Thầy lại lãng tránh rồi, cau hỏi tôi thuần túy về phong thủy đấy
.
Thêm câu hỏi thứ tư cho thầy (giả sử phong thủy là đúng) thì thầy thuộc kiểu nào trong ba thầy dưới đây
(vì tôi thấy các thầy phán qua internet ác quá chẳng thấy trèo đèo lội suối gì cả
):
Ba loại thầy phong thủy
Xem
phong thủy không có la bàn thì không xác định được phương vị. Khi xem phong thủy tức xét lý khí của dương âm trạch thực chất là tính toán từ trường (ảnh hưởng) của các sao cát hung đối với dương - âm trạch. Đây cũng là phần cốt yếu nhất, khó nhât trong phong thủy học. Đầu tiên phong thủy học chú trọng “loan đầu”, tức hình dáng thê đất, phương vị của dương - âm trạch. Nhìn bề ngoài tưởng dễ đoán, nhưng đoán cát hung chính xác không phái các nhà phong thủy nào cũng làm được.
Nhà phong thuỷ giỏi có thể dựa vào lưu niên phi tinh và phương vị địa thế phong thuỷ đế dinh cát hung, kết hợp với bát tự ngày sinh tháng đẻ cùa chủ nhà để kết luận từng trường hợp cụ thể. Nhà phong thúy hạng nhất có lòng nhân nghĩa, có thái dọ lễ phép, có đức trí tín, sẩn sàng giúp đời giúp người, xây cóng đức dể lại cho người.
Nhà phong thủy hạng hai bị lệ thuộc vào lý khí phong thủy, tuy có thế nhìn thấy họa phúc của con người, song không có năng lực cái tạo hóa giải, bảo vệ phong thủy. Loại người này gọi là “thuật sĩ”, đạo còn chưa thông, đức còn chưa đủ. Chỉ cần sơ suất bỏ qua một điều thì để lại di họa lâu dài cho chủ nhà.
Nhà phong thuỷ thứ ba, tâm bất chính, chỉ cầu danh lợi tiền của, dùng phong thủy là công cụ kiếm tiền. Loại này hại người vô cùng và vận số cũng ngắn. Những người này thường miệng nói thao thao bât tuyệt, hay dọa chủ nhà, dùng mánh khoé đế lừa gia chủ lấy tiền, phần lớn phá hoại phong thủy nhà cửa, mộ phần của gia chủ. Ví dụ như bạn có ý định mở cửa hàng bán
sky a900 xách tay cũ và bạn tìm đến một nhà phong thuỷ như mô tả trên. Thương thì người này sẽ k nói sự thật mà nói sai để ăn tiền ở bạn.
Phạm Doãn Ly là người xã Thái Bạt, huyện Bất Bạt, thuở nhỏ nhà nghèo, còn mẹ già vá một chị gái, gia sản chẳng có gì, thường sống bằng nghề cướp giật qua ngày. Một hôm đi đến xứ Dốc Ghề, thuộc xã Tòng Lệnh, gặp một cụ già vác một bọc nặng, đột nhiên nảy lòng thương. Ông lại gần thưa:
“Cụ tuổi già sức yếu mà mang nặng đường xa, lẽ nào người trẻ đi không lại đế người già bạc đầu mang vác cho đành”. Nói rồi ông ghé vai xin được vác hộ.
Đi được một dặm thấy cụ già dừng lại ý muốn giấu lấy một vật gì cất trong ống, ông nhìn lại thì chỉ là một chiếc la bàn và một quyển sách nát, ông liền ngồi lại đợi cụ. Tới khi trời sắp tối, cụ già xin ông cho ngủ lại một đêm, ông thưa:
“Nhà cháu chỉ là một chiếc lều nhỏ, trong chỉ có một chiếc giường tre, không dám mời cụ vào nghỉ”. Cụ nói:
“Chỉ tạm một đêm thôi mà”. Bất đắc dĩ, ông phải đưa cụ về nhưng đành phải thưa thực:
“Nhà chẳng có gì ăn, kiếm được chút cám, gạo nào đã dành nuôi mẹ gia và chị gái hết cá”. Nhưng Cụ già lại bảo:
“Anh nghèo nhưng là người nghĩa khí thủy chung. Tôi am hiểu lý học, có thuật tinh thông, muốn giúp anh một miếng đất “cứu bần”.
Nghe lời cụ già, ông liền bàn với mẹ rồi mang hài cốt của cha theo cụ già tìm cải táng. Lúc sắp chôn, cụ già hỏi:
“Anh muốn phát văn hay phát võ?”.
Ông thưa: “Nhà nghèo, khó theo được nghiệp nho, xin theo nghề võ”.
Cụ bảo:
“Anh hãy quay về lấy nước giữa dòng, được nước sẽ chôn”.
Ông quay về nhưng khi trở ra thì cụ đã chôn xong, chỉ vào khoảng ruộng ấy, bảo: “Sau khi đã giàu thì cứ đây mà nhận mả”. Đó là một khoảnh đất chừng 2 mẫu. Ông chưa kịp nhận biết mả đặt ở chỗ nào thì không thấy cụ già đâu nữa. Vài tháng sau, mẹ và chị ông đều qua đời, còn một mình ông tha hồ ngang dọc. Do không chịu khuất phục bọn hào cường, nên họ ghét và đuối ông đi. Bò làng, ồng lên tỉnh làm phu chăn ngựa. Hàng ngày thấy võ trường luyện tập thi đấu, ông ngầm học thuộc các món võ và sớm trở thành người tinh thông nghề võ. Gặp lúc họ Mạc tiếm quyền nhà Trần, ông theo Thế tổ đi đánh dẹp, nhiều lần lập đưực công lớn nên được phong chức “Tả phụ Quân công”.
Về sau, các con ông là Phạm Doãn Minh, Phạm Doãn Sinh, Phạm Doãn Phúc và các cháu ông là Phạm Doãn Đức, Phạm Doãn Hài đều được phong tước Quận công.
(Theo “Sơn Tây địa dư nhăn vật toàn thư”, bản chép tay của Cao Xuân Dục viết năm 1883).
Một họ là khoa bảng. Cụ thượng tố' họ Vương ở xã Hương Ngải (Thạch Thất) hiệu là Phúc Tiến, xưa vốn nhà nghèo, làm người cày ruộng.
Một hôm cụ đang cày ở xứ đồng Cửa Ác thấy một người có phong thái như một thầy địa lý đang tha thẩn ngắm nghía rồi đo đạc quanh một vùng đất. Sau một hồi người ấy bỏ đi. Do mê mải làm việc, cụ không để ý xem người ấy là ai, nhìn ngắm cái gì và (đánh rơi cái gì. Trời quá trưa, cụ buông cày cho trâu gặm cỏ để tạm nghỉ tại chỗ, chợt nhặt được chiếc túi, mở ra xem trong có một nén bạc và một chiếc la bàn. Cụ lấy làm lạ và lẩm bẩm khấn rằng:
“Nếu trời cho ta vật này thì nội trong 3 ngày không có ai đến tìm, nếu không phải trời cho thì tất trong 3 ngày sẽ có người đến hỏi”. Khấn xong, ông mới chịu về nhà.
Chỉ ngay ngày hôm sau, quá thấy ông thầy phong thủy hôm qua đến tìm kiếm. Cụ liền trả lại chiếc túi nguyên vẹn như cũ. Thấy vậy, ông thầy phong thủy khen ngợi một hồi và thầm nghĩ: “Nhà anh này nghèo nhưng có tâm thiện, lòng trời muốn tựa, nên mới sinh ra con người tốt bụng này”. Nghĩ vậy, ồng tiến lại thửa ruộng đang cày và nói:
“Anh là người có phúc đức. Mấy hôm nay tôi phát hiện ngọn núi này có một huyệt đất tốt mà một hướng thì có thể phát một đời Trạng nguyên, một hướng khác thì muôn đời nối tiếp khoa trường”. Tôi muốn dành ngôi đất đó cho nhà anh. Tùy cho anh lựa chọn. Nghe thầy nói vậy, cụ thưa:
“Nếu quá trời tựa như thê thì xin được ban phúc cho con cháu lâu dài”. Thầy phong thủy nói: “Thế thì được, vậy ngay hôm nay anh mang hài cốt của tiên phụ đến đây”. Khi hài cốt được mang tới thì thầy phong thủy bảo cụ xuống núi lấy nước rồi tự mình bí mật chôn cất và san phẳng huyệt địa. Khi trở ra xem thì cụ không thấy thầy phong thuỷ đâu nữa mà cũng chẳng biết huyệt mộ ở chỏ nào, chí thây một chiếc cọc cắm đề bảy chừ: “Có người, có của, có khoa trường”.
Vài năm sau, con trai cụ hiệu là Phúc Trạch sinh ra một người con, sau đổ Tam trường (Tú tài), rồi cháu trai của cụ sinh được một người đỗ Tứ trường (Cử nhân), chắt của cụ thì ba người đều đỗ Tứ trường. Trải mấy đời liền, người thành tựu ở chốn khoa trường hội tụ nhiều như mây trước cửa họ hàng nhà cụ.
Thời ấy, có người khách phương xa tới hỏi thăm nhà ông Vương sinh đồ thì được trả lời rằng: “Sinh đồ họ Vương xã tôi nhiều như lá tre rụng sau cơn gió lớn, hỏi thê thì ai biết mà bảo”. Đó chính là thời gian họ Vương lừng danh khoa mục, khắp huyện ngợi ca là một họ có danh giá lớn...”.
Hiện nay bia Hương Hiền ở Văn chí xã Hương Ngái (Thạch That) còn lưu danh bốn vị đỗ Trung khoa là Vương Quốc Cơ, Vương Quôc Trụ, Vương Quốc Dung, Vương Quôc Quế. Ây là chưa kể một số vị họ Vương tuy không đỗ Trung khoa nhưng từng là Giám sinh Trường Quốc Tử Giám như Vương Đồng, Vương Mô, Vương Xuân, Vương Khu và Vương Trâm, vì thê họ Vương là một họ khoa bảng nổi tiếng nhất ở làng Hương Ngải.
(Theo gia phả hụ Vương, bia Văn chỉ và Hương ước cổ của xã Hương Ngai). Nguyễn Mạnh Toàn (Dịch từ nguyên bản chữ Hán)
Nhờ thầy đặt mộ khó biết thực giả
Trong việc chôn cất, xưa kia điều quan trọng nhất không phải làm đám ma to hay bé mà là chọn được huyệt cát. Những người tinh ý khi dang đào huyệt có thể thấy được đất sét nơi đào huyệt cát thường có những hiện tượng đặc trưng.
1 - Đất “Vân Thái cực”: Vân của miếng đất sét có hình Thái cực (hình vân lượn)
2 - Màu sắc đất bóng mượt không dính, (đất sét quá khô, quá ướt đều không tốt)
3 - Không có mùi thối bốc từ trong huyệt ra
Tuy nhiên cho dù là huyệt cát (huyệt lành) song chưa chắc đã là huyệt phát. Muốn chọn được huyệt phát, gia chủ phải nhờ vào chi dẫn của thầy phong thủy. Ví dụ bạn muốn mở cửa hàng
sky A900 hàn quốc cũ trên một mảnh đất bạn cần mời thầy phong thuỷ về xem phần huyệt cát của mảnh đất có tốt có phù hợp không
Ngày xưa, rất nhiều gia đình vì muốn giàu sang đã không tiếc tiền tìm mời
thầy phong thuỷ nối tiếng về nhà để tìm huyệt phát. Họ dối đãi thầy phong thủy như đón tiếp thượng khách, ngắn thì ba bốn tháng, dài thì ba bốn năm lưu thầy ở trong nhà. Trong thời gian này, gia đình hết sức cung phụng thầy, hy vọng thầy tìm được nơi đặt huyệt phát phú phát qúy.
Kiến thức thầy phong thủy cao thấp sâu nông khác nhau. Có một số quả thật có tài, có đức, nhận lời ủy thác của gia chủ, trung thực trong công việc, không nề hà khó nhọc trèo đồi lội suôi đế tìm được huyệt phát cho gia chủ. Có một sô kẻ học còn ít đã vội kiếm tiền, dùng xảo ngôn để lừa gia chủ, khiến gia chủ tiền mất tật mang. Có một sô kẻ có thực tài, nhưng tâm địa xấu, thấy thù lao không được thoả mãn, ôm hận trong lòng, cô tình chỉ sai huyệt phát, khiến gia chủ lâm vào cảnh dở khóc dở cười, thậm chí cửa nhà tan nát, lưu lạc tha phương...
Quan huyện Tây Sơn xưa khét tiếng một thời được con trai muốn tìm huyệt phát để an táng cha. Biết thầy phong thủy họ Hoàng, nổi tiếng khắp vùng Hà Nam, anh ta không tiếc tiền mời thầy về nhà cung phụng. Thày Hoàng tính tình kiêu ngạo, nếu đôi đãi không được như ý liền quăng bát đạp mâm. Được chiều chuộng, sau nhiều ngày lang thang mệt mỏi, bí thê thày Hoàng cũng tìm được miếng đất phát ở Tây Sơn. Tuy biết miếng (lất này vốn là phần mộ của một vị thị lang, nhưng thầy Hoàng ra sức xúi giục anh con trai dùng nhiều tiền bạc mua lại.
Một hôm sau khi thầy Hoàng và anh ta đo đạc huyệt mộ, đến nửa đêm mới về đến nhà. Khi họ bước vào nhà lớn, thấy đèn đuôc sá.ng rực, vị quan huyện Tây Sơn đã chết từ lâu hiện ra ngồi ở gian giữa, sác mặt tức giận chỉ vào đứa con trai mắng nhiếc om sòm việc chiếm mộ của người khác. Sau đó ông ta quay sang chửi thầy phong thủy Hoàng: “Đồ mất dạy, mi dám dùng thuyết phú qúy, lừa bịp con ta lấy tiền”.
Truyện đồn ra ngoài, từ đó về sau, không ai dám mời thầy Hoàng xem phong thuỷ cho gia đình mình.