Viết đến đây, tôi muốn cung cấp để bạn đọc biết thêm ít chi tiết về T.T.Kh trước khi chấm dấu cuối cùng: Hồi 1937, tôi có nhận được một thư trả lời tòa soạn Tiểu thuyết thứ bảy... của T.T.Kh. Tôi nhớ đại ý, người làm thơ không muốn cho địa chỉ - để chúng tôi gửi báo biếu, với lý do cuộc đời của mình "chả ra sao". Bức thư đó, cũng như thư của bạn đọc hàng ngày gửi đến báo, ai giữ làm gì? Hơn nữa, hồi đó tôi còn trẻ, nên không mấy quan tâm đến chuyện các bà "phụ nữ làm thơ". Nếu tôi là người mê thơ, mê người làm thơ như bây giờ, có lẽ bức thư kia còn lại đến ngày nay, cũng thành giá trị.
Còn chuyện nữa xin kể nốt:
Hồi làm báo Tiểu thuyết thứ bảy ở Hà Nội, vì gia đình tôi ở thị xã Thanh Hóa, nên thời thường vẫn đi về, cũng như Nguyễn Tuân và Hồ Dzếnh có gia đình ở thị xã này.
Một hôm, tôi không có mặt ở nhà, thấy mẹ tôi bảo: "Có một người con gái đến chơi, không chịu nói tên, chỉ để lại một bó hoa "ti-gôn" rồi cáo lui". Từ đó, không lần nào trở lại. Ai nhỉ? Tuổi tôi lúc đó cũng có đôi ba bạn gái, nhưng thời gian này, báo đã đăng mấy bài của T.T.Kh. rồi, vậy đó và người đã đọc truyện "Hoa ti-gôn" của tôi, hay đã yêu thơ T.T.Kh. mà tìm đến ?
"... Ở lại vườn Thanh có một mình...". Có thể người này vốn là dân thị xã này hay chăng? Sao tôi không biết, không từng gặp? Lại nữa, nếu như có thực tên người yêu của Thâm Tâm là... Khánh, Trần Thị Khánh! thì bài thơ "Các anh" đã gọi toẹt ra rồi. Chỉ có tôi đến hôm nay là còn chưa rõ. Bạn đọc chú ý đến thơ T.T.Kh. và Thâm Tâm, người nào chả nói được, căn cứ theo lời kêu gọi trong thơ: "Khánh ơi!" còn hỏi gì anh?, Khánh ơi còn đợi gì anh?...". Chả là thầy bói cũng nói trúng tên: người ấy, T.T.Kh. (tức Khánh).
Năm tháng đã "cuốn theo chiều gió" bao chuyện vui buồn. Cái gì còn lại vẫn là tài năng, đức hạnh. Ngày nay còn có người nhắc đến T.T.Kh. là do sức sống của thơ. Có người thích thú tìm thấy 9 chữ thu trong hai bài thơ đầu (mùa thu tâm sự đầy khắc khoải). Có người điểm thấy ba chữ nghiêm trong thơ T.T.Kh. mà đoán rằng: nghiêm là tên chồng, hay là họ người luống tuổi của T.T.Kh? Lại có người nhấn mạnh mấy chữ, lúc thì tôi, lúc thì em trong thơ T.T.Kh. (vừa giận vừa thương của một tấm lòng tha thứ, khi thấy người yêu làm vỡ lở tình duyên cũ).
Riêng tôi, đọc lại thơ T.T.Kh. tôi ngạc nhiên thấy phong cách thơ bà này khác xa thơ của ba ông bạn Thâm Tâm, Nguyễn Bính, Trần Huyền Trân cùng thời. Thơ T.T.Kh. không có những chữ "Ly khách, cửa ải xa, xóm thanh bình, trường thành, quan san, trường đình, thét roi, cô phụ, đoạn trường... (Thâm Tâm); hay rau tần, ngõ trúc, tương tư, giang hồ, nhân thế, biển dâu, khóm trúc phong ba, họa đèn, giọt dòng, lưu biệt, thiên thu, tích liêu, v.v... (Trần Huyền Trân); hay vương tơ, Lão bộc, vật đổi sao rời, quay tơ, guồng tơ, hận tình, buồng the v.v... (Nguyễn Bính). Thơ T.T.Kh. kể chuyện mình một cách giản dị, không sáo ngữ, lúc thì thanh minh "Ba năm ví biết anh còn nhớ, em đã câm lời có nói đâu, lúc lại trách người "mang cánh ti-gôn ấy, mà viết tình em được ích gì", rồi lại tự than: Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết thấy ai cũng ví cánh hoa xưa...". Sực nhớ việc mình đi lấy chồng đã 3 năm, lại hối: "Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng, trời ơi người ấy có buồn không?...
Thơ T.T.Kh. không cố tìm chữ lạ, không làm dáng, nên dễ đi vào lòng người, nhất là lòng bạn gái cùng cảnh ngộ. Luyến tiếc thời ngây thơ con gái, lắng tiếng lá thu rơi mặt hè, tưởng như bước chân người yêu trở lại, càng lo sợ. Tả cái giận, nói được nỗi lòng yếu đuối của mình đối với người yêu mà mình không rứt được... thật chân thành.
Từ năm 1937 đến năm 1938, để lại ba bài thơ chuyên tả tâm sự mình mà người đọc không chán. Đó là đặc điểm của thơ T.T.Kh.
T.T.Kh. là ai?
Có lẽ ta cũng cần biết rõ đó là ai? Một người phụ nữ vào thời đó làm thơ, đã theo kịp trào lưu thơ mới, là điều đáng trọng. Tôi không tin rằng ai đó tìm ra bà - nếu bà còn, đã đáng bậc bà - không thể được bà sẵn lòng tiếp đón. Một người đã cố tình quên đi, đào sâu chôn chặt mối tình đau xót, bất hạnh nhất của mình (mà đã có những bài thơ như thế, chỉ bộc lộ một lần rồi dập tắt) hẳn không giống kẻ kém tài kém đức chỉ mong có nổi một bài thơ tình được đăng lên báo, vì danh hay vì lợi.
Với sự trân trọng một tài năng, một tâm hồn phụ nữ hiếm hoi trong quá khứ, chúng tôi viết bài này và đề nghị cho in lại ba bài thơ độc nhất của bà, để chúng ta cùng thưởng thức.
Mùa thu 1990.