Phần 2. Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử
Trúc Lâm Yên Tử (竹林安子) là một dòng thiền Việt Nam đời
nhà Trần, do Trần Nhân Tông sáng lập. Trúc Lâm cũng là hiệu của
Trần Nhân Tông, đồng thời cũng là hiệu của Thiền sư
Đạo Viên, tiền bối của Trần Nhân Tông, Tổ thứ hai của dòng thiền Yên Tử. Thiền phái Trúc Lâm có ba Thiền sư kiệt xuất là Nhân Tông (Trúc Lâm Đầu Đà),
Pháp Loa và
Huyền Quang. Thiền phái này được xem là tiếp nối của dòng Yên Tử, dòng Yên Tử lại là sự hợp nhất của ba dòng thiền Việt Nam của thế
kỉ thứ 12 – đó là dòng
Thảo Đường,
Vô Ngôn Thông và
Tì-ni-đa-lưu-chi.
Thiền phái Trúc Lâm được một vị vua nhà Trần sáng lập, được xem là dạng Phật giáo chính thức của Đại Việt thời đó nên có liên quan mật thiết đến triều đại nhà Trần, phải chịu một hoàn cảnh mai một sau khi triều đại này suy tàn. Vì vậy, sau ba vị Tổ nói trên, hệ thống truyền thừa của phái này không còn rõ ràng, nhưng có lẽ không bị gián đoạn bởi vì đến thời kì
Trịnh-Nguyễn phân tranh (
1600-
1700), người ta lại thấy xuất hiện những vị Thiền sư của Trúc Lâm Yên Tử như
Viên Cảnh Lục Hồ,
Viên Khoan Đại Thâm và nổi bật nhất là Thiền sư
Minh Châu Hương Hải (theo Nguyễn Hiền Đức).
Sau một thời gian ẩn dật, dòng thiền này sản sinh ra một vị Thiền sư xuất sắc là Hương Hải, người đã phục hưng tông phong Trúc Lâm. Trong thế
kỉ thứ 17-
18, thiền phái này được hoà nhập vào tông Lâm Tế và vị Thiền sư xuất sắc cuối cùng là
Chân Nguyên Huệ Đăng.