện nay, ít nhất là ở Việt Nam nhằm ám chỉ ''chiến lược chống phá'' nhằm chống các chính phủ thiên tả, XHCN trên thế giới trong đó có nước ta. Với những gì miêu tả hiện nay, chúng ta mặc nhiên coi rằng ''Cách mạng Màu'' là do Mỹ giật dây nhằm chống phá các phong trào cánh tả thế giới.

Nhưng đó là một sai lầm, hoặc ngộ nhận vô tình!

Bởi lẽ tên gọi "Cách mạng màu'', về bản chất không gì hơn một cuộc cách mạng bất bạo động, ôn hòa không đổ máu. Hoàn toàn không có gì hơn! Và quan trọng nhất, một sự kiện dù rất quan trọng trên thế giới nhưng chúng ta có lẽ cố tình bỏ quên: những người Xã hội chủ nghĩa đã phát động cuộc cách mạng màu đầu tiên của thế giới: Cách mạng Hoa Cẩm Chướng của Bồ Đào Nha.

*Đế quốc Bồ Đào Nha và các thuộc địa trong những năm 1970s

Có thể nhiều người sẽ phản đối, nhưng cũng có người sẽ đồng ý. Đến giữa thế kỷ 20, Bồ Đào Nha vẫn còn bị coi là một đế quốc, nếu xem xét tên gọi Đế quốc là nước ''chuyên đi xâm lược'' theo cách dạy lịch sử ở phổ thông. Thực tế người ta đánh giá Đế quốc Bồ Đào Nha chỉ cáo chung chỉ sau tận năm 1999, khi trao trả thuộc địa cuối cùng là Macau về Trung Quốc Đại Lục. Còn trước đó, Bồ Đào Nha có thể coi là đế quốc thực dân cuối cùng của thế giới. Đơn giản vì họ là nước duy nhất còn giữ được thuộc địa của mình sau làn sóng phi thực dân hóa những năm 60 thế kỉ 20.

Cho đến những năm 60, khi mà các đế quốc Anh, Pháp,...đã mất gần hết các thuộc địa ở châu Phi, châu Á, Bồ Đào Nha vẫn giữ cho mình các thuộc địa:

-Hai nước Angola và Mozambique ở Nam châu Phi
-Nước Guinea Bissau ở Tây Phi
-Đảo quốc São Tomé and Príncipe ở Vịnh Guinea
-Đảo quốc Cape Verde ở Tây Phi
-Pháo đài São João Baptista de Ajudá thuộc nước Cộng hòa Benin (Benin độc lập nhưng pháo đài vẫn bị Bồ Đào Nha kiểm soát)
-Goa, Damman và Diu ở Ấn Độ
-Macau ở Trung Quốc
-Đông Timor ở Đông Nam Á
-Nhiều đảo hải ngoại trải khắp các đại dương

Cho đến lúc này, Đế quốc Bồ Đào Nha đã có tuổi đời 500 năm tuổi. Không phải nghiễm nhiên mà họ duy trì được các thuộc địa lâu như thế. Một số lý do được giải thích:

-Chính sách thuộc địa khác biệt của Bồ Đào Nha. Nước này không coi mình là một đế quốc, mà lại gọi là ''Quốc gia đa châu lục''. Nghĩa là tất cả các thuộc địa đều là lãnh thổ cùng 1 quốc gia. Bồ Đào Nha không coi các vùng lãnh thổ kia dưới quy chế thuộc địa, hay xứ bảo hộ, mà coi như là các ''tỉnh hải ngoại'' (província ultramarina). Với quy chế này, mọi công dân các vùng lãnh thổ đều được coi là công dân Bồ Đào Nha, hưởng quyền công dân, hệ thống luật pháp, tài chính,...hoàn toàn tương đương người Bồ Đào Nha chính gốc, và tự do hơn khá nhiều so với các thuộc địa của các đế quốc khác. Chính sách này thực tế được áp dụng sau khi các thuộc địa Nam Mỹ giành độc lập, dẫn đến điều chỉnh chính sách thuộc địa của Bồ Đào Nha.Điều này đã xoa dịu đáng kể các phong trào chống đối ở các thuộc địa còn lại.

-Chính sách thuộc đia của Bồ Đào Nha khá giống Anh, mà chính xác là học theo nước Anh. Họ không chủ trương vơ vét cạn kiệt tận gốc các thuộc địa, mà thay vào đó là khai thác đồng thời với đầu tư vào thuộc địa của mình, dù quốc lực của Bồ Đào Nha thua kém rất nhiều so với Anh. Điển hình cho chính sách này là Bồ Đào Nha đã xây dựng Macau thành một thuộc đại trù phú không kém Hong Kong của người Anh ngay sát bên cạnh. Hiệu quả của nó là các thuộc địa của Bồ Đào Nha tương đối thịnh vượng hơn so với của Pháp, Bỉ hay Tây Ban Nha,...cũng góp phần xoa dịu làn sóng đấu tranh ở các thuộc địa.

-Khác với các đế quốc khác, Bồ Đào Nha không thường xuyên có cái gọi là ''quân đội thuộc địa''. Người dân thuộc địa không bị bắt phục vụ quân đội Bồ Đào Nha. Việc kiểm soát các thuộc địa hoàn toàn do quân đội Bồ Đào Nha đảm nhận. Mặt khác, Bồ Đào Nha đứng ngoài hai cuộc thế chiến, nên không xuất hiện tình trạng người dân thuộc địa bị bắt nhập ngũ ra chiến trường làm bia đỡ đạn

-Các thuộc địa Bồ Đào Nha có lịch sử lâu dài 5 thế kỷ, người Bồ Đào Nha đã có kinh nghiệm đàn áp các phong trào đấu tranh trong thời gian dài.

-Bồ Đào Nha đã duy trì chính sách ngoại giao trung lập đến tận chiến tranh Lạnh. Nền đệ nhị Cộng hòa, (Estado Novo) đã được duy trì từ năm 1926 với một chính phủ bảo thủ. Trong chiến tranh Lạnh, họ không ngả về bên nào dù là Mỹ hay Liên Xô. Thậm chí Bồ Đào Nha còn bị coi là một trong những tàn dư của chủ nghĩa phát xít hậu Thế chiến 2 do liên hệ của họ với chế độ độc tài Franco ở Tây Ban Nha. Vì lẽ đó, cả Mỹ và Liên Xô không có lợi ích gì để ủng hộ các thuộc địa của Bồ Đào Nha độc lập.

Với những điều trên, cho đến năm 1960 tình hình chung của Đế quốc Bồ Đào Nha vẫn ổn định và thịnh vượng. Nhưng tình hình bắt đầu có thay đổi. Làn sóng phi thực dân hóa các thuộc địa châu Phi, đỉnh cao vào năm 1960 làm tan rã hệ thống thuộc địa của Anh và Pháp. Dù ít hay nhiều, nó cũng ảnh hưởng lên các thuộc địa Bồ Đào Nha.



74357030_434692697460488_4887144115323535360_n.jpg
 

Andydo

Xe điện
Biển số
OF-570664
Ngày cấp bằng
24/5/18
Số km
2,201
Động cơ
162,346 Mã lực
Đưa xe tải ra chiến đấu với xe tăng và máy bay. Thật chẳng khác nào tự sát. Người ta nghĩ vậy. Tuy nhiên thời điểm này, đó đã là những gì tốt nhất mà ngừi Chad có thể làm để bảo vệ đất nước!

Thế mà từ cuộc chiến tưởng chừng tự sát này, một huyền thoại chiến trường đã ra đời!

Những chiếc xe bán tải sở hữu động cơ mạnh mẽ, thiết kế khung xe cứng cáp, gầm cao thùng xe rộng, khả năng chuyên chở tải trọng cao đã chứng tỏ hiệu quả trên địa hình sa mạc. Quân đội Libya chịu tổn thất không nhỏ trước sự cơ động của những chiếc xe bán tải vũ trang.

Quân Libya có xe tăng? Quân Chad gắn súng chống tăng lên xe bán tải Toyota phóng bạt mạng. Xe tăng của quân Libya không thể bắn theo kịp tốc độ xe bán tải trong sa mạc. Ngược lại, sự cơ động của xe bán tải lại giúp quân Chad dễ dàng nã đạn về phía quân Libya từ mọi phía. Xe tăng của quân Libya không đủ nhanh để tránh.

Quân Libya có trưc thăng, máy bay ném bom? Quân Chad gắn súng phòng không lên xe tải vừa bắn vừa chạy. Bom đạn cũng khó mà đuổi được khi xe phóng 100km/h, cát bụi mù mịt.

Rủi trúng đạn thì sao? Quân Chad chỉ cần ''A lê hấp'', cả trung đội nhảy khỏi xe, thoát. Còn xe tăng của quân Libya, bị tên lửa ngắm rồi có lẽ là thôi. Trực thăng càng chết

Và quan trọng, đi trong sa mạc, Toyota không sợ bị lún cát, hỏng động cơ, kẹt bánh,...những điều trở thành nỗi ám ảnh quân Libya.

Thôi đụng đến kĩ thuật vũ khí sợ nhiều chuyên gia vào soi. Phần ưu điểm của Toyota chắc không ai rõ hơn các bác trong này.

Nói tóm lại, kết quả trận chiến khiến mọi người ngã ngửa. Quân đội Libya hiện đại với xe tăng, máy bay đã thảm bại trước đội quân nhà nghèo đi xa tải của Chad

Đỉnh điểm là trận chiến tháng 1/1987 quân đội Chad triển khai 3000 lính cùng những chiếc Toyota bán tải vũ trang tiến đánh địch, một cuộc đụng độ ác liệt xảy ra kết quả khiến ai cũng ngả ngửa khi quân Libya mất gần 800 lính, 92 xe tăng và 3 xe thiết giáp BMP-1 trong khi phía Chad chỉ mất có 18 lính và 3 chiếc Toyota. Sau đó không quân Libya tìm cách dùng không quân ném bom nhưng với sự cơ động của mình những chiếc Toyota tránh được hầu hết bom đạn. Kết thúc cuộc "chiến tranh Toyota" tổng thiệt hại của Libya là 7500 lính,800 xe tăng thiết giáp. 28 máy bay. Phía Chad hơn 1000 lính thiệt mạng và vài chục chiếc bán tải, một trực thăng Puma của Pháp.

maxresdefault.jpg
=)) =)) =)) =)) =)) =)) =)) =)) =)) =))
Hài không đỡ nổi
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
*Sự kiện Ấn Độ giải phóng Goa năm 1961

Tiểu bang Goa nằm ở bờ biển phía Tây Ấn Độ. Đây được xem là tiểu bang khác biệt nhất với phần còn lại của đất nước. Nó là tiểu bang nhỏ nhất, nhưng dưới sự cai trị của Bồ Đào Nha, nó trở thành một khu vực giàu có. Suốt từ đó đến nay, Goa là tiểu bang có thu nhập đầu người cao nhất của Ấn Độ, cao gấp 2,5 lần mức trung bình của đất nước. Tiểu bang mang đậm dấu ấn Bồ Đào Nha, với thành phố lớn nhất mang tên Vasco de Gama, nhà thám hiểm vĩ đại đã tìm đường từ châu Âu đến Ấn Độ thế kỷ 16.

Nhưng từ năm 1947, Ấn Độ giành độc lập, Goa đã trở thành một điểm nóng trong quan hệ giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha. Sau rất nhiều năm đàm phán không thành, Ấn Độ đã dùng vũ lực để giành lại Goa.

Ngày 18/12/1961 được coi là một ngày trọng đại trong lịch sử Ấn Độ. Sau khi Anh, Pháp trao trả độc lập cho Ấn Độ năm 1947, Bồ Đào Nha lại từ chối trả lại Ấn Độ các thuộc địa Goa, Daman và Diu, vẫn coi đó là các tỉnh Bồ Đào Nha và có đại biểu gốc Ấn trong nghị viện Bồ Đào Nha. Nhưng đến ngày 18/12/1961, quân đội của Cộng hòa Ấn Độ đã bất ngờ sử dụng vũ lực, ném bom và bắn phá Goa để chiếm lấy thành phố.

Bị tấn công bất ngờ, quân đội Bồ Đào Nha không tập trung chiến đấu mà gấp rút tiến hành chiến dịch di tản cho thường dân gốc Âu khỏi Goa. Chiến dịch này thực chất là một sự bất tuân lệnh. Bởi lẽ nó các máy bay được Bồ Đào Nha gửi đến Goa để chống Ấn Độ, nó lại được các binh sĩ ở đây dùng để chở thường dân di tản. Tương tự, khi con tàu mang tên ''Ấn Độ'' của Hải quân Bồ Đào Nha cập cảng Goa trên đường đến Đông Timor, đô đốc Manuel Vassalo e Silva đã đưa 800 người dân di tản lên tàu dù nó chỉ chứa được 300 người và chính quyền ở Lisbon không cho phép dân thường lên tàu. Hành động của đô đốc Manuel Vassalo e Silva dù cứu sống 800 sinh mạng, nhưng khiến ông bị đuổi khỏi quân đội và suýt nữa bị tử hình do bất tuân quân lệnh.

Do quân đội Bồ Đào Nha không chủ trương chiến đấu, cuộc tấn công Goa của Ấn Độ thắng lợi. 22 lính Ấn Độ, 30 lính Bồ Đào Nha hy sinh. Sau khi cuộc di tản dân thường kết thúc, 5000 lính Bồ Đào Nha ở đây đã hạ vũ khí đầu hàng.

Goa được sáp nhập vào nước Cộng hòa Ấn Độ, kết thúc 451 năm Bồ Đào Nha cai trị. Sự kiện Ấn Độ sáp nhập Goa là một sự kiện chấn động mạnh nhất thế giới thời điểm đó, làm chính trường thế giới dậy sóng. Hàng loạt các quốc gia, nhất là các nước châu Phi coi sự kiện này là ''châm ngòi nổ cho thùng thuốc súng'' để giải phóng các thuộc địa cuối cùng. Nhiều nước đã gọi đây là ''cuộc giải phóng Goa'' mặc dù chính bản thân Ấn Độ cũng chưa dám gọi đây là ''giải phóng''.

Trong lịch sử Ấn Độ, sự kiện sáp nhập Goa năm 1961 được coi là một cuộc giải phóng lãnh thổ trong lịch sử. Ngày nay ngày sáp nhập Goa năm 1961 được coi là ngày lễ lớn của bang và được tổ chức trên toàn đất nước Ấn Độ.

Sự kiện cũng là một dấu mốc quan trọng bậc nhất trong quá trình phi thực dân hóa các thuộc địa cuối cùng trên thế giới, được coi là mở đầu cho sự sụp đổ của Đế quốc Bồ Đào Nha. Trong nhiều cách đánh giá, sự kiện giải phóng Goa được xếp cao hơn trận Điện Biên Phủ một bậc.
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
*Cách mạng Hoa Cẩm chướng - Cách mạng màu đầu tiên

Sự kiện Ấn Độ sáp nhập Goa năm 1961 như một trận động đất làm rung chuyển gốc rễ chính quyền Bồ Đào Nha. Tiếp nối địa chấn này, là một loạt các sự kiện như sóng thần ập vào đế chế đang đến ngày tàn. Ngay trong năm đó, pháo đài São João Baptista de Ajuda, một trong những thuộc địa lâu đời nhất thế giới ở bờ biền Tây Phi thuộc Bồ Đào Nha, bị chính quyền mới của Cộng hòa Dahomey sáp nhập, sau khi nước này giành độc lập từ Pháp.

Có thể nhiều người chưa biết, Dahomey ngày nay là nước Cộng hòa Benin. Quốc gia này thực tế đã từng là một nước Cộng sản trong chiến tranh Lạnh. Năm 1980 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thăm Cộng hòa Benin. Nhưng chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Benin cuối cùng đã thất bại thảm hại.

Không ngừng lại ở đó, sau hàng thế kỷ im ắng, phong trào độc lập ở các thuộc địa lớn của Bồ Đào Nha ở châu Phi lại bùng nổ sau năm 1961.

Bắt đầu ở Angola, từ năm 1961 lần lượt 3 tổ chức vũ trang đòi độc lập ra đời, mở đầu cho chiến tranh Độc lập Angola. Tiếp sau đến năm 1963, Guinea Bissau nổi dậy, đến năm 1964, Mozambique cũng nối chân đứng lên. Sự nổi dậy đồng loạt ở các thuộc địa châu Phi đã kéo Bồ Đào Nha vào cuộc chiến dai dẳng, tốn kém mà lịch sử gọi là ''Chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha''.

Các cuộc chiến tranh thuộc địa đã khiến Bồ Đào Nha phải duy trì từ 150.000-200.000 quân ở nước ngoài. Chi phí cho chiến tranh tăng dần theo từng năm, đè nặng lên nền kinh tế. Nó cũng dẫn theo những áp lực và trừng phạt quốc tế giáng lên Bồ Đào Nha, do các quốc gia đều muốn Bồ Đào Nha nhanh chóng từ bỏ các thuộc địa, vốn đã bị coi là lỗi thời trên thế giới.

Ở trong nước, năm 1970 nhà độc tài António de Oliveira Salazar, người đã lãnh đạo Bồ Đào Nha suốt từ năm 1933 qua đời. Dưới chế độ Salazar, dù giúp Bồ Đào Nha có nền kinh tế phát triển cao, nhưng cùng với đó cũng là những chính sách đàn áp hà khắc lên người dân Bồ Đào Nha, trong đó có lực lượng cảnh sát mật PIDE. Người thay thế Salazar là Marcelo Caetano, không đủ tài năng để dẫn dắt đất nước. Người dân ngày càng căm ghét nền đề nhị Cộng hòa bảo thủ, cùng lúc bị áp lực kinh tế đè lên. Sự giận dữ trong quần chúng có cả sự phản đối từ quân đội Bồ Đào Nha, những người cho rằng đang bị lôi vào cuộc chiến vô nghĩa ở châu Phi.

Chế độ độc tài ở Bồ Đào Nha rõ ràng không có thiện cảm với quân đội. Họ biết rằng chỉ dựa vào lực lượng an ninh và cảnh sát mật tuyệt đối trung thành. Điều này dẫn đến sự việc nhiều sĩ quan quân đội bất mãn bị cảnh sát mật bắt cóc và thủ tiêu. Đến tháng 2 năm 1974, sự kiện chính quyền sa thải Tướng António de Spínola, một tướng quân đội cấp tiến đã trở thành giọt nước tràn ly, đẩy mâu thuẫn giữa quân đội với chính quyền lên đỉnh điểm.

Các sĩ quan khác, đứng đầu bởi Otelo Saraiva de Carvalho, đã thành lập một phong trào mang tên MFA để chống lại chính quyền. Dù biết rõ sự thành lập của MFA, chính phủ không có cách nào để dẹp bỏ nó.

Đúng 10h55 ngày 24/4/1974, chính biến nổ ra, bắt đầu bằng sự kiện Đài phát thanh Lisbon phát bài hát ''E Depois do Adeus'', ca khúc của Bồ Đào Nha gửi đến thi tại Cuộc thi âm nhạc nổi tiếng Eurovision năm 1974. Đó là ám hiệu để quân MFA hành động. Đến sáng ngày 25/5/1974, quân MFA đã chiếm sân bay, đài phát thanh, nhiều căn cứ quân sự và giải cứu được tướng António de Spínola đang bị cảnh sát mật giam lỏng tại nhà.

Thủ tướng Marcelo Caetano biết đã có đảo chính xảy ra, nên trốn đến trụ sở của Cảnh sát, nơi ông bị phát hiện vào bị bao vây bởi quân đội. Bất chấp kêu gọi người dân ở trong nhà, hàng ngàn người dân vẫn đổ ra đường ủng hộ quân đội, áp đảo cảnh sát. Cảnh sát PIDE chỉ nổ súng vào người dân ở António Maria Cardoso, làm 4 người dân thiệt mạng. Đây là những người duy nhất thiệt mạng trong cuộc cách mạng. Còn lại ở những nơi khác, lực lượng cảnh sát đã không có sự phản kháng nào.

Cuộc cách mạng thắng lợi sau khi kết thúc cuộc đàm phán giữa quân đội và thủ tướng Marcelo Caetano tại trụ sở của cảnh sát. Marcelo Caetano chấp nhận từ bỏ quyền lực, đổi lại được tị nạn ở Brazil. Thông báo về tuyên bố của Marcelo Caetano được truyền đi trên đài phát thanh, đánh dấu nền Đệ nhị Cộng hòa Bồ Đào Nha sụp đổ. Cuộc cách mạng chính thức thắng lợi.

Sở dĩ cuộc cách mạng tên là Cách mạng Hoa cẩm chướng là vì tính ôn hòa của nó. Ngoại trừ 4 người dân bị cảnh sát mật bắn chết ở António Maria Cardoso,, không có một phát đạn nào khác được bắn ra. Cuộc chính biến diễn ra chóng vánh, không có quân nhân nào thiệt mạng. Còn lý do người ta chọn hoa cẩm chướng là vì một sự vô tình.

Đó là từ một phụ nữ tên Celeste Caeiro, đang làm việc trong một cửa hàng đã đóng cửa vào lúc đảo chính xảy ra. Khi quân đội đi qua, bà Celeste Caeiro đã được binh sĩ hỏi xin thuốc hút. Nhưng cửa hàng không có thuốc, nên bà Celeste Caeiro đã lấy hết số hoa cẩm chướng còn lại tặng cho binh sĩ. Các binh sĩ cài hoa cẩm chướng lên súng. Hình ảnh này được chụp lại, và vô tình trở thành biểu tượng của cuộc cách mạng do sự kỳ lạ của nó.

Cách mạng hoa cẩm chướng là cách mạng màu đầu tiên của thế giới, với bản chất là cuộc cách mạng bất bạo động. Từ đó về sau, tên ''cách mạng màu'' được dùng để chỉ các cuộc cách mạng ôn hòa. Nhưng với một số nước, người ta vô tình hoặc cố ý lầm tưởng ''cách mạng màu'' chỉ nhằm để chống phá các nước XHCN. Lịch sử cho biết rằng họ đã sai.

portugal-explained-everything-you-need-to-know-about-the-carnation-revolution-5.jpg
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
Vài hình ảnh về cuộc cách mạng màu đầu tiên của thế giới.

revolution-25-april.jpg


naom_58ff640d4952f.jpg
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
Hàng năm đất nước Bồ Đào Nha cũng như nhiều ************* trên thế giới (thường là Brazil) đều kỷ niệm ngày cách mạng Hoa Cẩm Chướng năm 1974.

tải xuống.jpg


25-de-abril-revolução-dos-cravos-portugal-5.jpg


1429998683-9109.jpg
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
2/ Hệ quả của cách mạng hoa cẩm chưởng
*Với Bồ Đào Nha

Phải khẳng định một điều, cách mạng Hoa cẩm chướng ở Bồ Đào Nha là một cuộc cách mạng hơi hướng Xã hội chủ nghĩa. Điều này khẳng định khi nhìn vào thành phần sĩ quan MFA, hầu hết là những người có liên hệ với *************.

Cách mạng cẩm chướng diễn ra ôn hòa, nhưng sự ôn hòa trớ trêu thay lại không diễn ra sau cách mạng. Ngay sau khi giành được quyền lực, chính phủ mới của Bồ Đào Nha đã lục đục. Trong suốt hai năm 1974-1975, đất nước Bồ Đào Nha hỗn loạn và chia rẽ. Những người cộng sản ôn hòa (thường là Đảng Xã hội) và cực đoan (thuộc *************) đấu đá nhau dẫn đến giải thể MFA. Thời kỳ hỗn loạn đó được gọi với cái tên ''Processo Revolucionário Em Curso'' (cách mạng tiếp diễn, hoặc cái tên mỹ miều là ''thời kỳ quá độ''). Cuộc quá độ thất bại của Bồ Đào Nha đánh dấu bằng sự kiện ngày 25/11/1975, những người Cộng sản Bồ Đào Nha tiến hành đảo chính thất bại, dẫn đến việc bị tẩy chay trước bầu cử.

Bồ Đào Nha tiến hành bầu cử tự do năm 1976. Bất chấp kỳ vọng của Liên Xô và nhiều nước khác, ************* Bồ Đào Nha đã thất cử do các hành động cực đoan của họ. Người thắng cử là Mário Soares, thuộc Đảng Xã hội Trung tả.

Sau cuộc bầu cử năm 1976, về kinh tế Bồ Đào Nha đã chọn đi theo các chính sách quốc hữu hóa của phe cánh tả. Nền kinh tế hồi phục chậm nhưng đến những năm 90 đã đạt được thành tựu đáng kể. Nhưng về chính trị, họ chọn con đường dân chủ nghị viện Châu Âu. Sau năm 1989, Bồ Đào Nha càng nghiêng về EU, xóa bỏ bớt các yếu tố thiên tả trong hiến pháp. Ngày nay, Bồ Đào Nha vẫn được coi là một nước dân chủ đầy đủ trong Liên minh châu Âu.
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
*Với các thuộc địa châu Phi
Cách mạng hoa cẩm chướng ở Bồ Đào Nha là một sự kiện bất ngờ, đặt dấu chấm hết ngay lập tức với các cuộc chiến tranh ở các thuộc địa châu Phi. Tuy nhiên, bên cạnh hiêu quả là nền độc lập được trao cho các nước Angola, Mozambique, Guinea Bissau, São Tomé and Príncipe và Cape Verde, hậu quả của nó cũng không hề nhỏ.

Sự rút quân đột ngột của Bồ Đào Nha đã vô tình để lại một khoảng trống quyền lực khó định hình ở các thuộc đia. Lý do là thời điểm cách mạng nổ ra, chiến sự ở các thuộc địa đang nghiêng phía có lợi cho Bồ Đào Nha. Các lực lượng kháng chiến ở các nước châu Phi, không lực lượng nào giành thắng lợi lớn. Hơn nữa, phe kháng chiến ở các nước đó lại là những nhóm riêng rẽ, thậm chí đối nghịch nhau. Từ đó dẫn đến nội chiến dai dẳng và đẫm máu ngay sau khi Bồ Đào Nha rút đi.

Tiêu biểu cho điều này là trường hợp của Angola. Trước khi Bồ Đào Nha rút về, nước này có 3 phong trào kháng chiến riêng biệt.

-Đầu tiên, sớm nhất là Mặt trận giải phóng dân tộc Angola (FLNA). Đây thực chất là nhóm chỉ đấu tranh đòi khôi phục vương quốc của bộ lạc Bakongo nằm giữa Angola và Zaire. Nói cách khác, đây là một tổ chức phi chính trị, chỉ có chủ nghĩa dân tộc. Vì điều này mà đây là nhóm yếu nhất, khi không có phe nào trong chiến tranh Lạnh sẵn sàng giúp đỡ họ. Nhưng trong cuộc chiến chống Bồ Đào Nha họ có vai trò rất lớn
-Thứ hai là Phong trào giải phóng nhân dân (MPLA), là một nhóm Cộng sản. Đây là nhóm lớn nhất, cũng là nhóm được hỗ trợ nhiều nhất. Sự giúp đỡ ở đây bao gồm cả việc quân đội Liên Xô và Cuba đã sang tận Angola để giúp MPLA chiến đấu chống lại các nhóm đối địch. Với sự giúp đỡ của ngoại bang, MPLA là phe đã giành chiến thắng trong nội chiến.
-Cuối cùng là Liên minh vì Độc Lập và toàn vẹn của Angola (UNITA), do Jonas Savimbi lãnh đạo. Trong chiến tranh, nhóm này không chiến đấu rộng rãi mà chỉ hoạt động ở phía Bắc Angola. UNITA là phe được Mỹ và Nam Phi hỗ trợ chiến đấu chống lại quân đội Liên Xô, Cuba và MPLA nhưng thất bại.

Do không có phe nào giành lợi thế trên chiến trường, cả 3 đã lao vào đánh nhau trong cuộc nội chiến đẫm máu. Đầu tiên FLNA bị đánh bại, sau đó MPLA chiến đấu với UNITA suốt hàng chục năm. Nội chiến Angola kéo dài tận năm 2002, làm nửa triệu người chết và tàn phá nền kinh tế đất nước. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi của phe Cộng sản MPLA.

Tương tự là nội chiến ở Mozambique. Trước khi giành độc lập nước này cũng có 2 phong trào kháng chiến khác nhau là Mặt trận Giải phóng Mozambique (FRELIMO) và Kháng chiến quốc gia Mozambique (RENAMO). FRELIMO là nhóm cộng sản, chiến đấu ở miền Bắc, trong khi RENAMO là nhóm thân phương Tây, chiến đấu ở miền Nam. Khi Bồ Đào Nha rút đi, phe FRELIMO đã thừa cơ chiếm lấy các vùng rộng lớn, buộc RENAMO phải lui sang đất Nam Phi tiến hành chiến tranh du kích. Nội chiến Mozambique là một trong những cuộc chiến đẫm máu nhất thế kỷ, làm hơn 1 triệu người thiệt mạng, biến Mozambique thành đất nước nghèo nhất thế giới

*Thảm họa Indonesia xâm lược Đông Timor năm 1975
Một sự kiện diễn ra ngay sát chúng ta nhưng có vẻ không nhiều người biết đến.

Khác với châu Phi, Đông Timor không trải qua chiến tranh giành độc lập. Người dân Đông Timor đang chấp nhận sống yên bình dưới quy chế tỉnh hải ngoại của Bồ Đào Nha thì bỗng nhiên cách mạng bùng nổ. Quyết định trao trả độc lập bất ngờ khiến người Đông Timor chưa kịp chọn ra chính phủ mới. Sau một thời gian với các hoạt động chính trị vội vã, một đảng phái tên là Mặt trận Cách mạng Đông Timor độc lập (Fretilin) nổi lên và giành được sự ủng hộ của người dân.

Vấn đề ở chỗ, một số thành viên, dù không nhiều của Fretilin có liên hệ với phong trào Cộng sản, thậm chí có quan hệ với Trung Quốc, Liên Xô. Điều này gây lo ngại cho nhiều nhân vật bảo thủ của Đông Timor. Nhưng nguy hiểm hơn, nó còn làm cho nước láng giềng khổng lồ Indonesia thấy bất an, khi Indonesia là một nước chống Cộng cực đoan vào thời đó. Điều này trở thành thảm họa khi một số người Đông Timor, vì lợi ích chính trị hẹp hòi, đã cầu viện quân Indonesia.

Trong các nhóm đối địch với Fretilin, có nhóm Liên minh dân chủ Timor (UDT). Đây là một nhóm có trụ sở ở cả Đông Timor lẫn Tây Timor (thuộc lãnh thổ Indonesia). UDT chủ trương thống nhất với Indonesia, mặc dù nhiều người kịch liệt phản đối, coi đó là ''bán nước''. Tháng 8 năm 1975, một xung đột vũ trang giữ UDT và Fretilin đã làm nhiều người chết, hàng nghìn nhân vật của UDT phải tháo chạy sang Indonesia.

Các nhân vật cứng rắn nhất trong quân đội Indonesia, lo ngại sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Timor, có thể kích động sự ly khai ở các vùng khác của Indonesia. Tổng thống Suharto, ban đầu tỏ ra thận trọng. Nhưng những lời đe dọa về ''mối nguy cộng sản'' của các tướng lĩnh khiến Suharto phải đồng ý. Kế hoạch xâm lược Đông Timor được thông qua.

Ngày 7 tháng 12 năm 1975 ghi dấu một ngày đen tối trong lịch sử Đông Nam Á. Quân đội Indonesia thực hiện một cuộc nhảy dù vào thủ đô Dili của Đông Timor, nơi họ giết 122 lính của Fretilin và có 35 lính chết. 3 ngày sau, 35.000 quân Indonesia đã tràn ngập Đông Timor. Dù binh sĩ không nhiều, nhưng cuộc xâm lược vẫn tập trung gần như những tướng lính tài giỏi nhất của quân đội Indonesia lúc bấy giờ.

Những gì kể lại sau đó, nếu đúng sự thật thì là một sự tang tốc ghê rợn. Quân đội Indonesia được báo cáo là giết người dã man, bừa bãi trên các đường phố, cướp bóc, hãm hiếp thậm chí cả trẻ em,...Sự tàn bạo của quân đội Indonesia không chỉ dừng lại nhằm vào FRETILIN. Các báo cáo bạo lực nhắm vào người Trung Quốc cũng được ghi nhân. Quân đội Indonesia thậm chí còn giết chết một nhà báo Úc tên Roger East bằng cách xử bắn tập thể cùng hơn 50 người khác, vụ việc đã bị chính quyền Úc tố cáo lên quốc tế.

Quân FRETILIN chấp nhận rút lui khỏi các thành phố, lùi sâu vào các vùng núi hiểm trở nhất để tiến hành chiến tranh du kích chống Indonesia.

Indonesia đã chiếm và sáp nhập Đông Timor thành tỉnh thứ 29 của nước này. Cuộc chiếm đóng kéo dài đến năm 1999, nghĩa là gần 1/4 thế kỷ. Trong thời gian đó, 108.000 người Đông Timor đã chết, chiếm 1/5 dân số nước này. Đây là một tội ác chưa từng có trong lịch sử Đông Nam Á hiện đại. Ủy ban sự thật về Đông Timor của LHQ đã cho rằng các lực lượng Indonesia chịu trách nhiệm cho khoảng 70% các vụ giết người bạo lực. 24 năm chiếm đóng Đông Timor bị coi là trang sử đen tối trng lịch sử Indonesia, khi họ bị quốc tế lên án và trừng phạt.

Cho đến tận năm 1998, tương lai của Đông Timor vẫn rất đen tối. 20% dân số đã chết vì chiến tranh, đói rét và bệnh tật. Phong trào kháng chiến bị đàn áp khốc liệt, có lúc chỉ còn có 200 người. Nhưng ở tận cùng của tuyệt vọng, tương lai đã sáng trở lại với Đông Timor. Quốc gia xâm lược họ, Indonesia thay đổi chế độ. Suharto từ chức năm 1998, chấm dứt chế độ độc tài hà khắc. Chính phủ mới của Indonesia đã cho phép Đông Timor trưng cầu dân ý năm 1999, với kết quả là người dân chọn độc lập. Nhưng từ đó đến năm 2002, Đông Timor do LHQ quản lý.

Ngày 20/5/2002, quốc gia Đông Timor chính thức tái độc lập, trở thành quốc gia thứ 11 ở Đông Nam Á.

*Trao trả Macau năm 1999
Macau là một vùng đất nhỏ, được cho Bồ Đào Nha thuê từ tận thời nhà Minh (1557). Từ đó, người Bồ Đào Nha đã dần biến Macau thành một khu vực giàu có phồn thịnh bậc nhất thế giới, tương đương với Hong Kong cách đó không xa. Dưới thời Đế quốc Bồ Đào Nha, giống các thuộc địa khác, Macau mang quy chế tỉnh hải ngoại, có đại biểu gốc Hoa trong nghị viện Bồ Đào Nha.

Từ năm 1987, Bồ Đào Nha và Trung Quốc đã đàm phán thành công về Macau. Năm 1999, 2 năm sau khi Anh trao trả Hồng Kong, đàm phán Trung-Bồ tốt đẹp, với thỏa thuận trả Macau về cho Trung Quốc, nhưng duy trì ''chính sách Một quốc gia-Hai chế độ'', điều tương tự đã diễn ra với Hong Kong.

Ngày 20/12/1999, Macau chính thức được trao trả. Vào những ngày cuối cùng thế kỷ, sự kiện cũng đặt dấu chấm hết cuối cùng cho thời đại thực dân trên thế giới, với Bồ Đào Nha là Đế quốc thực dân cuối cùng!!!

1200px-LocationEastTimorNamed.svg.png
 
  • Vodka
Reactions: is3

Andydo

Xe điện
Biển số
OF-570664
Ngày cấp bằng
24/5/18
Số km
2,201
Động cơ
162,346 Mã lực
Ngày này trên khắp chiến trường Trung Đông - châu Phi, có lẽ không nơi nào không bắt gặp xe Toyota. Từ các chính phủ đến các nhóm khủng bố.

IS

toyota-blog.jpg
Xe Toyota bền thế được các anh IS chứng nhận mà các cụ nhà ta cứ bỉ bôi :))
 

Thangvjt

Xe buýt
Biển số
OF-91015
Ngày cấp bằng
6/4/11
Số km
511
Động cơ
409,322 Mã lực
Nơi ở
Hanoi
quá nhiều thông tin về lịch sử chính trị các nước ở một châu Lục xa lạ, đọc xong 1 lèo e rằng khó nhớ.
Cám ơn bác chủ thớt !
 

Andydo

Xe điện
Biển số
OF-570664
Ngày cấp bằng
24/5/18
Số km
2,201
Động cơ
162,346 Mã lực
*Cách mạng Hoa Cẩm chướng - Cách mạng màu đầu tiên

Sự kiện Ấn Độ sáp nhập Goa năm 1961 như một trận động đất làm rung chuyển gốc rễ chính quyền Bồ Đào Nha. Tiếp nối địa chấn này, là một loạt các sự kiện như sóng thần ập vào đế chế đang đến ngày tàn. Ngay trong năm đó, pháo đài São João Baptista de Ajuda, một trong những thuộc địa lâu đời nhất thế giới ở bờ biền Tây Phi thuộc Bồ Đào Nha, bị chính quyền mới của Cộng hòa Dahomey sáp nhập, sau khi nước này giành độc lập từ Pháp.

Có thể nhiều người chưa biết, Dahomey ngày nay là nước Cộng hòa Benin. Quốc gia này thực tế đã từng là một nước Cộng sản trong chiến tranh Lạnh. Năm 1980 Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã thăm Cộng hòa Benin. Nhưng chế độ Xã hội chủ nghĩa ở Benin cuối cùng đã thất bại thảm hại.

Không ngừng lại ở đó, sau hàng thế kỷ im ắng, phong trào độc lập ở các thuộc địa lớn của Bồ Đào Nha ở châu Phi lại bùng nổ sau năm 1961.

Bắt đầu ở Angola, từ năm 1961 lần lượt 3 tổ chức vũ trang đòi độc lập ra đời, mở đầu cho chiến tranh Độc lập Angola. Tiếp sau đến năm 1963, Guinea Bissau nổi dậy, đến năm 1964, Mozambique cũng nối chân đứng lên. Sự nổi dậy đồng loạt ở các thuộc địa châu Phi đã kéo Bồ Đào Nha vào cuộc chiến dai dẳng, tốn kém mà lịch sử gọi là ''Chiến tranh thuộc địa Bồ Đào Nha''.

Các cuộc chiến tranh thuộc địa đã khiến Bồ Đào Nha phải duy trì từ 150.000-200.000 quân ở nước ngoài. Chi phí cho chiến tranh tăng dần theo từng năm, đè nặng lên nền kinh tế. Nó cũng dẫn theo những áp lực và trừng phạt quốc tế giáng lên Bồ Đào Nha, do các quốc gia đều muốn Bồ Đào Nha nhanh chóng từ bỏ các thuộc địa, vốn đã bị coi là lỗi thời trên thế giới.

Ở trong nước, năm 1970 nhà độc tài António de Oliveira Salazar, người đã lãnh đạo Bồ Đào Nha suốt từ năm 1933 qua đời. Dưới chế độ Salazar, dù giúp Bồ Đào Nha có nền kinh tế phát triển cao, nhưng cùng với đó cũng là những chính sách đàn áp hà khắc lên người dân Bồ Đào Nha, trong đó có lực lượng cảnh sát mật PIDE. Người thay thế Salazar là Marcelo Caetano, không đủ tài năng để dẫn dắt đất nước. Người dân ngày càng căm ghét nền đề nhị Cộng hòa bảo thủ, cùng lúc bị áp lực kinh tế đè lên. Sự giận dữ trong quần chúng có cả sự phản đối từ quân đội Bồ Đào Nha, những người cho rằng đang bị lôi vào cuộc chiến vô nghĩa ở châu Phi.

Chế độ độc tài ở Bồ Đào Nha rõ ràng không có thiện cảm với quân đội. Họ biết rằng chỉ dựa vào lực lượng an ninh và cảnh sát mật tuyệt đối trung thành. Điều này dẫn đến sự việc nhiều sĩ quan quân đội bất mãn bị cảnh sát mật bắt cóc và thủ tiêu. Đến tháng 2 năm 1974, sự kiện chính quyền sa thải Tướng António de Spínola, một tướng quân đội cấp tiến đã trở thành giọt nước tràn ly, đẩy mâu thuẫn giữa quân đội với chính quyền lên đỉnh điểm.

Các sĩ quan khác, đứng đầu bởi Otelo Saraiva de Carvalho, đã thành lập một phong trào mang tên MFA để chống lại chính quyền. Dù biết rõ sự thành lập của MFA, chính phủ không có cách nào để dẹp bỏ nó.

Đúng 10h55 ngày 24/4/1974, chính biến nổ ra, bắt đầu bằng sự kiện Đài phát thanh Lisbon phát bài hát ''E Depois do Adeus'', ca khúc của Bồ Đào Nha gửi đến thi tại Cuộc thi âm nhạc nổi tiếng Eurovision năm 1974. Đó là ám hiệu để quân MFA hành động. Đến sáng ngày 25/5/1974, quân MFA đã chiếm sân bay, đài phát thanh, nhiều căn cứ quân sự và giải cứu được tướng António de Spínola đang bị cảnh sát mật giam lỏng tại nhà.

********* Marcelo Caetano biết đã có đảo chính xảy ra, nên trốn đến trụ sở của Cảnh sát, nơi ông bị phát hiện vào bị bao vây bởi quân đội. Bất chấp kêu gọi người dân ở trong nhà, hàng ngàn người dân vẫn đổ ra đường ủng hộ quân đội, áp đảo cảnh sát. Cảnh sát PIDE chỉ nổ súng vào người dân ở António Maria Cardoso, làm 4 người dân thiệt mạng. Đây là những người duy nhất thiệt mạng trong cuộc cách mạng. Còn lại ở những nơi khác, lực lượng cảnh sát đã không có sự phản kháng nào.

Cuộc cách mạng thắng lợi sau khi kết thúc cuộc đàm phán giữa quân đội và ********* Marcelo Caetano tại trụ sở của cảnh sát. Marcelo Caetano chấp nhận từ bỏ quyền lực, đổi lại được tị nạn ở Brazil. Thông báo về tuyên bố của Marcelo Caetano được truyền đi trên đài phát thanh, đánh dấu nền Đệ nhị Cộng hòa Bồ Đào Nha sụp đổ. Cuộc cách mạng chính thức thắng lợi.

Sở dĩ cuộc cách mạng tên là Cách mạng Hoa cẩm chướng là vì tính ôn hòa của nó. Ngoại trừ 4 người dân bị cảnh sát mật bắn chết ở António Maria Cardoso,, không có một phát đạn nào khác được bắn ra. Cuộc chính biến diễn ra chóng vánh, không có quân nhân nào thiệt mạng. Còn lý do người ta chọn hoa cẩm chướng là vì một sự vô tình.

Đó là từ một phụ nữ tên Celeste Caeiro, đang làm việc trong một cửa hàng đã đóng cửa vào lúc đảo chính xảy ra. Khi quân đội đi qua, bà Celeste Caeiro đã được binh sĩ hỏi xin thuốc hút. Nhưng cửa hàng không có thuốc, nên bà Celeste Caeiro đã lấy hết số hoa cẩm chướng còn lại tặng cho binh sĩ. Các binh sĩ cài hoa cẩm chướng lên súng. Hình ảnh này được chụp lại, và vô tình trở thành biểu tượng của cuộc cách mạng do sự kỳ lạ của nó.

Cách mạng hoa cẩm chướng là cách mạng màu đầu tiên của thế giới, với bản chất là cuộc cách mạng bất bạo động. Từ đó về sau, tên ''cách mạng màu'' được dùng để chỉ các cuộc cách mạng ôn hòa. Nhưng với một số nước, người ta vô tình hoặc cố ý lầm tưởng ''cách mạng màu'' chỉ nhằm để chống phá các nước XHCN. Lịch sử cho biết rằng họ đã sai.

portugal-explained-everything-you-need-to-know-about-the-carnation-revolution-5.jpg
Triệu like !
 

Buryat

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-596130
Ngày cấp bằng
26/10/18
Số km
857
Động cơ
137,740 Mã lực
Tuổi
46
*Phần ngoài lề: SỰ SỤP ĐỔ CỦA ĐẾ QUỐC BỒ ĐÀO NHA VÀ CÁC HỆ QUẢ

1/ Sự tan rã Đế quốc Bồ Đào Nha, Cách mạng Hoa cẩm chướng và sự ngộ nhận về ''Cách mạng Màu''

Hiện nay trên các phương tiện thông tin, chúng ta không lạ với cụm từ ''Cách mạng màu''. Đây là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều hiện nay, ít nhất là ở Việt Nam nhằm ám chỉ ''chiến lược chống phá'' nhằm chống các chính phủ thiên tả, XHCN trên thế giới trong đó có nước ta. Với những gì miêu tả hiện nay, chúng ta mặc nhiên coi rằng ''Cách mạng Màu'' là do Mỹ giật dây nhằm chống phá các phong trào cánh tả thế giới.

Nhưng đó là một sai lầm, hoặc ngộ nhận vô tình!

Bởi lẽ tên gọi "Cách mạng màu'', về bản chất không gì hơn một cuộc cách mạng bất bạo động, ôn hòa không đổ máu. Hoàn toàn không có gì hơn! Và quan trọng nhất, một sự kiện dù rất quan trọng trên thế giới nhưng chúng ta có lẽ cố tình bỏ quên: những người Xã hội chủ nghĩa đã phát động cuộc cách mạng màu đầu tiên của thế giới: Cách mạng Hoa Cẩm Chướng của Bồ Đào Nha.

*Đế quốc Bồ Đào Nha và các thuộc địa trong những năm 1970s

Có thể nhiều người sẽ phản đối, nhưng cũng có người sẽ đồng ý. Đến giữa thế kỷ 20, Bồ Đào Nha vẫn còn bị coi là một đế quốc, nếu xem xét tên gọi Đế quốc là nước ''chuyên đi xâm lược'' theo cách dạy lịch sử ở phổ thông. Thực tế người ta đánh giá Đế quốc Bồ Đào Nha chỉ cáo chung chỉ sau tận năm 1999, khi trao trả thuộc địa cuối cùng là Macau về Trung Quốc Đại Lục. Còn trước đó, Bồ Đào Nha có thể coi là đế quốc thực dân cuối cùng của thế giới. Đơn giản vì họ là nước duy nhất còn giữ được thuộc địa của mình sau làn sóng phi thực dân hóa những năm 60 thế kỉ 20.

Cho đến những năm 60, khi mà các đế quốc Anh, Pháp,...đã mất gần hết các thuộc địa ở châu Phi, châu Á, Bồ Đào Nha vẫn giữ cho mình các thuộc địa:

-Hai nước Angola và Mozambique ở Nam châu Phi
-Nước Guinea Bissau ở Tây Phi
-Đảo quốc São Tomé and Príncipe ở Vịnh Guinea
-Đảo quốc Cape Verde ở Tây Phi
-Pháo đài São João Baptista de Ajudá thuộc nước Cộng hòa Benin (Benin độc lập nhưng pháo đài vẫn bị Bồ Đào Nha kiểm soát)
-Goa, Damman và Diu ở Ấn Độ
-Macau ở Trung Quốc
-Đông Timor ở Đông Nam Á
-Nhiều đảo hải ngoại trải khắp các đại dương

Cho đến lúc này, Đế quốc Bồ Đào Nha đã có tuổi đời 500 năm tuổi. Không phải nghiễm nhiên mà họ duy trì được các thuộc địa lâu như thế. Một số lý do được giải thích:

-Chính sách thuộc địa khác biệt của Bồ Đào Nha. Nước này không coi mình là một đế quốc, mà lại gọi là ''Quốc gia đa châu lục''. Nghĩa là tất cả các thuộc địa đều là lãnh thổ cùng 1 quốc gia. Bồ Đào Nha không coi các vùng lãnh thổ kia dưới quy chế thuộc địa, hay xứ bảo hộ, mà coi như là các ''tỉnh hải ngoại'' (província ultramarina). Với quy chế này, mọi công dân các vùng lãnh thổ đều được coi là công dân Bồ Đào Nha, hưởng quyền công dân, hệ thống luật pháp, tài chính,...hoàn toàn tương đương người Bồ Đào Nha chính gốc, và tự do hơn khá nhiều so với các thuộc địa của các đế quốc khác. Chính sách này thực tế được áp dụng sau khi các thuộc địa Nam Mỹ giành độc lập, dẫn đến điều chỉnh chính sách thuộc địa của Bồ Đào Nha.Điều này đã xoa dịu đáng kể các phong trào chống đối ở các thuộc địa còn lại.

-Chính sách thuộc đia của Bồ Đào Nha khá giống Anh, mà chính xác là học theo nước Anh. Họ không chủ trương vơ vét cạn kiệt tận gốc các thuộc địa, mà thay vào đó là khai thác đồng thời với đầu tư vào thuộc địa của mình, dù quốc lực của Bồ Đào Nha thua kém rất nhiều so với Anh. Điển hình cho chính sách này là Bồ Đào Nha đã xây dựng Macau thành một thuộc đại trù phú không kém Hong Kong của người Anh ngay sát bên cạnh. Hiệu quả của nó là các thuộc địa của Bồ Đào Nha tương đối thịnh vượng hơn so với của Pháp, Bỉ hay Tây Ban Nha,...cũng góp phần xoa dịu làn sóng đấu tranh ở các thuộc địa.

-Khác với các đế quốc khác, Bồ Đào Nha không thường xuyên có cái gọi là ''quân đội thuộc địa''. Người dân thuộc địa không bị bắt phục vụ quân đội Bồ Đào Nha. Việc kiểm soát các thuộc địa hoàn toàn do quân đội Bồ Đào Nha đảm nhận. Mặt khác, Bồ Đào Nha đứng ngoài hai cuộc thế chiến, nên không xuất hiện tình trạng người dân thuộc địa bị bắt nhập ngũ ra chiến trường làm bia đỡ đạn

-Các thuộc địa Bồ Đào Nha có lịch sử lâu dài 5 thế kỷ, người Bồ Đào Nha đã có kinh nghiệm đàn áp các phong trào đấu tranh trong thời gian dài.

-Bồ Đào Nha đã duy trì chính sách ngoại giao trung lập đến tận chiến tranh Lạnh. Nền đệ nhị Cộng hòa, (Estado Novo) đã được duy trì từ năm 1926 với một chính phủ bảo thủ. Trong chiến tranh Lạnh, họ không ngả về bên nào dù là Mỹ hay Liên Xô. Thậm chí Bồ Đào Nha còn bị coi là một trong những tàn dư của chủ nghĩa phát xít hậu Thế chiến 2 do liên hệ của họ với chế độ độc tài Franco ở Tây Ban Nha. Vì lẽ đó, cả Mỹ và Liên Xô không có lợi ích gì để ủng hộ các thuộc địa của Bồ Đào Nha độc lập.

Với những điều trên, cho đến năm 1960 tình hình chung của Đế quốc Bồ Đào Nha vẫn ổn định và thịnh vượng. Nhưng tình hình bắt đầu có thay đổi. Làn sóng phi thực dân hóa các thuộc địa châu Phi, đỉnh cao vào năm 1960 làm tan rã hệ thống thuộc địa của Anh và Pháp. Dù ít hay nhiều, nó cũng ảnh hưởng lên các thuộc địa Bồ Đào Nha.



74357030_434692697460488_4887144115323535360_n.jpg
Em kéo áo cụ chủ ở chỗ này. Macau, Singapore giàu là vì dân ở đó là dân Tàu, chứ không phải vì nó là thuộc địa của Bồ Đào Nha hay Anh. Cụ nói là nhờ nó là thuộc địa của Bồ Đào Nha thì oan quá. Thế thì khác gì nói:

- Hàn Quốc, Đài Loan, quần đảo Aleutian (nay thuộc Mỹ) giàu là vì từng là thuộc địa Nhật Bản
- Liên Xô và Trung Quốc trở thành siêu cường vì từng là thuộc địa của Mông Cổ
- Châu Âu giàu vì từng là thuộc địa của Bắc Hung-nô (Người Nam Hung-nô về sau đồng hóa trở thành người Hán) và Mông Cổ
 
Chỉnh sửa cuối:

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
*Chiến tranh Rhodesia (Rhodesia Bush War)

Bài này chắc chắn có rất nhiều phần trùng lại bài đầu. Nhưng bài đó là lấn sâu hơn về kinh tế - chính trị trước và sau. Còn bài này người viết tập trung sâu hơn vào chiến tranh đơn thuần.



RhodesiaAllies1965.png
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
Vào những năm cuối thập niên 70-80 của thế kỷ trước, khu vực miền Nam châu Phi bỗng nhiên trở thành chiến trường nóng bỏng nhất của thế giới. Một loạt các cuộc chiến tranh mang màu sắc ý thức hệ nổ ra, dẫn đến hình thành nhiều nhà nước Xã hội chủ nghĩa ở khu vực vốn trước đó được coi là thành trì của chủ nghĩa thực dân. Bởi lẽ trước đó nhiều thập kỷ, khi các khu vực khác ở châu Phi nói riêng và thế giới nói chung đồng loạt thoát khỏi chế độ thuộc địa, miền Nam châu Phi vẫn nằm trong sự kiểm soát của thực dân Bồ Đào Nha (như Angola, Mozambique,...) hoặc nằm dưới sự kiểm soát của các chế độ phân biệt chủng tộc của các chính quyền da trắng thiểu số (như Cộng hòa Nam Phi, Tây Nam Phi, Rhodesia,...). Sự sụp đổ của các chính quyền này coi như trút hơi thở cuối cùng của chủ nghĩa thực dân thế kỷ 20.

Bên cạnh đó, đặt trong bối cảnh chiến tranh Lạnh, các cuộc chiến tranh ở miền Nam châu Phi có ý nghĩa lớn với phe Xã hội chủ nghĩa thời này. Thời điểm những năm 80, khi khối Xã hội chủ nghĩa rơi vào thoái trào, suy yếu ở châu Âu, hay rơi vào xung đột nội khối ở châu Á,...thì sự hình thành các nhà nước Xã hội chủ nghĩa mới ở miền Nam châu Phi được coi như một sự cứu cánh với khối Cộng sản trong bối cảnh khó khăn. Tuy nhiên, kết quả cuối cùng là chiến thắng ở châu Phi đã không thể giúp Liên Xô và Đông Âu tránh khỏi sụp đổ.

Bài viết này nhằm cung cấp những thông tin cơ bản, giúp bạn đọc hiểu về các cuộc chiến tranh ở miền Nam châu Phi cuối chiến tranh lạnh bao gồm: chiến tranh độc lập Mozambique, chiến tranh độc lập Angola, nội chiến Mozambique, nội chiến Angola, chiến tranh Rhodesia (nay là Zimbabwe), chiến tranh biên giới Tây Nam Phi (nay là Namibia), 2 cuộc nổi dậy tại Shaba...Ngoài ra là các sự kiện khác liên quan như sự sụp đổ của chế độ A-pác-thai ở Nam Phi, chiến tranh Congo, các phong trào Cộng sản khác ở châu Phi, các xung đột nối tiếp hậu chiến tranh Lạnh, tình hình hiện tại ở miền Nam châu Phi,...

Tổng quát về khu vực miền Nam châu Phi và tình hình trong chiến tranh Lạnh:

Để phân biệt với nước Cộng hòa Nam Phi, từ đây khu vực Nam châu Phi sẽ được gọi là Nam Phi, còn nước Cộng hòa Nam Phi sẽ được ghi là CH Nam Phi.

Khu vực gọi là Nam Phi có thể khác nhau tùy phương diện. Trên phương diện địa chính trị, người ta coi khu vực này gồm các quốc gia lớn:
-Cộng Hòa Nam Phi
-Namibia
-Angola
-Zambia
-Botswana
-Zimbabwe
-Mozambique
-Malawi

Hai quốc gia nhỏ là Lesotho và Swaziland nằm lọt thỏm trong lãnh thổ CH Nam Phi không đáng kể trong lịch sử khu vực. Đảo quốc Madagascar nằm ngoài khơi Ấn Độ Dương, tách biệt về dân tộc, lịch sử, địa chính trị,...nên cũng không được coi là thuộc về Nam Phi.

Ngoài ra, đất nước Congo ở Trung Phi nhưng quá trình lịch sử rất gắn kết với khu vực Nam Phi. Cuộc chiến tranh Congo liên quan mật thiết đến các nước khu vực này. Thành phần dân tộc của các nước Nam Phi rất nhiều dân tộc xuất phát từ vùng Congo.

Các quốc gia Nam Phi hầu hết đều là thuộc địa của Anh và Bồ Đào Nha. Trước những năm 70-80, khu vực Nam Phi là một khu vực đặc biệt của thế giới. Nam Phi được coi là thành trì cuối cùng của chủ nghĩa thực dân, do các quốc gia này hoặc là thuộc địa của Bồ Đào Nha, hoặc nằm dưới sự cai trị của các chính quyền da trắng thiểu số. Tình hình cụ thể của các quốc gia lớn đến giữa chiến tranh Lạnh như sau:

-Cộng hòa Nam Phi: rộng 1.221.037 km², nằm ở cực nam Châu Phi.
Nước Cộng hòa Nam Phi có lịch sử hoàn toàn khác biệt với các nước còn lại ở châu Phi. Phần lớn đất nước này do người da trắng khai phá vào thế kỷ 17, cụ thể là người Hà Lan. Nhưng sau các cuộc chiến tranh Anh-Boer nổi tiếng, người Anh đã kiểm soát đất nước này. Liên bang Nam Phi trở thành lãnh thổ tự trị trong Liên Hiệp Anh. Quân lính Nam Phi đã chiến đấu bên cạnh Anh trong cả 2 cuộc thế chiến. Đất nước Nam Phi có sự đa dạng về chủng tộc, văn hóa rất cao.

Trong chiến tranh Lạnh, Nam Phi nằm dưới chế độ phân biệt chủng tộc A-pác-thai và là một quốc gia thân phương Tây, chống lại phe Xã hội chủ nghĩa, có quan hệ thù địch với Liên Xô. Nam Phi đã ''một mình một ngựa'' chống lại sự nổi lên của các nước Xã hội chủ nghĩa láng giềng trong những năm 70-80 thế kỉ 20, mặc dù cuối cùng họ thất bại. Quân đội Nam Phi đã cung cấp lính đánh thuê cho hầu hết các cuộc chiến trong khu vực, chống lại các nhóm vũ trang cánh tả. Họ cũng đã trực tiếp đối đầu với quân đội Liên Xô và Cuba.

-Namibia: Nằm bên bờ Đại Tây Dương, nằm về phía Đông Bắc cộng hòa Nam Phi. Diện tích 825.615 km². Có quan hệ rất gần gũi với Cộng hòa Nam Phi.

Quốc gia này trước kia có tên là Tây Nam Phi (South West Africa). Tên mới của quốc gia được đặt theo Sa mạc Namib lớn nhất đất nước. Đây là một trong những nơi hoang vắng nhất địa cầu, với hoang mạc ăn ra sát bờ biển. Chính vì vậy, quốc gia này được khai phá rất muộn. Tây Nam Phi là quốc gia duy nhất trong khu vực là thuộc địa của Đức, sau khi các đế quốc khác đã chia xong thế giới.

Nhưng sau Thế chiến 1, nước Đức bại trận, quyền kiểm soát Tây Nam Phi được trao cho người Anh. Lợi dụng điều này, người Anh đã sáp nhập Tây Nam Phi vào lãnh thổ Cộng hòa Nam Phi. Điều này đã gây nên xung đột dẫn đến cuộc Chiến tranh biên giới Tây Nam Phi.

-Angola: quốc gia nằm bên bờ Đại Tây Dương, phía Bắc của Namibia. Tỉnh Kabinda nằm biệt lập về phía Bắc, thuộc về Trung Phi. Diện tích 1.246.700 km2

Angola là quốc gia nhiều dầu mỏ bên bờ Đại Tây Dương. Angola bị người Bồ Đào Nha xâm chiếm từ rất sớm và trở thành thuộc địa gần 500 năm, không bị lôi kéo vào các cuộc chiến tranh giành thuôc địa. Phòng trào độc lập ở đây diễn ra muộn và chỉ giành thắng lợi nhờ vào sự thay đổi chế độ ở Bồ Đào Nha.

Sau độc lập Angola trở thành một nước Xã hội chủ nghĩa, nhưng rơi vào cuộc nội chiến đẫm máu giữa chính phủ và các nhóm kháng chiến chống Cộng. Nội chiến Angola là cuộc chiến điển hình nhất cho Chiến tranh Lạnh ở châu Phi, với sự can dự quốc tế của quân đội Liên Xô, Cuba lẫn Nam Phi cùng nhiều nước khác.

-Mozambique: cũng là một thuộc địa của Bồ Đào Nha, nhưng nằm bên bờ Ấn Độ Dương. Diện tích 801.590 km²

Quốc gia này là quốc gia duy nhất ở Nam Phi có sự pha trộn của Hồi Giáo, là kết quả của các cuộc chinh phạt do người Oman Hồi giáo tiến hành trên bờ biển Đông Phi.

Mozambique có lịch sử hiện đại tương tự với Angola. Họ giành độc lập tương tự như Angola, và sau đó cũng rơi vào nội chiến. Nhưng khác với Angola, Mozambique không cho quân đội nước ngoài hiện diện trên lãnh thổ. Nhưng Mozambique lại đóng vai trò lớn trong các cuộc xung đột khác trong khu vực cùng thời điểm đó, tiêu biểu là cuộc chiến tranh ở Rhodesia.

-Zimbabwe: là một quốc gia nằm sâu trong lục địa, giáp với Congo, diện tích 309.757 km².

Trước kia gọi là Nam Rhodesia hay Rhodesia. Quốc gia này là thuộc địa của Anh, nằm trong một liên bang cùng với Zambia và Malawi.

Rhodesia tuyên bố độc lập khỏi Anh năm 1965 nhằm duy trì quyền lực cho chính quyền thiểu số da trắng ở đây. Điều này dẫn theo các lệnh trừng phạt quốc tế, và sự nổi dậy của các nhóm Cộng sản chủ yếu của người da đen ở nước này. Cuộc chiến tranh Rhodesia diễn ra từ những năm 60 kéo dài đến khi chính quyền da trắng sụp đổ, quyền lưc rơi vào tay nhà độc tài da đen Robert Mugabe, đất nước đổi tên thành Zimbabwe.

Zimbabwe trải qua suy thoái và nghèo đói cùng cực dưới thòi Mugabe, trở thành một trong những nước nghèo nhất địa cầu.

Quân đội Zimbabwe cũng tham chiến trong chiến tranh Congo những năm 1997-2002.

-Zambia: quốc gia nằm trong lục địa, nổi tiếng có nhiều mỏ đồng. Diện tích 752.618 km2.

Trước kia là Bắc Rhodesia, thuộc địa của Anh cùng thuộc liên bang với Rhodesia.

Zambia giành độc lập từ Anh năm 1964, trở thành một nước Xã hội chủ nghĩa độc đảng dưới sự lãnh đạo của Tổng thống duy nhất Kenneth Kaunda. Kenneth Kaunda đã cầm quyền đến nước đến tận năm 1991, khi Liên Xô sụp đổ. Mặc dù vậy sau khi dân chủ hóa Kenneth Kaunda vẫn đắc cử tổng thống.

Trong chiến tranh Lạnh, mặc dù thuộc phe XHCN nhưng Zambia vẫn cố gắng duy trì trung lập trong các cuộc chiến xung quanh, chỉ hạn chế trong ủng hộ ngoại giao với các tổ chức Cộng sản trong khu vực. Họ cũng thường xuyên đứng ra hòa giải cho các cuộc chiến ở các nước láng giềng.

-Malawi: quốc gia không giáp biển nhưng lại nằm bên hồ Malawi, một trong những hồ lớn của châu Phi. Là quốc gia nhỏ, diện tích 118.484 km².

Trước kia tên là Nyasaland, một thuộc địa của Anh cùng với Liên bang Rhodesia. Malawi giành độc lập năm 1964, dưới phong trào độc lập do Hastings Banda đứng đầu.

Hastings Banda thiết lập ở Malawi một chế độ độc tài hà khắc, chống Cộng, đàn áp các nhóm đối lập,...Malawi được coi là đồng minh duy nhất của CH Nam Phi trong các cuộc chiến tranh ở miền Nam châu Phi. Tuy nhiên sau khi các nước lân cận lần lượt ngả theo phe XHCN, Hastings Banda đã buộc phải ra đi và để Malawi trở thành một nước dân chủ. Trong suốt thời gian chiến tranh Lạnh, Malawi không bị kéo vào xung đột vũ trang.

-Bostwana: là một quốc gia khô cằn nằm kín trong lục địa, bị sa mạc bao phủ hầu hết diện tích 581.730 km². Có dân số vô cùng ít ỏi và là một trong những nước thưa dân nhất thế giới.Quốc gia này hoàn toàn đứng ngoài các cuộc chiến tranh, bất chấp nhiều nỗ lực lôi kéo của các nước láng giềng. Dù vậy, Botswana cũng bị biến thành nơi đến cho những người tị nạn trốn chiến tranh ở các nước láng giềng, Ước tính khoảng 1 triệu người tị nạn đã đến Botswana, chiếm tới một nửa dân số quốc gia này.

-Lesotho và Swaziland: 2 vương quốc nhỏ bé, lạc hậu nằm trong lãnh thổ CH Nam Phi. Vì sự lạc hậu của mình mà 2 quốc gia này không có vai trò gì trong chiến tranh Lạnh.

-Madagascar: là một đảo quốc lớn ngoài khơi Ấn Độ Dương. Thành phần dân tộc và lịch sử quốc gia này biệt lập với châu Phi. Madagascar là thuộc địa của Pháp, giành độc lập năm 1960. Sau đó Madagascar rơi vào bất ổn và đảo chính liên miên, cho đến khi một sĩ quan Cộng sản tên Didier Ratsiraka lên nắm quyền năm 1975 đã thiết lập nền độc tài, chấm dứt sự bất ổn chính trị. Tuy nhiên chế độ độc tài khiến đất nước phá sản, nghèo đói dẫn đến sự sụp đổ của chính quyền năm 1991, cùng năm với Liên Xô.

Trên đây là cơ bản về các nước khu vực Nam Phi. Dưới đây chúng ta sẽ tìm hiểu về các cuộc chiến tranh ở khu vực này trong chiến tranh Lạnh. Phần đầu tiên, xin được dành để giới thiệu về Rhodesia - Zimbabwe
 

longhentai

Xe tải
Biển số
OF-606819
Ngày cấp bằng
2/1/19
Số km
473
Động cơ
126,666 Mã lực
Tuổi
26
I/ CHIẾN TRANH ZIMBABWE
Trong các cuộc chiến được coi là ''da đen chống da trắng'' ở Nam Phi, Rhodesia được coi là nơi nổ phát súng đầu tiên, nhưng lại giành chiến thắng sau cùng.

Cái tên Rhodesia đặt theo tên của nhà thám hiểm người Anh, Cecil Rhodes, người đã khai phá vùng đất này cho công ty Đông Ấn Nam Phi. Dưới sự cai trị của Anh, quốc gia này có tên là Nam Rhodesia, phân biệt với Bắc Rhodesia ngày nay là Zambia. Năm 1923, người Anh từng định sáp nhập Rhodesia với Nam Phi thành 1 thuộc địa duy nhất nhưng thất bại. Đến năm 1953, người Anh một lần nữa định sáp nhập Nam Rhodesia và Bắc Rhodesia thành một liên bang, và một lần nữa không thành công. Sự phản đối của người dân đã khiến người Anh quyết định trao quyền tự trị lớn hơn cho người dân Rhodesia.

Vào thời đó, Rhodesia là một quốc gia đa sắc tộc, với 16 ngôn ngữ lớn nhỏ được nói chính thức của chỉ riêng các dân tộc bản địa. Trong các dân tộc bản địa, lớn nhất là người Shona, sau đó là người Ndebele, 2 sắc tộc này có lịch sử xung đột lâu đời. Nhưng quyền lãnh đạo cả đất nước lại nằm trong tay những người da trắng, vốn là con cháu người châu Âu nhập cư từ nhiều thế kỷ, dù họ chỉ chiếm 1/20 dân số.

Chính quyền trung ương ở Anh không hài lòng với cách chính quyền da trắng thiểu số kiểm soát quyền lực, nên gây áp lực với lãnh đạo da trắng của Rhodesia là Thủ tướng Ian Smith buộc trao thêm nhiều quyền lực cho người da đen. Tuy nhiên, Thủ tướng Ian Smith không muốn điều này. Ông lo sợ những người da đen không có trình độ nắm quyền sẽ phá hoại đất nước. Vì vậy để tránh khỏi sự sắp đặt của chính quyền Anh, Ian Smith ra Đơn phương Tuyên bố Độc lập (UDI), tuyên bố tách khỏi Vương quốc Anh ngày 11 tháng 11 năm 1965. Mục đích của nó là muốn tiếp tục duy trì chính quyền cho người da trắng thiểu số. Sau khi tách ra, Ian Smith đổi tên Nam Rhodesia thành Cộng hòa Rhodesia.

Chính phủ Anh coi việc làm của Ian Smith là phản loạn, ngay lập tức có biện pháp trừng phạt Rhodesia, tìm cách buộc Ian Smith phải quay về con đường thành lập chính phủ dân chủ đa sắc tộc. Khi vấn đề Rhodesia được đưa ra Liên Hợp Quốc, Anh và phần lớn các nước trong Khối thịnh vượng chung, đã đồng ý kêu gọi Liên Hợp Quốc trừng phạt chính phủ da trắng của Rhodesia, bằng việc cấm nhập khẩu thuốc lá, crôm, đồng, amiăng, đường, thịt và da của Rhodesia. Các nước Xã hội chủ nghĩa, vốn luôn ủng hộ người da đen, tất nhiên cũng phản đối Rhodesia. Chính quyền Rhodesia bị coi là phân biệt chủng tộc, bị cả thế giới chống lại, ngoại trừ đồng minh duy nhất của họ: Nam Phi.

Udi2-rho.jpg
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top