Cái cụ nói hết hiệu lực thật ra nó sai vì gộp "dịch vụ viễn thông" và "dịch vụ ứng dụng viễn thông" làm một do đó đã điều chỉnh lại cho phù hợp với Luật.
Còn bản chất của mạng XH theo Luật Viễn thông từ trước đến nay đều là "dịch vụ viễn thông".
Em tổng hợp các quy định hiện hành có liên quan và chốt lại là "dịch vụ mạng xã hội" không phải là "dịch vụ viễn thông". (OSP ISP TSP ‘Applications Services’ là những khái niệm được đưa ra tương đối rõ ràng)
Đây là những khái niệm em cho là sát nhất, gần nhất với OF.
Còn quan điểm của cụ thế nào thì em xin phép không ý kiến nữa và dừng tranh luận với cụ tại đây.
Trân trọng.
Theo Luật Viễn thông
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
7. Dịch vụ viễn thông là dịch vụ gửi, truyền, nhận và xử lý thông tin giữa hai hoặc một nhóm người sử dụng dịch vụ viễn thông, bao gồm dịch vụ cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng.
8. Dịch vụ ứng dụng viễn thông là dịch vụ sử dụng đường truyền dẫn viễn thông hoặc mạng viễn thông để cung cấp dịch vụ ứng dụng trong lĩnh vực công nghệ thông tin, phát thanh, truyền hình, thương mại, tài chính, ngân hàng, văn hóa, thông tin, y tế, giáo dục và lĩnh vực khác.
Theo Nghị định 72
Điều 3. Giải thích từ ngữ
Trong Nghị định này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Mạng là khái niệm chung dùng để chỉ mạng viễn thông (cố định, di động, Internet), mạng máy tính (WAN, LAN).
20. Hệ thống thông tin là tập hợp các thiết bị viễn thông, công nghệ thông tin bao gồm phần cứng, phần mềm và cơ sở dữ liệu phục vụ cho hoạt động lưu trữ, xử lý, truyền đưa, chia sẻ, trao đổi, cung cấp và sử dụng thông tin.
22. Mạng xã hội (social network) là hệ thống thông tin cung cấp cho cộng đồng người sử dụng mạng các dịch vụ lưu trữ, cung cấp, sử dụng, tìm kiếm, chia sẻ và trao đổi thông tin với nhau, bao gồm dịch vụ tạo trang thông tin điện tử cá nhân, diễn đàn (forum), trò chuyện (chat) trực tuyến, chia sẻ âm thanh, hình ảnh và các hình thức dịch vụ tương tự khác.
Điều 25. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội
Tổ chức, doanh nghiệp thiết lập mạng xã hội có quyền và nghĩa vụ sau đây:
1. Cung cấp dịch vụ mạng xã hội cho công cộng trừ các dịch vụ bị cấm theo quy định của pháp luật;
Theo dự thảo Luật An ninh mạng (cái này chỉ tham khảo, vì chưa ban hành):
Điều 3. Giải thích từ ngữ
c)
Các dịch vụ, hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin: dịch vụ trực tuyến (chính phủ điện tử, thương mại điện tử, báo điện tử,
diễn đàn trực tuyến, mạng xã hội, blog…), hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin có kết nối mạng phục vụ quản lý, điều hành của các cơ quan, tổ chức, tập đoàn kinh tế, tài chính quan trọng (bao gồm cả hệ thống điều khiển và giám sát tự động SCADA); cơ sở dữ liệu quốc gia.
Điều 34. Bảo đảm an ninh thông tin mạng
1. Nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh mạng. Tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tôn trọng và thực thi nghiêm túc, ứng xử có quy tắc trên không gian mạng, xử lý nghiêm mọi hành vi sử dụng không gian mạng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
2. Trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử hoặc chuyên trang trên mạng xã hội của cơ quan, tổ chức, cá nhân phải đăng tải thông tin phù hợp với quy định của pháp luật, không cung cấp, đăng tải, truyền đưa những thông tin có nội dung xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia.
3. Các doanh nghiệp
dịch vụ viễn thông, internet,
doanh nghiệp sở hữu hệ thống thông tin phải thiết lập cơ chế xác thực thông tin khi người dùng đăng ký tài khoản số để bảo đảm tính bảo mật và tính trung thực của thông tin đăng ký và phải cung cấp cho cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh mạng có thẩm quyền. Người đăng ký tài khoản số có trách nhiệm bảo vệ và sử dụng các tài khoản do mình tạo lập đúng quy định của pháp luật.
4. Các doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp
dịch vụ viễn thông, internet tại Việt Nam phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia Việt Nam, có giấy phép hoạt động, đặt cơ quan đại diện, máy chủ quản lý dữ liệu người sử dụng Việt Nam trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo mật thông tin người dùng và thông tin tài khoản của người dùng; xử lý nghiêm các hành vi sai phạm theo quy định của pháp luật.