[Funland] Đường Hồ Chí Minh trên biển

humxam75

Xe container
Biển số
OF-89375
Ngày cấp bằng
22/3/11
Số km
5,146
Động cơ
443,511 Mã lực
Nơi ở
Andromeda
Chuẩn men.
Mẽo nó cũng tôn trọng vùng thuộc lãnh hải quốc tế. Ngoài chỉ giới 12 hải lý, nếu phát hiện ra tàu xâm nhập, nó cũng chỉ theo dõi, đeo bám
Vậy Mẽo nó cũng quân tử phết nhở, ko bẩn như anh bạn thân phía Bắc
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Vậy Mẽo nó cũng quân tử phết nhở, ko bẩn như anh bạn thân phía Bắc
Em nghĩ thời đó có cả tàu của LX cũng nằm ở BĐ nên mẽo không giám vi phạm luật biển thôi.
 

minhchi233

Xe điện
Biển số
OF-23752
Ngày cấp bằng
7/11/08
Số km
4,916
Động cơ
534,475 Mã lực
Em nghĩ thời đó có cả tàu của LX cũng nằm ở BĐ nên mẽo không giám vi phạm luật biển thôi.
Mình nguỵ trang dưới dạng tàu buôn thậm trí treo cờ nác ngoài nó nghi bám theo kèm và theo dõi chứ trên vùng biển QT nó cũng e dè. Có khi tàu ta bí mật sang TQ nhận đồ rồi vòbg vèo lượn vào Nam.
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Nó ném bom ra Bắc ầm ầm, mấy cái tàu nhỏ thì nó xá gì
Mình nguỵ trang dưới dạng tàu buôn thậm trí treo cờ nác ngoài nó nghi bám theo kèm và theo dõi chứ trên vùng biển QT nó cũng e dè. Có khi tàu ta bí mật sang TQ nhận đồ rồi vòbg vèo lượn vào Nam.
Thế nen em với bão là mẽo nó không biết thật, chứ 1 cổ máy chiến trang khổng lồ của mẽo nằm ở biên đông mà biết lại không theo dỏi để bắt có nữa mẽo bị hâm rồi.
 

pain

Xe ngựa
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
26,590
Động cơ
128,535 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Ngoài 12 lý nó không xơi đâu. Nhỡ nhâm thời mang tiếng.
Vào tới hải phận VnCh. rồi, nó chẳng khách khí nha
Đúng vậy. Đã bao trường hợp phải điểm hỏa thuốc nổ hủy tàu.
 
Biển số
OF-294759
Ngày cấp bằng
3/10/13
Số km
1,424
Động cơ
-8,704 Mã lực
Tiết lộ những dòng nhật ký về đoàn tàu không số ( theo baophapluat.vn)




Bà Bảy Thu tức cụ Nguyễn Thị Lan (SN 1933, hiện ngụ Kiên Giang) kể lại: “Từng một thời luôn bên đồng đội trên đoàn tàu không số, những ngày tháng vào Nam ra Bắc không ngại khó khăn gian khổ, sau những chiến công hiển hách, tôi đều dành thời gian ghi lại vào nhật ký, lưu giữ cẩn thận đến ngày hôm nay. Và chỉ đọc vào những lúc nhớ đến đồng đội, những đồng chí đã quyết hy sinh để bảo vệ Tổ quốc”.

[links()] Nhằm sớm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, năm 1961, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương **** đã quyết định thành lập Đoàn 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 với tên gọi “Đoàn tàu không số”.

Từ đây, đường Hồ Chí Minh trên biển được hình thành, con đường vận chuyển vũ khí quan trọng lúc bấy giờ cho hai miền Bắc – Nam.

Bà Bảy Thu tức cụ Nguyễn Thị Lan (SN 1933, hiện ngụ Kiên Giang), vợ của anh hùng Bùi Thanh Lửa, thuộc tiểu đoàn 962 (H52), trung đoàn 2, Quân khu 9 kể lại: “Từng một thời luôn bên đồng đội trên đoàn tàu không số, những ngày tháng vào Nam ra Bắc không ngại khó khăn gian khổ, sau những chiến công hiển hách, tôi đều dành thời gian ghi lại vào nhật ký, lưu giữ cẩn thận đến ngày hôm nay. Và chỉ đọc vào những lúc nhớ đến đồng đội, những đồng chí đã quyết hy sinh để bảo vệ Tổ quốc”.
Tàu không số chiến đấu 450 ngày đêm trên tuyến lửa vòng cung Cần Thơ (ảnh do bà Lan cung cấp). Lúc 14 tuổi, bà Bảy Thu đã tham gia kháng chiến, hoạt động bí mật và chưa có một lần về phép, từng tham gia công tác thanh niên ở huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

Đến năm 1961, đồng chí Sáu Toàn được rút về Trung ương nhằm chi viện cho việc vận chuyển vũ khí từ Bắc vào Nam và ngược lại. Lúc đó, đồng chí Sáu Toàn giữ chức Bí thư huyện Cái Nước. Ông đã dẫn dắt bà Bảy Thu đi cùng và giao cho bà phụ trách về y tế, kiểm tra sức khỏe, thuốc men cho đồng đội trên con tàu không số.

Sau đó, đồng chí Phan Văn Nhờ (tức Tư Mau, SN 1926) được giao nhiệm vụ làm Trưởng đoàn cùng các đồng chí Mười Thượng, Sáu Mập lên đường ra Bắc bằng đường sông nhằm thăm dò, nối liên lạc.

Ra đến Đà Nẵng, các đồng chí này bị địch vây và bắt đưa lên đảo Hoàng Sa giam giữ suốt mấy tháng liền. Nhiều ngày bị địch tra khảo, các đồng chí khai là dân đi buôn, thấy con tàu chẳng có một số hiệu cũng như không khai thác được bất kỳ thông tin nào từ các đồng chí nên địch thả tự do.

Các đồng chí tiếp tục cuộc hành trình ra Bắc vào Nam, len qua vòng vây dày đặc của tàu chiến và máy bay địch, vượt ba bốn trăm ngàn hải lý để vận tải, chi viện vũ khí cho miền Nam suốt hàng năm trời.
Bà Nguyễn Thị Lan (tức Bảy Thu) lật lại cuốn sổ nhật ký, hiện bà sống tại Kiên Giang. Đêm 16/10/1962, con tàu không số đầu tiên mang tên Phương Đông 1 do đồng chí Bông Văn Dĩa làm chính trị viên chở 30 tấn vũ khí cập bến Vàm Lung an toàn.

Để xây dựng các cụm, bến ở Cà Mau từ Kênh 5 đi ngược lên sông Gành Hào phải di dời khoảng 1.000 hộ dân trong thời gian sớm nhất, nhằm nhường đất lại cho Đoàn 962 làm nơi chứa vũ khí. Nơi đây rừng đước bạt ngàn, sông rạch chằng chịt rất thuận lợi cho việc cất giấu vũ khí.

Với tàu 165 và đồng đội, chỉ để lại hai bức điện về Sở chỉ huy trong đêm 29/2 và rạng sáng ngày 1/3 năm Mậu Thân. Bức điện thứ nhất để lại trong đêm 29/2 “Chuyến tàu vào gặp máy bay trinh sát đi qua tàu”. Bức điện thứ hai do đồng chí Nguyễn Ngọc Sương để lại lúc 1 giờ ngày 1/3 “Chúng tôi gặp tám tàu địch bao vây, quyết cảm tử”. Đó là những bức điện cuối cùng nhắn lại sau khi con tàu tự hủy, 18 đồng chí trên tàu đã hy sinh nhằm giữ bảo mật cho đồng đội.

Theo những dòng nhật ký của bà Bảy Thu, mỗi khi nước lớn thường có bốn năm chiếc tàu không số lại cập bến, đa phần các con tàu không số đều có trọng tải khoảng 70 tấn.

Lương thực chính cho các đồng chí trên tàu là món thịt luộc trộn cùng với nước mắm. Sau khi tải vũ khí chi viện cho miền Nam thì các con tàu không số lại tiếp tục hành trình trở ra Bắc.

Lượt về các tàu không số này do “hết hàng” nên cứ nổi cao trên mặt nước, sợ địch phát hiện nên các đồng chí đã mưu trí cưa gỗ đước (một loại gỗ chỉ có ở vùng biển miền Nam) chất đầy trên các tàu và khẫm sâu xuống nước để địch khỏi phát hiện.
Những dòng ký ức được bà Bảy Thu ghi nhận thực tế vào năm 1962, khi đang cùng đồng đội trên đoàn tàu không số. Quan trọng hơn, khi các tàu không số này trở về Bắc thì tất cả gỗ đước phải được bí mật phi tang bởi ở miền Bắc chẳng có loại gỗ đước như trên. Hoạt động của các đồng chí trên tàu không số phải tuyệt đối giữ đúng nguyên tắc: “Nếu ai đã có vợ, có chồng thì đúng 5 năm mới được ký lệnh về phép một lần”. Mỗi tàu không số đều được lắp đặt sẵn chất nổ, mìn tự phá hủy nếu chẳng may gặp sự cố.

Bà Bảy Thu nhớ rất rõ chiếc tàu không số cập bến tại Rạch Gốc (mũi Cà Mau) bị mắc cạn nhưng tất cả bộ đội của ta đã hóa trang hoàn toàn giống y như Hải quân địch. Trên bầu trời lúc này có hàng chục máy bay địch cứ “đảo” liên tục.

Bất ngờ, có máy bay địch tiếp cận hỏi: “Có cần chi viện không, tàu số mấy”? Do tất cả mọi số hiệu của tàu địch được các đồng chí của ta thuộc nằm lòng nên trả lời rất nhanh, chính xác, tự tin, thế là mọi việc đảm bảo an toàn, cùng với sự tích cực của người dân và đồng đội nên chỉ phút chốc tất cả số vũ khí được bảo mật đưa vào kho, mặc cho địch bắn pháo sáng suốt cả đêm để truy tìm khi chúng biết mình đã mắc lừa.

Đồng chí Tư Mau (tức là Phan Văn Nhờ) nhiều lần chuyển vũ khí trót lọt nên luôn là tầm ngấm của địch, được Trung ương chuyển công tác về hoạt động nội thành và vào vai một Tư sản ở Sài Gòn tại nhà số 20/27, đường Âu Dương Lân, quận 8, TP.HCM. Ông sinh năm 1926 và đã mất ngày 5/2/1991.

Lúc này, đ/c Tư Mau có diện mạo rất dễ để bị địch nhận diện, người thấp, mũi tẹt, chân mày thưa, đặc biệt là đầu hói, rất ít tóc nên Trung ương đã đưa đồng chí sang tận Liên Xô để cải trang lại gương mặt. Sau khi Tư Mau được nâng mũi, xăm mày, cấy tóc và trở lại Sài Gòn tiếp tục hoạt động trong lòng địch.

Hàng ngày đ/c Tư Mau nhận thu mua tôm, cua, cá từ các tỉnh, đa phần những chiếc ghe này đều được thiết kế đóng hai đáy, phía trên chứa thủy sản, đáy phía dưới chỉ chứa toàn vũ khí. Để giúp cho việc “kinh doanh” thuận lợi nên đồng chí Tư Mau giao lưu và quen hết với Nha cảnh sát Sài Gòn.

Người luôn kề cận bên Tư Mau là đồng chí Quách Thị Hiểm (tên kháng chiến của bà là Quách Thị Ánh Tuyết, SN 1952), vợ của đồng chí Hồ Thanh Bình, SN 1951 (đồng chí Bình là con của Anh hùng quân đội Hồ Đức Thắng và ông Thắng mất năm 2005).
Vợ ông Tư Mau là bà Nguyễn Thị Tư (SN 1926), đang bên con cháu, hiện sống tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Đ/c Ánh Tuyết làm người giúp việc cho đ/c Tư Mau, nhưng nhiệm vụ chính là trực tiếp làm giao liên từ cơ sở, căn cứ báo lại cho đ/c Tư Mau và đ/c Lê Đức Anh. Từ năm 1972 đến tháng 12/1973 thì bị địch bắt do bị lộ.

Dù đ/c Tuyết bị tra tấn, đánh đập chết đi rồi sống lại, có lúc không nghĩ mình còn sống, nhưng đồng chí quyết không khai nửa lời. Ngay thời điểm đ/c Tuyết bị địch bắt thì đ/c Tư Mau đã đưa đ/c Lê Đức Anh ra Hà Nội công tác, thoát khỏi sự bao vây của Nha cảnh sát.

Đến ngày 30/04/1975, đ/c Tuyết được tự do và trở về căn nhà cũ ở quận 8, được đồng chí Tư Mau đưa đi điều trị vết thương.

Chia tay Cựu chiến binh Bảy Thu cùng các đồng đội khác, chúng tôi vẫn luôn ghi nhớ câu nói tự hào của bà trong những ngày tham gia kháng chiến trên đoàn tàu không số: “Người không đông, đất không rộng nhưng dân tộc ta đã đánh tan nhiều Đế quốc lớn mạnh xâm lược. Thể hiện khí phách anh hùng, ghi lại những trang sử vẻ vang của dân tộc ta”.

Công Hà
 
Biển số
OF-294759
Ngày cấp bằng
3/10/13
Số km
1,424
Động cơ
-8,704 Mã lực
Bí ẩn về những đoàn tàu không số và đường Hồ Chí Minh trên biển


Vượt Biển Đông để chi viện cho Miền Nam là câu chuyện vô cùng gian nan. Việc khai mở con đường huyền thoại trên biển có sự đóng góp lớn lao của 5 con thuyền gỗ thô sơ vượt biển từ Nam ra Bắc khảo sát.
Đầu những năm 60 của thế kỷ XX, cách mạng miền Nam đứng trước những yêu cầu cấp bách cần được cung cấp về nhân lực, vũ khí, thuốc men; nhất là ở khu vực Nam Bộ, nơi mà tuyến đường vận tải chiến lược Trường Sơn chưa thể với tới.
Để đáp ứng yêu cầu ấy, Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương đã quyết định tổ chức tuyến vận tải quân sự trên biển. Trung ương đã chỉ thị cho các tỉnh Nam Bộ chuẩn bị bến bãi và cho thuyền ra Bắc vừa thăm dò, mở đường vừa nghiên cứu phương tiện vận chuyển trên biển và báo cáo tình hình, nếu có điều kiện thì chở vũ khí về. Chủ trương đó đáp ứng mong mỏi của các địa phương, nhờ vậy chỉ trong thời gian ngắn, nhiều tỉnh đã tổ chức các đội tàu vượt biển ra Bắc.
Những con người quả cảm
Theo tinh thần ấy, từ 1/6/1961 đến 27/2/1962, đã có 5 con tàu gỗ đầu tiên lần lượt xuất phát từ các tỉnh miền Đông Nam Bộ vượt biển ra Bắc.
Khởi đầu là 2 con tàu gỗ từ tỉnh Bến Tre – nơi khởi đầu phong trào Đồng khởi. Trực tiếp đồng chí Nguyễn Văn Khước (Mười Khước) Bí thư Tỉnh ủy lúc đó và đồng chí Nguyễn Thị Định lo tổ chức chuyến đi.

Con tàu không số vượt qua trùng dương.
Tàu thứ nhất do ông Đặng Bá Tiên (Sáu Giáo) làm thuyền trưởng và ông Nguyễn Văn Kiện (Năm Tiến) là Bí thư chi bộ cùng 4 thủy thủ là các ông: Huỳnh Văn Mai (Mai đen), Đặng Văn Bê (Hai Thọ), Lê Văn Nhung (Hai Hùng) và Nguyễn Văn Đức (Sáu Đức). Ngày 1/6/1961 tàu xuất phát từ bến Cồn Lợi (Thạch Phong, Thạch Phú). Đây cũng chính là chuyến tàu đầu tiên từ Nam ra Bắc xin chi viện. Sau 9 ngày đêm vật lộn với sóng gió và sự nguy hiểm, ngày 9/6/1961, tàu đã cập bến Hà Tĩnh và sau đó Trung ương đã cho người đón anh em ra Hà Nội.
Chiếc tàu thứ 2 do đồng chí Lê Công Cẩn (Năm Công) phụ trách. Đoàn thủy thủ tàu này gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Hớn (Năm Thanh), Nguyễn Văn Hải (Sáu Hải), Văn Công Cưỡng, Bùi Vân Ấn (Năm Thăng), Nguyễn Văn Luông (Hai Sơn), Huỳnh Văn Tiến (Mười Tiến).
Ngày 18/8/1961 tàu xuất phát từ bến Cồn Tra (Thạch Phong, Thạch Phú). Do gặp rất nhiều khó khăn trên đường đi nên phải đến ngày 28/8/1961, tàu mới cập bến tại Thanh Hóa.
Thật khó có thể nói hết những khó khăn khi chuẩn bị những chuyến tàu như thế!
Việc mua sắm tàu và những vật dụng kèm theo phải hoàn toàn dựa vào sự trợ giúp của cơ sở cách mạng để mua từ thành phố vào, mỗi nơi một ít. Để che mắt địch, ngày phải ngụy trang, đêm mới làm việc với tinh thần khẩn trương nhất để gấp rút hoàn thành. Vậy nhưng vẫn chỉ là một con thuyền gỗ nhỏ, không La bàn, không hải đồ… chỉ có ý chí và lòng yêu nước của con người là lớn nhất mà thôi!
Nhưng cũng nhờ vào ý chí như vậy mà những con thuyền nhỏ nhoi ấy đã lập nên kỳ tích vượt qua sóng to gió cả và bao bất trắc giữa đại dương, đi đến bến bờ thắng lợi.
Trong đợt đầu vượt biển ra Bắc, ngoài các tàu của Bến Tre còn có các tàu Từ Bạc Liêu, Trà Vinh, Bà Rịa cũng vượt biển ra Bắc mang theo không chỉ ước vọng cháy bỏng về sự chi viện của Miền Bắc mà còn là niềm tin của đồng bào, đồng chí nơi tuyến đầu chống Mỹ cứu nước đối với **** và Bác Hồ.
Thực ra, Tỉnh Bạc Liêu cũng tổ chức 2 thuyền ra Bắc, nhưng chỉ có một chiếc ra được, chiếc còn lại gặp sự cố phải quay lại. Đội thuyền thứ nhất do ông Bông Văn Dĩa (Hai Dĩa) phụ trách. Các thuyền viên gồm các ông: Tư Phước, Ngô Văn Tần (Năm Kỷ), Nguyễn Dũng (Sáu Dũng), Bảy Cửa, Trần Văn Đáng (Ba Cụt), Võ Tấn Thành (Ba Thành) và Tư Quang (Hai Chiếu). Đêm 1/8/1961 thuyền xuất phát từ rạch Cá Mòi, ngày 7/8/1961 thuyền đến Cảng Nhật Lệ (Quảng Bình).
Đội thuyền thứ hai của Bạc Liêu do đồng chí Nguyễn Thanh Trầm phụ trách. Các thủy thủ gồm các đồng chí: Tư Báo, Ba Mang, Hai Danh, Lâm Văn Vĩnh. Ngày 3/8/1961 thuyền xuất phát, nhưng đến vùng biển Huế thuyền lại bị hỏng phải quay lại sửa chữa rồi về lại Cà Mau.
Tỉnh Trà Vinh cũng tổ chức đội thuyền gồm 6 đồng chí là: Trần Văn Mao, Nguyễn Văn Khương, Nguyễn Văn Chăm, Nguyễn Thanh Lồng, Hồ Văn In và Ngô Văn Tôi. Ngày 13/8/1961 thuyền xuất phát tại Khâu Hút… Thuyền đi bị dạt sang mãi Ma Cao, sau được sứ quán ta đón và đưa về Hà Nội.
Đầu năm 1961, Bí thư Khu ủy Miền Đông đồng chí Mai Chí Thọ giao cho đồng chí Lê Minh Thịnh (Phó Bí thư Tỉnh ủy Bà Rịa) nhiệm vụ mở bến ở Lộc An (Phước Hải, Long Đất, Bà Rịa) để đón vũ khí chi viện từ Bắc vào đồng thời tổ chức thuyền ra Bắc. Tháng 12/1961, Đồng chí Năm Đông tổ chức một chuyến một vượt biển ra Bắc, nhưng không thành do thuyền bị hỏng dọc đường.
Tới ngày 27/2/1962, tiếp tục có một thuyền khác từ Bà Rịa xuất phát từ Hồ Cốc (Phước Hải, Long Đất) vượt biển ra Bắc cũng với mục tiêu chung như vậy. Trên thuyền có 6 người gồm các ông: Nguyễn Sơn, Thôi Văn Nam, Trần Văn Phủ, Nguyễn Văn Thanh, Võ An Ninh và Lê Hà, do Nguyễn Sơn là thuyền trưởng. Nhưng không may thuyền đi đến Cam Ranh thì bị hỏng máy, lại gặp địch nên bị bắt. Các chiến sỹ ta, mặc cho địch tìm mọi cách dụ dỗ rồi lại đe dọa, tìm cách khai thác… nhưng không ai để lộ điều gì và địch cũng không khai thác được gì nên hơn một tháng sau chúng phải thả. Cho tới ngày 19/4/1962, anh em lại tiếp tục lên đường. Qua bao sóng gió, thuyền bị dạt vào đảo Hải Nam (Trung Quốc) và tới ngày 15/5/1962 anh em được đón về Hà Nội. Như vậy chuyến vượt biển ra Bắc của thuyền này phải mất gần 3 tháng mới tới được giữa lòng Miền Bắc…

Đồng chí Bông Văn Dĩa, một thuyền trưởng quả cảm.
Ra được miền Bắc, anh em đều được gặp đồng chí lãnh đạo **** và Nhà nước ta, được gặp đồng chí Lê Duẩn lúc đó là Bí thư Thứ nhất Ban chấp hành Trung ương ****, để báo cáo cụ thể tình hình cách mạng ở các tỉnh Nam Bộ, nêu lên nguyện vọng tha thiết của đồng bào, đồng chí trong đó mong được chi viện vũ khí, cán bộ, thuốc men… để có điều kiện chiến đấu chống kẻ thù của dân tộc, giành thắng lợi. Đặc biệt, các chiến sỹ đầu tiên của đoàn tàu không số ai nấy đều vô cùng xúc động được gặp Bác Hồ muôn vàn kính yêu!
Nói về chuyến trinh sát bằng thuyền đầu tiên từ Miền Nam ra Bắc, trong cuốn “Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân” có đoạn viết:
“…Sáu người được đoàn bố trí ở 18 Nguyễn Thượng Hiền (Hà Nội). Đầu tháng 4/1962, Trung tướng Trần Văn Trà, người đã hoạt động những năm kháng chiến chống pháp ở Nam Bộ, hiểu biết nhiều địa phương, thông thuộc nhiều bến bãi được Quân ủy Trung ương giao đặc trách theo dõi mở con đường biển, cùng Trung tướng Nguyễn Văn Vịnh, Chủ nhiệm Ủy ban thống nhất Trung ương, đến gặp anh em và trực tiếp giao nhiệm vụ. Nhiệm vụ của đội thuyền khi trở lại Nam Bộ là: Báo cáo với khu ủy chủ trương của Trung ương về việc đưa vũ khí vào Nam Bộ. Nhưng muốn như vậy phải có bến bãi để nhận hàng. Có 3 phương án trong việc tổ chức xây dựng bến bãi:
1. Lấy các đảo Thổ Chu, Phú Quốc, Nam Du, Hòn Ông, Hòn Bà làm căn cứ lâu dài để xây dựng các hầm cất giấu hàng. Chuẩn bị các đội tàu thuyền để tiếp tục chở hàng vào đất liền.
2. Lấy khu vực Hòn Chuối và cửa sông Bãi Hấp để làm chỗ sang hàng hoặc thả hàng xuống biển. Lợi dụng khu vực này nhiều ngư dân ra đánh cá để trà trộn nhằm bí mật vớt hàng lên rồi đưa vào bờ.
3. Lấy các cửa sông khu vực Cà Mau làm nơi chuyển hàng vào. Song đây là phương án dự phòng nếu 2 phương án trên không thực hiện được.
Đồng chí Bông Văn Dĩa phải học thuộc lòng chỉ thị của Trung ương và nhiệm vụ của chuyến đi cùng một số mật danh để liên lạc với Trung ương khi cần thiết.
Tuy thuyền trở về không hề có một viên đạn, một khẩu súng, song anh em rất phấn chấn vì rõ ràng cái quý nhất lúc này không hẳn chỉ là mấy tấn vũ khí mà là chủ trương của **** được truyền đạt tới Miền Nam, đặng mở con đường trên biển nhằm có hàng trăm, hàng ngàn tấn vũ khí. Cuộc chiến đấu còn dài!…”
Những chuyến tàu từ miền Nam ra Bắc thành công chính là cơ sở quan trọng để bộ Chính trị và quân ủy Trung ương quyết định mở tuyến vận tải quân sự trên biển và thành lập Đoàn 759.
Bến thuyền giữa lòng dân
Trong cuộc kháng chiến của dân tộc chống kẻ thù xâm lược, tình đoàn kết quân dân là một nhân tố vô cùng quan trọng đảm bảo cho thắng lợi cuối cùng. Đặc biệt, đối với hoạt động của Đoàn tàu không số – đường Hồ Chí Minh trên biển, sự thương yêu, đùm bọc, che chở của nhân dân, nhất là bà con ở Đồng bằng Sông Cửu Long thực sự có ý nghĩa lớn lao.
Không phải ngẫu nhiên mà nói rằng: nếu không có tấm lòng bà con vùng Đồng bằng Sông Cửu Long thì sẽ không có “Đoàn tàu không số” chứ đừng nói đến việc lập chiến công và viết nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển!

Má Mười Riều và con trai, thuyền trưởng tàu không số Lê Hà.
Ở tất cả những nơi có tàu chở vũ khí ta cập bến, nhân dân đều hết lòng giúp đỡ, che chở. Bà con ở vùng ven biển Cà Mai – nơi tập kết nhiều chuyến tàu chi viện từ Miền Bắc vào.
Các cựu chiến binh của “Đoàn tàu không số” mãi mãi không bao giờ quên những “Bến cảng lòng dân” mà đồng bào đã tạo nên.
Vào giữa năm 1962, vùng ven bờ biển ở Cà Mau được chọn là một trong những địa điểm tập kết vũ khí của Đoàn tàu không số. Bởi ở đây có các Vàm sông Bồ Đề, Rạch Gốc, Vàm Lũng, Kiến Vàng… tàu có trọng tải 30 tấn hoặc hơn có thể ra vào dễ dàng; nơi đậu tàu và lên hàng, các kho chứa, đường vận chuyển ra chiến trường đều thuận lợi… Tuy vậy, vấn đề là cần phải di dời khoảng 1000 hộ dân sống rải rác trong khu vực. Đây là một việc không đơn giản. Muốn làm được điều này, trước hết phải làm công tác tư tưởng để ngưởi dân tự giác di dời ra khỏi nơi quy định để làm tổng kho. Theo đó, công tác giáo dục chính trị phải rất khéo léo và tế nhị; làm sao để dân hiểu mà không lộ bí mật; đồng thời vẫn đảm bảo cuộc sống của bà con không bị xáo trộn… Nhưng điều đáng quý hơn tất cả chính là tấm lòng và tình cảm của bà con đối với cách mạng. Cho nên khi nghe cán bộ vận động nhường chỗ này cho cách mạng LÀM VIỆC LỚN là bà con nghe theo liền. Để tránh bị địch phát hiện, bà con phải di chuyển và cất nhà mới vào ban đêm. Đồng bào sẵn sàng dời nhà ra bìa rừng canh giữ không cho người lạ vào rừng sâu đang cất giấu vũ khí. Mỗi khi có tàu vào, bà con sẵn sàng nhường cơm, sẻ áo cho cán bộ chiến sỹ của tàu… Những cán bộ chiến sỹ ở Đoàn 962 từng làm việc ở Vàm Lũng- Cà Mau trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không bao giờ quên được những tấm lòng của bà con trong đó.
Cũng nhờ vậy nên chỉ trong 3 tháng (từ tháng 7 đến tháng 9 năm 1962) việc xây dựng bến bãi đã hoàn thành. Nhiều gia đình sẵn sàng hi sinh quyền lợi cá nhân vì cuộc kháng chiến của dân tộc. Cũng có nhiều người bị địch bắt, chúng dùng mọi thủ đoạn dụ dỗ, mua chuộc, tra tấn dã man, nhưng không ai có một lời khai báo có hại cho cách mạng.
Nhân dân là nguồn động viên tinh thần, sẻ chia từng chén cơm, manh áo với cán bộ, chiến sỹ để cùng với cán bộ chiến sỹ của Đoàn xây nên “Bến” giữa rừng-một “Bến” không có tiền lệ trong lịch sử- Bến giữa lòng dân!
Trong vô vàn tấm lòng cao quý như vậy, có một con người, một tấm lòng mà sự hy sinh cống hiến cho Cách Mạng thật khó giấy bút nào diễn tả hết được. Đó là Bà Má Nguyễn Thị Mười (Mười Riều).
Để chuẩn bị cho chuyến tàu vượt biển ra Bắc vào ngày 27/2/1962 của Tỉnh Bà Rịa, má Mười Riều đã đóng góp 10 cây vàng giúp cách mạng mua sắm thuyền và vật dụng khác. Đặc biệt, không chỉ ủng hộ vàng, má Mười Riều còn gửi gắm người con trai yêu thương của mình là anh Lê Hà vào đội “tàu không số”… Tấm lòng cao cả của một con người bình dị – má Mười Riều – đã cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sỹ Đoàn tàu không số rất nhiều.
Ghi chú: Bài được trích từ sách Huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển do NXB Thông tấn xã Việt Nam xuất bản, Trung tâm Thông tin Truyền thông vì Môi trường Phát triển, Dự án Uống nước nhớ nguồn thực hiện và giới thiệu.
(BTM)
 

minhchi233

Xe điện
Biển số
OF-23752
Ngày cấp bằng
7/11/08
Số km
4,916
Động cơ
534,475 Mã lực
Đúng vậy. Đã bao trường hợp phải điểm hỏa thuốc nổ hủy tàu.
Quần đảo TS mình có một đảo mang tên một người thuyền trưởng đã ở lại điểm hoả tàu và bơi bơi được vào bờ tiếp tục chiến đâu và hy sinh. Đảo mang tên ông Phan Vinh. ( Nguyễn Phan Vinh)
 
Chỉnh sửa cuối:

meotom2010

Xe container
Biển số
OF-167449
Ngày cấp bằng
19/11/12
Số km
5,272
Động cơ
382,758 Mã lực
Nơi ở
Khu đô thị Handiresco 17 Phạm Văn Đồng
Website
www.facebook.com
E chưa có thời gian đọc hết,mới đọc mới bài đầu.Nhưng theo e nhớ đã đọc ở đâu đó,khởi nguyên của đường HCM trên biển xuất phát từ những ghe từ miền Nam ra Bắc xin vũ khí.Sau khi bác Bông Văn Dĩa lái ghe ra ngoài này,BCT và Quân ủy giữ bác và các thành viên lại cùng nghiên cứu về việc hình thành con đường này.
 

meotom2010

Xe container
Biển số
OF-167449
Ngày cấp bằng
19/11/12
Số km
5,272
Động cơ
382,758 Mã lực
Nơi ở
Khu đô thị Handiresco 17 Phạm Văn Đồng
Website
www.facebook.com
Trong kc chống Pháp,năm 1946 Từ Bến Tre bà Nguyễn Thị Đinh cùng đồng đội giong thuyền buồm ra Bắc xin chi viện vũ khí. Tháng 11-1946 chuyến thuyền chở vũ khí đầu tiên về Bến Tre.
Chính xác,thưa cụ,có điều e ko nhớ năm.
 

bau67

Xe container
Biển số
OF-50318
Ngày cấp bằng
6/11/09
Số km
7,125
Động cơ
1,074,868 Mã lực
Nơi ở
Bụi Duối đầu làng !
Trong kc chống Pháp,năm 1946 Từ Bến Tre bà Nguyễn Thị Đinh cùng đồng đội giong thuyền buồm ra Bắc xin chi viện vũ khí. Tháng 11-1946 chuyến thuyền chở vũ khí đầu tiên về Bến Tre.
Nhà Cháu có gặp 2 người, 1 ở Thới Bình, Cà mau, nói xuất thân từ đoàn tàu không số, nhưng nhà Cháu không gặp thêm người để kiểm định nên không dám tin chắc.
Còn người nữa là chú Sáu Hoa, hồi ấy là hoa tiêu cảng vụ Cần Thơ, Trà Nóc, cái này được xác nhận.
Tài liệu về đoàn tàu không số thì có nhiều, mọi người có thể tìm hiểu. Riêng nhà Cháu thì cung cấp 1 chuyện tuy nhỏ thôi mà chưa nghe đâu nói và chắc cũng không nhiều người biết. Đó là việc thuyền viên dùng nước lã để đánh cảm (gió), mới nghe chắc chả ai tin nhưng cực kỳ hiệu nghiệm. Bản thân nhà Cháu đã được Chú ấy 1 lần thực hiện.
Chỉ với 1 cốc nước lã, bôi 1 ít lên những điểm thường đánh như khi dùng dầu, cao. Sau đó dùng 2 ngón tay (trỏ và giữa) vỗ nhè nhẹ lên, được 1 lúc thì mỗi khi vỗ ta sẽ thấy rất đau. Sau đó, da chỗ ấy trở lên tím thâm vào. Cứ lần lượt vài chỗ như thế, lúc sau nhà Cháu thấy nhẹ người ngay, phải công nhận là hiệu nghiệm. Chú ấy cũng nói, cách này còn hiệu nghiệm hơn là dùng dầu, cao ạ !
 
Chỉnh sửa cuối:

Vulcan V70

Xe lừa
Biển số
OF-53557
Ngày cấp bằng
24/12/09
Số km
37,355
Động cơ
668,366 Mã lực
Công cụ cạo gió phổ biến nhất là thẻ quân nhân, lính Mỹ và VNCH cung cấp đủ cho nhân dân thẻ quân nhân dùng để cạo gió Cụ Bau67 nhỉ?
 

uytin

Xe container
{Salon Chợ xe}
Biển số
OF-297940
Ngày cấp bằng
8/11/13
Số km
6,373
Động cơ
391,337 Mã lực
Có ai xuống hải phòng thì vẫn còn được xem bến tầu này
 

uytin

Xe container
{Salon Chợ xe}
Biển số
OF-297940
Ngày cấp bằng
8/11/13
Số km
6,373
Động cơ
391,337 Mã lực
Những người con dũng cảm của tổ quốc
 

Vịtxanh

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-11416
Ngày cấp bằng
4/11/07
Số km
30,847
Động cơ
752,102 Mã lực
Những kho tàng và bến bãi bí mật xưa nghe đồn tít ngoài bể, trong các hang đông trên đảo...
Xưa, đoàn tàu không số (lữ 125) nó đóng đô ngoài Đồ sơn. Bốc hàng thời linh tinh. Tiện bến bãi kho tàng nào bốc thời bốc thoai :D
 
Biển số
OF-294759
Ngày cấp bằng
3/10/13
Số km
1,424
Động cơ
-8,704 Mã lực
Xưa, đoàn tàu không số (lữ 125) nó đóng đô ngoài Đồ sơn. Bốc hàng thời linh tinh. Tiện bến bãi kho tàng nào bốc thời bốc thoai :D
Lúc đầu mình dùng tùa gỗ radar bọn nó có bắt được đâu. chắc sau này dùng tàu sắt và bị lộ 1 vài vị trí thả hàng nên chũng với biết phải không các cụ nhể ?:-??:-??
 
Biển số
OF-294759
Ngày cấp bằng
3/10/13
Số km
1,424
Động cơ
-8,704 Mã lực
Sau vụ Vũng Rô họ mới tăng cường kiểm soát. Với lại chỉ cần nghe ngóng các đơn vị VC trang bị vũ khí gì là họ có thể suy đoán ra. Tình báo Mỹ rất giỏi.
Em nghĩ cái đám tình báo mẽo thời đó thì không ăn thua, còn thua cả tình báo nhà mềnh mà.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top