[Funland] Đường Hồ Chí Minh trên biển

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Nếu chủ đề này đã có Min,Mod gộp lại giúp em với nha

Đường Hồ Chí Minh trên biển
(Kỳ 1)


Trước nhu cầu cấp bách trên, đồng thời với việc mở tiếp về phía Nam tuyến chi viện trên bộ, Bộ Chính trị giao cho Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh tổ chức tuyến chi viện trên Biển Đông. Sau một thời gian nghiên cứu và trên cơ sở kinh nghiệm của các chuyến vượt biển từ Nam Bộ ra, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759 vận tải đường biển.
Trung tá, TS, Trương Mai Hương
(Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)
Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sau những năm đầu hết sức khó khăn, đến năm 1959, đặc biệt là sau khi có Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương ****, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam có bước phát triển nhảy vọt. Phong trào nổi dậy của quần chúng kết hợp với đấu tranh vũ trang ngày càng lan rộng. Trước tình hình đó, yêu cầu về cán bộ và vũ khí ngày càng lớn. Đường vận tải chiến lược Trường Sơn lúc này chỉ mới vươn tới được các tỉnh phía Bắc Khu V, còn các tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long không đủ sức đáp ứng yêu cầu đó, nhất là đối với các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ.

Một chiến hạm của đối phương tuần tra trên Biển Đông. Ảnh tư liệu
Trước nhu cầu cấp bách trên, đồng thời với việc mở tiếp về phía Nam tuyến chi viện trên bộ, Bộ Chính trị giao cho Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh tổ chức tuyến chi viện trên Biển Đông. Sau một thời gian nghiên cứu và trên cơ sở kinh nghiệm của các chuyến vượt biển từ Nam Bộ ra, ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phòng ra Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759 vận tải đường biển. Đoàn 759 nhanh chóng xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, tổ chức trinh sát nhằm nắm chắc quy luật tuần tra, hoạt động ngăn chặn trên biển của địch; hiệp đồng với các tỉnh ven biển Nam Bộ và Nam Trung Bộ, xây dựng các bến bãi sẵn sàng tiếp nhận vũ khí.
Kể từ khi tuyến chi viện chiến lược biển ra đời, Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã nghi ngờ miền Bắc sử dụng con đường tiếp tế vũ khí trên biển, ngoài con đường xuyên Trường Sơn. Trong các báo cáo của cơ quan tình báo Mỹ và các chuyên gia quân sự Mỹ về tình hình Việt Nam đã nhiều lần đề cập đến con đường trên biển này. Nhưng họ chỉ đoán biết chứ không có bằng chứng cụ thể nên chưa xác định được chính xác. Mặc dù vậy, Mỹ-ngụy vẫn tích cực tìm cách đối phó. Qua tài liệu thu được của địch, chúng ta thấy rõ hải quân và không quân Mỹ đã sớm lập một phòng tuyến ngăn chặn từ Vịnh Bắc Bộ tới Vịnh Thái Lan. Bên ngoài là máy bay tuần tiễu của Hạm đội 7, bên trong là hải quân Quân đội Sài Gòn và thủy quân lục chiến tuần tra, canh gác, bảo vệ bờ biển, các bến cảng, cửa biển, cửa sông. Tuyến giữa do hải quân Mỹ trực tiếp đảm nhiệm. Theo tính toán của Mỹ-ngụy thì với phòng tuyến ngăn chặn đó không một con tàu nào từ miền Bắc có thể xâm nhập trót lọt vào miền Nam mà không bị phát hiện. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của ****, với quyết tâm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước; với ý chí quyết chiến, quyết thắng quân và dân ta mà nòng cốt là bộ đội hải quân đã tìm ra giải pháp mở đường trên biển chi viện cho các chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ khiến cả Mỹ và ngụy đều hết sức bất ngờ. Việc vận chuyển vũ khí cho chiến trường miền Nam trên đường Hồ Chí Minh trên biển từ năm 1961 đến năm 1972 có thể chia làm các giai đoạn như sau:
Từ 1962-1965
Ngày 11-10-1962, chiếc tàu vỏ gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí mang mật danh: "Phương Đông I” rời Đồ Sơn lên đường vào Nam Bộ. Tiếp theo, trong những năm 1963, 1964, các con tàu bé nhỏ đầy ắp vũ khí liên tục rời Đồ Sơn và một số bến khác (Bính Động, Bãi Cháy), vượt qua hàng ngàn hải lý và hàng rào ngăn chặn phong tỏa gắt gao của máy bay, tàu chiến địch, đưa hàng vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hoạt động tác chiến mạnh mẽ của quân, dân ta tại các chiến trường nói trên đã khiến cho Mỹ-ngụy càng thêm nghi ngờ về con đường vận chuyển vũ khí của ta trên biển, song, chúng vẫn không thể tìm ra manh mối: "Mỹ và chính quyền Sài Gòn cảm thấy số lượng vũ khí rất lớn mà Việt Cộng đang sử dụng được vận chuyển bằng đường biển. Nhưng sự triệt hạ con đường đó là vô cùng khó khăn đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn”(1) và "…thời điểm lực lượng Việt Cộng tấn công quyết liệt, chúng ta (Mỹ-ngụy) chỉ có thể ngăn chặn và đánh trả ở một số nơi nhất định. Bên cạnh đó, việc vận chuyển vũ khí và các trang bị khác bằng đường biển hoạt động khá mạnh”(2).
(1) Theo: Tài liệu mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, Phông số 34- Hồ sơ 106, Lưu Cục Lưu trữ văn phòng Trung ương ****.
(2) Theo: Tài liệu dịch của địch, Phông số 34, Hồ sơ 81, Lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương ****.
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Đường Hồ Chí Minh trên biển (Kỳ 2)


Tính từ chuyến đi đầu tiên của Tàu Phương Đông I đến tháng 2 năm 1965, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã tổ chức thành công 88 chuyến tàu chở hơn 4.919 tấn vũ khí, hàng trăm cán bộ cao cấp của ****, Nhà nước và Quân đội vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trung tá, TS, Trương Mai Hương
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)
Thời gian này, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên bộ đã được mở qua Trị Thiên, Khu V, Tây Nguyên. Còn các chiến trường xa như Nam Bộ, Trung Nam Bộ chỉ có thể dùng đường biển. Với các chiến trường này, một viên đạn, một khẩu súng đã rất quý báu. Vài chục tấn vũ khí từ miền Bắc đưa vào có thể trang bị cho một sư đoàn. Như vậy, với hàng ngàn tấn vũ khí được chuyển bằng đường biển trong giai đoạn này có tầm quan trọng đặc biệt, thực sự mang ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp kháng chiến của quân dân ta ở các chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Đặc biệt là sự chi viện kịp thời những loại vũ khí mới tương đối hiện đại, có tính năng chiến đấu cao đã làm thay đổi cách đánh, thay đổi tương quan lực lượng giữa ta và địch, góp phần làm nên những chiến thắng vang dội như: Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Bình Giã... Sau trận Ấp Bắc, tờ báo The Washington Post, số ra ngày 7-1-1963 đã viết: "… Những người Cộng sản coi đây là chiến thắng lớn đầu tiên… Quan trọng hơn, họ đã mới phát triển thành công những kỹ thuật đương đầu được với những công nghệ của Mỹ cung cấp cho miền Nam Việt Nam….” (1). Từ khi quân đội ta ở Nam Bộ có tiểu liên AK, súng chống tăng B41, ĐKZ 57, ĐKZ 75, cối 81, cối 120… thì việc hạ máy bay, đánh các loại tàu chiến, các loại xe, nhổ đồn bốt diễn ra liên tục khiến đối phương từ chủ quan, hung hăng, đến khiếp sợ, né tránh rồi chùn bước. Báo cáo ngày 15-9-1963 của Nguyễn Thành Hoàng, Tỉnh trưởng An Xuyên (Cà Mau), ghi rõ: "Vũ khí của Việt cộng vượt ra ngoài tất cả các ước tính của chúng ta. Việt cộng đã dùng cối 81, Đại liên 12,7mm, ĐKZ75… là những thứ mà Quân đội Việt Nam Cộng hòa chưa có. Đạn của họ rất dồi dào, điều mà trước đây chúng chưa bao giờ làm được”(2).

Loại tàu 100 tấn của Lữ đoàn 125 trên đường vào Nam. Ảnh tư liệu
Qua báo chí và hồ sơ lưu trữ của đối phương cho thấy, ngay từ khi con đường Hồ Chí Minh trên biển mới ra đời, hải quân, không quân Mỹ, đã đề phòng và tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Nhưng trong suốt 4 năm đầu hoạt động, các con tàu không số của ta đã tổ chức thành công 88 chuyến tàu chở vũ khí, đưa được hàng ngàn tấn vũ khí vào Nam Bộ.
Đồng thời với việc vận chuyển vũ khí vào Nam Bộ, Quân ủy Trung ương và Bộ tổng Tư lệnh giao nhiệm vụ cho Bộ tư lệnh Hải quân nghiên cứu mở đường vận chuyển vũ khí bằng đường biển vào Nam Trung Bộ. Đây là chiến trường có vị trí chiến lược hết sức quan trọng, có hành lang chiến lược nối liền hai miền Nam - Bắc. Vận chuyển bằng đường biển vào Nam Trung Bộ đường tuy ngắn hơn Nam Bộ nhưng hết sức khó khăn, nguy hiểm. Vũng Rô thuộc huyện Tuy Hòa (Phú Yên) được chọn là một trong những địa điểm đầu tiên được lựa chọn. Đây là nơi có phong trào cách mạng rất mạnh, lại là nơi có địa thế thuận lợi nên chỉ trong thời gian ngắn từ ngày 28 tháng 11 năm 1964 đến ngày 1 tháng 2 năm 1965, đã có 3 chuyến tàu, đưa gần 200 tấn vũ khí vào bến Vũng Rô an toàn.
Tính từ chuyến đi đầu tiên của Tàu Phương Đông I đến tháng 2 năm 1965, tuyến chi viện chiến lược - Đường Hồ Chí Minh trên biển đã tổ chức thành công 88 chuyến tàu chở hơn 4.919 tấn vũ khí, hàng trăm cán bộ cao cấp của ****, Nhà nước và Quân đội vào chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ(3).Vậy mà phía Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn không phát hiện được vụ nào. Bí mật của tuyến chi viện chiến lược bằng đường biển vẫn được giữ vững. Đó quả là một chiến công kỳ diệu, có ý nghĩa chiến lược to lớn, là một thắng lợi vượt ra khỏi dự tính của chúng ta.
Giai đoạn 1965-1968
Ngày 15 tháng 2 năm 1965, Tàu 143 có trọng tải 100 tấn do Thuyền trưởng Lê Văn Thêm, Chính trị viên Phan Văn Bảng chỉ huy cập bến Vũng Rô. Lực lượng bảo vệ bến nhanh chóng tổ chức lực lượng dỡ hàng. Do không đủ thời gian rời bến trước khi trời sáng nên cán bộ, chiến sĩ trên tàu và lực lượng ở bến buộc phải ngụy trang tàu và sẵn sàng phương án đối phó. Trưa ngày hôm sau, địch phát hiện ra tàu, tổ chức đánh phá. Cán bộ, chiến sĩ Tàu 143 buộc phải phá hủy tàu, đồng thời cùng lực lượng trên bến phân tán và cất giấu vũ khí, chiến đấu chống quân địch đổ bộ. Sau bốn ngày chiến đấu ác liệt, chiều 19 tháng 2 năm 1965, địch đổ bộ được lên bờ. Những ngày sau, chúng tiếp tục đổ thêm quân và tổ chức sục sạo quanh khu vực. Địch phát hiện một số hầm cất giấu vũ khí mà ta chưa kịp di chuyển. Sau sự kiện ở Vũng Rô, Mỹ-ngụy tổ chức một cuộc triển lãm khá lớn ở Sài Gòn, có cả Phó thủ tướng ngụy đến dự và làm rùm beng về chiến tích thu hồi vũ khí Bắc Việt Nam tiếp tế cho Việt cộng bằng đường biển. Như vậy là, sau vụ Vũng Rô, tuyến chi viện chiến lược trên biển, với bao kỳ công đã không còn giữ được bí mật nữa. Kẻ địch đã nắm được chính xác ý đồ, phương thức, phương tiện vận chuyển của ta. Trên tờ Naval Institute Press, Đại tá Mỹ R.Schrosbay nhận định: "Vụ Vũng Rô khẳng định điều đã ngờ trong một thời gian dài nhưng chưa có bằng chứng. Số lượng chiến cụ lớn bị phát hiện chỉ ra rằng nhiều lô hàng lớn hơn đã được chở đến bằng tàu trước đó. Sự xuất hiện đồng thời loại vũ khí mới cỡ 7,62mm của địch ở những vùng ven biển khác nói lên một điều chắc chắn là địch còn sử dụng các vị trí khác nữa để nhận hàng chuyển bằng đường biển”(4).




(1) htt://en.wikipedia.org/wiki/Battle-op Ap Bac (2) Báo cáo số1803/NA3/M ngày 15-9-1963 của Thiếu tá Tỉnh trưởng tỉnh An Xuyên gửi Phủ Tổng thống, tư liệu lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương ****, Tài liệu địch, Hồ sơ số 38.
(3) Sự kiện Tàu không số Vũng Rô (Kỷ yếu Hội thảo khoa học), Nxb Phú Yên, 2006, tr.25.
(4) R.Sohnesdle: "Cuộc chiến tranh của hải quân Mỹ ở Việt Nam”, Tạp chí Học viện Hải quân Hoa Kỳ, số tháng 5 năm 1971
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Đường Hồ Chí Minh trên biển (Kỳ 3)

Máy bay và tàu chiến thuộc Hạm đội 7 liên tục tuần tra truy tìm dấu vết Đoàn tàu không số.

Khi phát hiện ra và thu được vũ khí của ta ở Vũng Rô, địch hết sức bất ngờ. Một loạt kế hoạch nhằm đánh phá miền Bắc, ngăn chặn mọi sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, kiểm soát chặt vùng biển lập tức được đối phương thực hiện.
Trọng điểm là kế hoạch mang mật danh “Desoto” đưa Hạm đội 7 vào Biển Đông để đánh phá miền Bắc và ngăn chặn sự thâm nhập của “Bắc Việt” vào Nam bằng đường biển. Ở miền Nam, một kế hoạch phong tỏa quy mô lớn mang tên “Market time”được thực hiện nhằm ngăn chặn con đường chi viện trên biển của ta. Theo kế hoạch, hải quân Mỹ thực hiện việc ngăn chặn từ ngoài khơi, hải quân ngụy có nhiệm vụ tuần tiễu ven bờ. Đồng thời, Mỹ tăng cường thêm 5 tàu tuần tiễu ngoài khơi, 30 tàu tuần tiễu trên sông và 9 tàu tuần tiễu ven bờ. Ngoài ra, địch cho hàng trăm/lần chiếc máy bay trinh sát bờ biển, sục sạo từng ki-lô-mét vuông biển, đảo liên tục 24/24 giờ; đồng thời hàng chục trạm ra-đa quan sát ven bờ, trên các đảo và một mạng lưới thông tin viễn thông hiện đại được xây dựng.

Máy bay và tàu chiến thuộc Hạm đội 7 liên tục tuần tra truy tìm dấu vết Đoàn tàu không số.

Tháng 9 năm 1965, P.Paul, Phó đô đốc Hạm đội 7 của Mỹ cùng tướng Westmoreland tổ chức một cuộc họp khẩn cấp, quyết định tăng cường các biện pháp ngăn chặn tuyến chi viện bằng đường biển của ta. Theo đó, những máy bay thuộc Hạm đội 7 phụ trách việc cảnh giới ngoài khơi bằng hệ thống phát hiện điện tử suốt ngày, đêm, từ vĩ tuyến 17 đến vịnh Thái Lan. Các căn cứ không quân ở vịnh Cam Ranh và Vũng Tàu chịu trách nhiệm giám sát tất cả các cửa sông thuộc Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Hệ thống giám sát, tuần tra, ngăn chặn dày đặc như thế, nhưng Nguyễn Hữu Chí - Phó đô đốc Hải quân Sài Gòn vẫn hoài nghi và cay đắng thừa nhận: "Chiến hạm của Mỹ nhập cuộc rất đông, xem như vây kín duyên hải Việt Nam Cộng hòa. Thế nhưng, cộng sản Bắc Việt có chịu chùn bước xâm nhập không?”. (1)
Chỉ sau một thời gian ngắn, lực lượng Mỹ và ngụy trên biển đã được tăng cường thêm gấp nhiều lần, máy bay, ra-đa và các lực lượng quan sát khác hoạt động ngày, đêm nhưng chúng vẫn không sao ngăn chặn được các chuyến hàng chở đầy vũ khí của ta cập bến, nhiều tờ báo ở Mỹ khẳng định: “Cộng sản Bắc Việt có những đội thuyền viên lão luyện, vượt xa hải quân Việt Nam Cộng hòa hai mươi năm. Họ có thể điều khiển tàu đi trong bất luận thời tiết nào, địa hình nào”.(2)
Sau bốn năm đọ sức với quân và dân ta, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ có nguy cơ bị phá sản. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mắc-na-ma-ra đã phải thú nhận: “Mỹ đã thất bại quân sự ở Việt Nam”. Tướng Oét-mô-len, Tư lệnh Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn thì cho rằng: “Nếu tình hình phát triển theo chiều hướng này, chính phủ Việt Nam cộng hòa (tức ngụy quyền) không thể tồn tại được trong vòng 6 tháng”. Mỹ cảm thấy đang “chơi con bài thua” ở Việt Nam, “…một tâm trạng chán nản vì chiến tranh và một sự tuyệt vọng ngày càng tăng đang bao trùm khắp Việt Nam, đặc biệt là các vùng thành thị”, vì “Việt cộng chiếm được nhiều quá, đến nỗi một lần nữa chúng ta (tức Mỹ) lại đứng trước nguy cơ nước này bị cắt làm đôi bởi một mũi dùi của Việt cộng thọc ra đến tận biển”.(3)
Sau một thời gian tạm ngừng hoạt động, Bộ tư lệnh Hải quân đã nghiên cứu và đề xuất phương thức vận chuyển mới là đi xa bờ bằng phương pháp hàng hải thiên văn. Với phương pháp này, có tàu phải đi qua đảo Hải Nam, Trung Quốc để đánh lạc hướng đối phương, hay đi vòng ra hải phận quốc tế, cũng có tàu phải vòng ra phía Ma Cao, sang Phi-líp-pin… rồi bất ngờ đột nhập vào các bến bãi ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Cùng thời gian này, đế quốc Mỹ tổ chức thêm lực lượng đặc nhiệm 116 để ngăn chặn mọi hoạt động của ta. Lực lượng của Mỹ hoạt động ở cửa sông, cửa rạch vùng châu thổ sông Cửu Long và đồng bằng Nam Bộ. Lực lượng đặc nhiệm 117 của ngụy sục sạo gắt gao khu vực tàu của ta thường ra, vào như: Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre…
Ở ngoài khơi, lực lượng Hạm đội 7 của Mỹ được tăng cường tối đa. Nếu như những năm trước, nhiệm vụ chiến lược của lực lượng này là đối phó với Hạm đội Viễn Đông của Hải quân Liên Xô (cũ) và các hạm đội của Hải quân Trung Quốc, thì thời gian này chúng buộc phải dồn lực lượng vào khu vực Đông Nam Á mà chủ yếu là vùng biển Nam Việt Nam. 40% lực lượng của Hạm đội 7 được huy động vào nhiệm vụ “Ngăn chặn xâm nhập bằng đường biển” từ miền Bắc và miền Nam, tức ngăn chặn tuyến chi viện trên biển của ta. So sánh lực lượng trên biển giữa ta và địch hết sức chênh lệch. Một bên là gần một nửa Hạm đội 7 với không quân được huy động hỗ trợ tối đa và một bên là lực lượng tàu vận tải nhỏ của ta, trang bị vũ khí và phương tiện đi biển thô sơ.

(1) Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 15, Lưu Trung tâm Thông Tin - TTXVN.
(2)Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 21, Lưu Trung tâm Thông Tin - TTXVN.
(3) Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 81, Lưu Trung tâm Thông Tin - TTXVN.
Tác giả bài viết: Trung tá, TS, Trương Mai Hương​
Nguồn tin: Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam​
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Đường Hồ Chí Minh trên biển (Kỳ 4)


"Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam Cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ - T.G) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập, tiếp tế cho Mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết...”
Trung tá, TS Trương Mai Hương
(Viện Lịch sử quân sự Việt Nam)
Mặc dù địch tổ chức lực lượng ngăn chặn lớn như vậy, nhưng sau 9 tháng tạm ngừng vận chuyển, ngày 24-10-1965, chuyến tàu chở vũ khí cho miền Tây Nam Bộ của ta đã cập bến tại rạch Kiến Vàng (huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau) an toàn. Thắng lợi của chuyến vận chuyển này đã khẳng định quyết tâm của ta tiếp tục chi viện cho miền Nam bằng đường biển là hoàn toàn đúng đắn. Kỳ tích ấy đã khiến Mỹ-ngụy hết sức ngạc nhiên: "Việt Cộng đã chở vũ khí vào Nam bằng đường biển là mạo hiểm, cuồng tín, không sao hiểu nổi”(1).

số vũ khí thu được sau sự kiện Vũng Rô. Ảnh tư liệu
Từ năm 1967, thực hiện nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương ****, các lực lượng, trong đó có lực lượng vận tải bằng đường biển tập trung cao độ để đáp ứng yêu cầu vận chuyển phục vụ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu thân 1968. Nhiều chuyến hàng được vận chuyển an toàn đến các bến ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ, nhưng cũng có nhiều chuyến cán bộ, chiến sĩ ta phải chiến đấu quyết liệt với máy bay, tàu chiến địch, cuối cùng phải hủy tàu, nhiều chiến sĩ đã anh dũng hy sinh. Điển hình như trận chiến đấu của cán bộ, chiến sĩ trên Tàu 235 tháng 3-1968 tại Hòn Hèo, Khánh Hòa. Sau trận đánh này, đài Tự do của chính quyền Sài Gòn tường thuật: "…Các phi tuần, trực thăng, khu trục võ trang được gọi đến bắn phá. Lực lượng tăng viện đến thì cuộc lục soát bắt đầu. Một toán từ phía Bắc xuống, một nhóm từ dọc đồi phía Nam tiến lên khu vực Tân Định, một lực lượng khác gồm 4 tàu dàn hàng ngang tiến vào vịnh. HQ12, HQ617 tiếp tục bắn phá yểm trợ vào sườn núi, nhưng vì chỗ này có nhiều đá ngầm và san hô nên 4 tàu này đều bị cạn, binh lính đành phải xuống nước vào để hợp lực với lực lượng trên bờ”(2). Còn Tạp chí Lướt sóng của Hải quân ngụy viết: "Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam Cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ - T.G) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập, tiếp tế cho Mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết...”(3). 20 cán bộ, chiến sĩ, chỉ còn 5 người sống sót trở về đơn vị, tiếp tục làm nhiệm vụ. Sự kiện Tàu 235 chỉ là một ví dụ về sự khốc liệt, khó khăn của công tác vận chuyển chi viện chiến trường trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.
Cuối năm 1968-1972
Đầu tháng 11-1968, sau khi Tổng thống Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc, Bộ tư lệnh Hải quân giao nhiệm vụ cho Đoàn 125 tham gia chiến dịch vận chuyển mang tên VT5. Đến giữa năm 1969, chiến dịch VT5 kết thúc, các lực lượng vận chuyển đường biển của ta đã đưa được 325.000 tấn vũ khí, đạn dược, xăng dầu và các vật chất khác từ Hải Phòng vào nam Khu 4, tạo chân hàng cho tuyến chi viện chiến lược 559 chuyển tiếp tới các chiến trường. Những con tàu không số chở vũ khí vẫn ra, vào các bến miền Nam trong năm 1969 và 1970: "…Đêm 24-8-1969, sau 18 tháng vắng bóng, không lực Hoa Kỳ mới phát hiện một tàu xâm nhập tại vùng biển cách Đà Nẵng 300 hải lý. Có thể coi đây là một thời kỳ đối phương gia tăng vận chuyển bằng đường biển trở lại. Từ 24-8-1969 đến 23-12-1969 đã phát hiện 4 vụ, năm 1970 phát hiện 12 vụ, nhưng chỉ đánh chìm được một vụ vào rạng ngày 22-11-1970 ở Thạnh Phú (Bến Tre), còn các vụ khác, họ đã thoát. Có vụ ta kèm được 9, 10 ngày; có vụ chỉ kèm được một ngày thì mất mục tiêu…”(4).
Địch càng phong tỏa ác liệt, ta càng tìm nhiều phương kế để đưa hàng vào chiến trường, góp phần đánh thắng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh”. Thời gian này, Mỹ-ngụy sử dụng lực lượng hải quân ngụy lên đến hơn 40.000 tên với 1.600 tàu, 16 trạm ra-đa cảnh giới, 16 căn cứ yểm trợ. Việc tuần tra trên sông, trên biển cũng lần lượt được giao cho hải quân ngụy đảm nhiệm. Trước mắt, Mỹ vẫn là lực lượng chủ yếu tuần tiễu, cảnh giới xa bờ, từ bắc Biển Đông xuống vùng đảo Na-tu-na và An-am-ba (thuộc Ma-lai-xi-a).
Mặc dù Mỹ và chính quyền Sài Gòn đưa ra nhiều phương án, nhiều biện pháp và giả thiết hòng xóa sổ tuyến chi viện bằng đường biển của ta nhưng đều thất bại. Nhiều nhà chiến lược quân sự sừng sỏ của Mỹ vẫn không thể giải thích nổi vì nguyên cớ gì, bằng chiến thuật, bằng kỹ thuật gì, bằng sự màu nhiệm nào mà những con tàu bé nhỏ của đối phương có thể vượt qua bão tố, biển cả, vượt qua sự kiểm soát chặt chẽ của một hạm đội hùng mạnh với kỹ thuật tối tân, trang bị hiện đại, gần như rào kín trên biển, để tới được các bến bờ miền Nam. Điều mà phía đối phương đã mất rất nhiều công sức và tiền bạc để lần tìm con đường trên biển của ta. Họ cho rằng: "Đường Hồ Chí Minh trên biển” là một hiện tượng kỳ lạ, vượt qua cả sự tưởng tượng thông thường. Trong cuốn sách: "Một số quan điểm chiến lược để bảo vệ duyên hải Việt Nam Cộng hòa”, Phó đô đốc Hải quân ngụy Nguyễn Hữu Chí viết: "…Trên thực tế, đối phương sử dụng biển khơi một cách thành thạo, mà việc di hành vào điểm đến càng tỏ ra đặc sắc hơn, làm kinh ngạc không ít chuyên viên đi biển… Trên phương diện quân sự, Bắc Việt đã biết khai thác biển khơi một cách thực tiễn hơn ta (Mỹ-ngụy)… giá trị của Hải quân Bắc Việt đã nói lên trước dư luận quốc tế” và "Nhà nước Bắc Việt nếu sử dụng tàu tiếp vận theo đường lối đó, xét rằng không những có phần tin tưởng ở cấp cán bộ chuyên nghiệp của họ, mà điều họ tin tưởng mạnh mẽ hơn, chính là tỷ lệ nguy hiểm chấp nhận được thấp hơn tỷ lệ thành công thâm nhập. Có thể họ mới duy trì kế hoạch đưa súng đạn vào bằng đường biển…”(5).
Có thể khẳng định, con đường Hồ Chí Minh trên biển của ta đã được đối phương dày công tìm kiếm, hòng hủy diệt nhưng chúng không thể thắng nổi ta, con đường vẫn vươn ra biển, mang theo những con tàu chở đầy vũ khí trang bị cung cấp cho chiến trường miền Nam đánh to, thắng lớn.


(1)Tập san quốc phòng ngụy, số 18, tr. 22. Tài liệu lưu tại Thư viện Quân đội.
(2) Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 25, lưu Trung tâm Thông tin- TTXVN.
(3) Theo: Tài liệu của địch, Phông số 02, Hồ sơ 25, lưu Trung tâm Thông tin - TTXVN.
(4) Dẫn theo: Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân (1961-2001), Nxb Quân đội nhân dân, H, 2001, tr. 194.
(5) Dẫn theo: Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân (1961- 2001), Nxb Quân đội nhân dân, H, 2001, tr. 206.
 
Chỉnh sửa bởi quản trị viên:

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
'Người không số' thiết kế con tàu không số


Gắn liền với đường Hồ Chí Minh huyền thoại trên biển là những con tàu không số - không số hiệu, không tên trong bất cứ tài liệu nào. Không gì cả nhưng nó đã lọt qua nhiều vòng bủa vây của quân Mỹ - Ngụy, chở hàng ngàn tấn vũ khí, đạn được chi viện cho chiến trường miền Nam.
"Người không số"
Tôi có cơ hội gặp ông Trịnh Xương, trưởng nhóm thiết kế tàu không số năm xưa. Ông bảo, người ta hay gọi ông là "cha đẻ" của tàu không số nhưng ông thấy mình giống "người không số" hơn. Bởi cuộc đời ông gắn liền với những tuyến đường, những con tàu và những chuyến đi. Gặp ông ở nhà người con (tại quận 1, TP.HCM), tôi bất ngờ vì đã 80 tuổi nhưng ông vẫn rất minh mẫn. Bằng chất giọng Hà Nội ấm, rõ ràng, ông kể lại những ký ức hào hùng về ngày tháng sống trong không khí gấp gáp, căng thẳng của cuộc họp bàn về việc thiết kế tàu không số. Với ông, nó như mới diễn ra ngày hôm qua.
Ông Xương nhớ lại, vào đầu năm 1961, hội nghị Trung ương họp bàn đưa ra nhận định Mỹ mở rộng quân sự ra miền Bắc, vi phạm hiệp định Giơ-ne-vơ. Chiến trường miền Nam đang vô cùng khốc liệt với sự leo thang quân sự của Mỹ - Ngụy. Địch đánh phá ác liệt tuyến đường Trường Sơn nhằm chặt đứt mọi con đường tiếp viện của quân, dân ta từ miền Bắc vào. Tình thế cấp bách, **** trực tiếp giao nhiệm vụ cho các đồng chí Phạm Hùng (lúc đó là phó Thủ tướng phụ trách công tác thống nhất, tướng Trần Văn Trà (Thứ trưởng bộ Quốc phòng), bộ trưởng Giao thông Vận tải Phan Trọng Tuệ, Cục trưởng Ngô Văn Năm.
Các đồng chí trên bình luận là làm sao phải thiết kế được một loại tàu có khả năng đáp ứng được yêu cầu của chiến trường. Đó là con tàu trăm tấn, chạy trên biển, chở được vũ khí hạng nặng, chịu được sóng gió cấp 8 - 9, nhiên liệu có thể chạy 20 - 30 ngày, chở được ít nhất được một tiểu đội tương đương 12 thuyền viên nhưng phải nhỏ gọn. Tàu đó đi ra ngoài hải phận, ven bờ đều an toàn, chạy nhanh...

Ông Trịnh Xương, trưởng nhóm thiết kế "tàu không số" vẫn nhớ như in những thời khắc khó khăn đó.
Trước đó, ông Trịnh Xương cùng 23 học sinh được cử sang học tại trường Đóng tàu chuyên nghiệp ở Thượng Hải (Trung Quốc). Sau 5 năm miệt mài học tập, ông cùng một số cán bộ kĩ thuật và kĩ sư hoàn thành nhiệm vụ, lần lượt trở về nước. Với những nhiệm vụ như thiết kế đưa ra, ông Trịnh Xương - khi đó đang làm việc tại phòng thiết kế Tàu thủy Việt Nam (tiền thân của viện Khoa học - Công nghệ Tàu thủy Việt Nam) - được tham gia bàn bạc về con tàu đặc biệt này.
Ông Xương kể lại: "Có một số nơi ghi thông tin nói rằng, tôi không biết thiết kế con tàu là gì. Thực tế các yêu cầu về trọng tải, về hình dáng được phó Thủ tướng Phạm Hùng đưa ra ngay khi họp các ngành, bộ phận liên quan. Những buổi bàn bạc nhiều lần được diễn ra ngay chính tại nhà của phó Thủ tướng Phạm Hùng. Tất cả các thành viên tham gia cuộc họp đều góp ý kiến về con tàu trăm tấn này. Lúc đóá tôi mới gần 30 tuổi. Đó là nhiệm vụ, là vinh dự, tự hào của người chiến sỹ cách mạng. Các đồng chí lãnh đạo giao cho tôi về nghiên cứu và trả lời về con tàu không số sau hai tuần".
Ông đã cùng các kỹ sư Lương Văn Triết, Đào Văn Hùng, Đinh Ngọc Liễn... thức trắng nhiều đêm loay hoay tìm lời giải cho hình dáng, kết cấu của con tàu. Những tiêu chuẩn về hình dáng con tàu phải nhỏ gọn, chịu được tải trọng hàng trăm tấn, liên tục thực hiện nhiệm vụ hàng hải trong cả tháng trời, tính hàng hải ổn định, chịu được lắc ngang, lắc dọc mà vẫn giữ được tốc độ khoảng 10 hải lý (18 km/giờ)... không dễ dàng gì trong điều kiện cơ sở vật chất thiếu thốn. Sau hai tuần ông cùng các đồng nghiệp đưa ra phương án về thiết kế con tàu 100 tấn. Ông Trịnh Xương lên bộ Quốc phòng gặp Thứ trưởng Trần Văn Trà trình bày phương án về tàu 100 tấn. Sau đó, ông và các cộng sự được giao hoàn thành thiết kế sơ bộ, thiết kế thi công tàu không số trong vòng một tháng. Thiết kế hình tuyến được chuyển khẩn cấp đến xưởng đóng tàu số 3 (Hải Phòng) thực hiện đóng. Cấu tạo chung của con tàu bao gồm 3 hầm (1 hầm lái và 2 hầm hàng). Công việc được triển khai nhanh, từ xưởng đóng tàu này, 6 chiếc tàu 100 tấn đã lần lượt ra đời.

Tàu không số hiên ngang trên biển. (Ảnh tư liệu).
Giây phút "nín thở" hạ thủy tàu không số
Đến tận ngày hôm nay, ông Trịnh Xương vẫn chưa quên cảm giác hồi hộp, lo lắng đến nghẹt thở khi đưa con tàu không số đầu tiên hạ thủy. "Ngày đó không có máy móc để vẽ, chúng tôi có duy nhất một chiếc thước tĩnh để đo đạc, mọi tính toán đều được làm thủ công. Từ lúc đưa ra ý tưởng đến hoàn thành con tàu đầu tiên là trong vòng 3 tháng. Lúc đưa tàu ra hạ thủy ở Hải Phòng, tôi và ông Đậu Kim Quang, giám đốc xưởng đóng tàu 3, gần như phải "nín thở". Chiếc tàu hạ thủy thành công và chuyến đi đầu tiên cập bến an toàn là thông tin tuyệt vời nhất trong đời mà tôi từng nhận được", ông Trịnh Xương tâm sự.
Những ngày tháng đó, ông gần như ăn nghỉ tại nhà máy đóng tàu để theo sát các khâu kỹ thuật, đảm bảo mọi thứ đúng như thiết kế. Từ chiếc thứ 7, khâu thi công được chuyển giao lại cho nhà máy đóng tàu Tam Bạc (Hải Phòng). Vỏ được kết cấu hoàn toàn bằng thép quy chuẩn, có thể chịu được gió bão cấp 8 - 9, đảm bảo tốc độ trong cả thời tiết xấu. Ông Xương kể tiếp, ông đảm bảo mọi thứ đến chiếc tàu 100 tấn thứ 13 - ở trong nước - thì di chuyển việc đóng tàu sang các xưởng tại Thượng Hải (Trung Quốc). Tất nhiên, ông vẫn phải trực tiếp sang đó theo dõi quá trình đóng tàu.
Toàn bộ những con tàu không số đóng xong được giao cho đoàn 759 phụ trách việc khai thác. Cũng nhờ đoàn tàu này mà một số lượng lớn vũ khí đã được chở vào chiến trường miền Nam phục vụ cho các chiến dịch, trận đánh tại mặt trận phía Đông và Tây Nam Bộ. "Nhiều lúc nghĩ lại, tôi vẫn không hiểu sao, tôi và mọi người lại có thể làm được một việc phi thường như thế. Có lẽ tuổi trẻ, lòng yêu nước, sự tin tưởng của các đồng chí lãnh đạo đã khiến chúng tôi làm được việc đó. Sau này, khi Mỹ công khai các báo cáo, tôi mới biết hải quân Mỹ đã từng mất 3 ngày truy đuổi một tàu không số của ta mà không bắt được", ông Xương tự hào chia sẻ.
Vào năm 1967, sau những chiến dịch thất bại, quân đội Mỹ - Nguỵ điên cuồng cho máy bay bắn pháo sáng để chặn đánh các thuyền vận tải từ miền Bắc (tại vùng biển Lạch Quèn, xã Quỳnh Tiến, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An) chở vũ khí, đạn dược chi viện cho chiến trường miền Nam. Trước tình hình đó, ông Trịnh Xương đã đại diện cho nhóm thiết kế đề xuất với Bộ trưởng Phan Trọng Tuệ cho đóng gấp rút loại thuyền vỏ gỗ (theo kiểu thuyền đánh cá Gò Công) có trọng tải 3 - 5 tấn, giả dạng là tàu đánh cá của ngư dân để chuyên chở vũ khí vào miền Nam hòng "qua mặt" các phương tiện dò xét tiên tiến của địch. Chiếc tàu này được thiết kế hai đáy. Đáy dưới dùng để giấu vũ khí, còn mặt trên vẫn được ngụy trang như một chiếc tàu đánh cá bình thường để “qua mặt” các cuộc kiểm tra của quân địch. Đề xuất của ông Xương và đồng đội một lần nữa được lãnh đạo chấp thuận.
"Lúc đó, ta đã huy động 12 tỉnh miền Bắc có nghề đóng tàu thuyền cùng tham gia chiến dịch này. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng nghìn chiếc tàu "đánh cá" mang trọng trách của một "chiến tàu" được hoàn thành và đưa vào phục vụ chiến đấu. Chiến dịch này mang tên "T5", và đội vận tải tiền phương bằng thuyền thô sơ chính thức ra đời. Trong khi địch vẫn đang tập trung đánh phá xe vận tải đường bộ, ta đã lén dùng thuyền "đánh cá" đưa vũ khí sâu vào tiền tuyến" - ông Xương cho biết.
Trong suốt 14 năm liên tục (1961-1975) tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển, với những con tàu không số huyền thoại của bộ đội Hải quân Việt Nam đã thực hiện 1.789 chuyến, vận chuyển 150 ngàn tấn vũ khí và hàng ngàn lượt cán bộ, vượt qua hàng vạn hải lý, khắc phục hơn 4.000 quả thủy lôi, chống chọi hơn 20 cơn bão, chiến đấu hơn 30 lần với tàu địch, đánh trả 1.200 lần máy bay địch tập kích, bắn rơi 5 chiếc và bắn cháy nhiều tàu xuồng của địch, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều chiến sỹ đã anh dũng hy sinh trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển.
"Cha đẻ" của những ý tưởng có một không hai
Không chỉ là trưởng nhóm thiết kế tàu không số, ông Trịnh Xương còn là "cha đẻ" của những thiết kế giao thông có một không hai - "cầu" ngầm - phục vụ cho các chuyến xe vận tải thời chiến. Đặc biệt là làm chiếc "cầu" ngầm qua sông ở Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Chiếc "cầu" này được giấu sâu xuống dưới nước, được kéo chìm xuống nước bằng dây cáp. Khi cần lưu thông thì quân dân ta mới kéo cáp cho nổi lên mặt nước. Khi người và các phương tiện đi qua, "cầu" lại được giấu xuống dòng nước. Với chiếc "cầu" ngầm có một không hai đó, phải mất 2 năm "nghiên cứu", dò tìm, địch mới phát hiện ra chiếc "cầu" đặc biệt này.
Đỗ Thơm
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Những nỗi đau thầm lặng trên tàu 0 số


Bên cạnh những chiến công hào hùng, thủy thủ trên đoàn tàu 0 số cũng phải gánh những nỗi đau không thể nói thành lời...
Năm 1968, tàu 235 chở vũ khí vào bến Hòn Hèo (Khánh Hòa) do Nguyễn Phan Vinh làm thuyền trưởng và Nguyễn Tương làm chính trị viên cùng 20 cán bộ, thủy thủ. Ngày 6/2/1968, tàu xuất phát. Ngày 29/2, khi qua vùng biển Nha Trang thì máy bay địch phát hiện. 20h cùng ngày, thuyền trưởng quyết định chuyển hướng vào bờ. Lúc này, hải quân vùng 2 duyên hải của địch đã điều động nhiều tàu chiến đến bao vây với ý định bắt sống tàu ta.

Cảng Vũng Rô với những chiến công huyền thoại của đoàn tàu 0 số
Một khó khăn cho tàu 235 là khi quay vào bờ không gặp bến đón. Trong lúc nguy cấp, thuyền trưởng chỉ đạo thủy thủ thả hàng xuống biển, sau này bến vớt lên. Khi thả được 2/3 số hàng thì thuyền trưởng cho ngưng và đưa tàu chạy ven bờ xa nơi thả hàng. Tàu chiến địch lập tức đuổi theo và một cuộc chiến không cân sức đã diễn ra khiến thuyền trưởng và máy trưởng bị thương, máy tàu hỏng nặng.
Lúc này thuyền trưởng Vinh đã cho tàu vào gần bờ để những người bị thương sơ tán lên, còn anh và thợ máy ở lại chuẩn bị điểm hỏa bộc phá tàu rồi bơi vào bờ sau. Tiếng nổ của con tàu khiến địch điên cuồng bắn phá ven biển nhằm dọn đường cho bộ binh vây bắt thủy thủ. Thuyền trưởng Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và hy sinh. Hiện, xác tàu vẫn còn một nửa nằm ở xã Ninh Vân, Ninh Hòa (Khánh Hòa), nay đã có một tấm bia dựng lên để tưởng nhớ 18 anh em thủy thủ tàu 235 hy sinh anh dũng nơi này.
Một câu chuyện khác chứa đầy thương cảm vẫn được trung tá Hồ Đắc Thạnh nhớ như in. Chuyện là trong tiểu đoàn có đồng chí vì lập nhiều chiến công, nhân dịp chuyến công tác quê nhà Bình Định, **** bộ tỉnh bố trí cho gặp vợ một đêm, hôm sau anh đi sớm. Nhưng hậu quả để lại chị vợ phải gánh chịu, bởi sau đêm đó, chị đã mang thai. Lúc này vì tinh thần và sức mạnh chiến đấu, **** ủy nơi cô công tác không thể chấp nhận với một người chửa hoang như cô, nhưng cô không thể nào giải thích nổi cha đích thực của đứa bé là chồng mình khi chồng đang công tác tận ngoài Bắc. Nén giận đau thương từ sự kỷ luật của tổ chức cho đến những lời dè bỉu của thiên hạ, cô lặng lẽ nuôi con chờ chồng mong một ngày được gột rửa nỗi nhục này.
Bốn năm trôi qua, khi người chồng từ đơn vị về, sự thật mới chính thức được công khai. Lúc này, **** bộ tỉnh phải đứng ra "giải oan" cho cặp vợ chồng này.
Câu chuyện đầy cảm động của chàng thủy thủ Nguyễn Thanh Xuân (tàu 0 số 41) cũng cho thấy cuộc chiến còn chứa nhiều nỗi đau lặng thầm. Sự là nhân chuyến tàu cập bến Vũng Rô khi dân công tò mò lên tàu xem. Bất thình lình phát hiện ra vợ trong đó, Xuân phải vội vàng trốn dưới hầm ngó vì không dám trái với quy định cấp trên, nhất là trong thời điểm bí mật hành trình của con tàu đang được đặt ở mức cao nhất. Trốn dưới hầm ngó mà nước mắt Xuân đầm đìa nhìn người vợ mới cưới đang len lỏi hỏi han những người khác về thông tin và sức khỏe của chồng.
Quay trở lại với số phận những người lính anh hùng đường Hồ Chí Minh trên biển, hẳn khi nhắc lại ai cũng cảm thấy thương cảm với số phận của chính trị viên tàu 0 số 43. Sau chuyến đi từ Hải Phòng vào sông Gianh năm 1969, chính trị viên Trần Ngọc Tuấn bị ốm nặng, phải đi an dưỡng ở bệnh viện. Điều trị mãi không khỏi nên bộ chỉ huy động viên ông chuyển sang làm công tác tổ chức. Ông nói "tổ chức phân công đi đâu tôi đi đó". Vậy là ông về làm công tác tuyển sinh ở Trường Thủy sản. Sau giải phóng trường chuyển vào Nha Trang, Khánh Hòa. Khi về hưu, ông đi bán thuốc lá để kiếm tiền nuôi con ăn học. Bị người ta lừa hết tiền thuốc, vị lính già lại đi gác cổng cho một trường trung học với đồng lương ít ỏi. Khi Trường Thủy sản mở trung tâm 3, ông được mời về đó làm bảo vệ.
Cuộc sống gian khó là vậy nhưng khi được hỏi, ông chỉ biết mỉn cười nói: "Giờ tôi con cái trưởng thành, có gia đình riêng, chỉ còn hai ông bà già chăm sóc cho nhau. Cuộc sống như vậy đã hạnh phúc lắm rồi".
Vương Trần
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
1. Sự kiện hải quân Mỹ chặn bắt tàu không số (số 198) tại Sa Kỳ - Quảng Ngãi ngày 15/7/1967

Chốt đón tàu không số

(QNg)- Để đón hàng từ tàu không số, các tỉnh phía Nam đã thành lập các chốt dọc tuyến biển. Ở tỉnh Quảng Ngãi có đơn vị chốt ở bờ biển lấy mật danh HB 18. Ông Võ Văn Cầu là nhân chứng đã 2 lần đi đón tàu không số.

"RA ĐA" BỜ BIỂN

Khi những con tàu không số bí mật chở vũ khí từ miền Bắc vào Nam, lực lượng vũ trang tại các tỉnh phía Nam đã lập tức xây dựng nhiều trạm để đón tàu. Các trạm được bố trí bí mật tại các xã ven biển. Tại Quảng Ngãi, một đơn vị bờ biển ra đời, lấy mật danh là HB 18. Ông Võ Văn Cầu (SN 1936) là một trong những nhân chứng còn sống.

Ông Cầu kể cho các chiến sĩ biên phòng về nhiệm vụ của trạm để đón tàu không số.
Quê ông Cầu ở thôn Châu Thuận Biển, xã Bình Châu (Bình Sơn). Để những chiếc tàu không số hành trình xuyên suốt từ Bắc vào Nam, chốt của ông phải làm một công việc thay cho ra đa bờ biển - đó là bất kể nắng mưa, 5 anh em trong tổ thay phiên nhau dùng ống nhòm quan sát và ghi chép lịch trình của tàu địch. Chốt của ông được bố trí tại một sân đồn của Nhật nằm tại một gành biển, cây cỏ mọc um tùm. Tàu chiến của địch đi ra hay đi vào, đặc điểm, số tàu, thời gian hành trình đều phải mô tả tỉ mỉ trên sổ. Tất cả thông tin này được giao cho điện đài mã hóa và chuyển cho Trung tâm chỉ huy.

Khi phát hiện có sự theo dõi của các lực lượng bờ biển, địch đã đổi chiến thuật bằng cách sơn tàu chiến 2 màu. Mạn trái màu xám nhà binh, mạn phải màu trắng của tàu buôn để đánh lừa các trạm quan sát bờ biển. Năm 1968, trạm của ông di chuyển lên bờ biển thôn An Sen, xã Bình Phú để đón một chuyến tàu đặc biệt. "Nếu thấy ngoài biển chớp pin theo ám hiệu sáng, mờ, sáng thì trong bờ bật pin đáp lại tương tự" - ông Hồ Luân, chỉ huy giao nhiệm vụ cho toàn đội.

Ròng rã mấy đêm cùng anh em bộ đội, ngoài biển vẫn không có tín hiệu gì. Đến mờ sáng đêm thứ 3 thì chiếc tàu xuất hiện. Bám theo chiếc tàu không số là cả một đoàn tàu địch nã súng ầm ầm định bắt sống. Máy bay địch quần đảo quăng pháo sáng làm mặt biển sáng rực như ban ngày. Trong bờ bật tín hiệu liên tục để thông báo có lực lượng đất liền. Các chiến sĩ trên tàu không số thoát khỏi vòng vây, bơi vào bờ và cho tàu nổ tung.

Ông Cầu nhớ mãi hình ảnh 11 chiến sĩ trên tàu không số mặc bộ quần áo bà ba ướt sũng, tất cả đều trẻ trung. Ông Cầu và anh em trong tổ được giao nhiệm vụ trụ lại lặn vớt các loại vũ khí còn chìm dưới biển.

TÀU ĐỊCH BAO VÂY

Đêm 15/7/1967, ông Cầu được chỉ huy giao nhiệm vụ đặc biệt - chạy thuyền ra hướng đảo Lý Sơn đón tàu không số. Tất cả 6 chiến sĩ trên thuyền không biết tên nhau, chỉ gọi bằng số từ 1 đến 6. Ông Cầu mang số 4. Trước khi xuất phát, người chỉ huy phát cho mỗi chiến sĩ một khẩu súng K 59, vài quả lựu đạn và căn dặn: "Không được rơi vào tay địch. Nếu bị địch bắt thì phải tự sát".

Lúc 21giờ, thuyền xuất phát từ cửa Sa Kỳ và hướng ra phía đảo Lý Sơn. Tất cả các chiến sĩ trên thuyền đều căng mắt về phía trước. Nếu có tín hiệu bằng đèn pin từ tàu không số thì đáp trả và quay vòng đèn pin về phía cửa Sa Kỳ. Một đêm căng thẳng trên biển, tín hiệu của tàu không số vẫn bặt tăm. Đến gần sáng, phía trước mũi tàu hiện lên một quầng sáng và tiếng súng ì ầm. Tàu không số bị nhiều tàu chiến của địch bao vây.

Các chiến sĩ trên tàu không số đã lao tàu về phía cảng Sa Kỳ và bơi thoát vào bờ. Lực lượng đón lõng trong đất liền đã đưa các chiến sĩ trên tàu không số vào vùng an toàn ở xã Tịnh Khê. Còn trên biển, chiếc thuyền của ông Cầu âm thầm hướng mũi về vùng biển phía nam và vào chốt Đức Lợi.

Sau những lần đón tàu, ông Cầu còn tham gia vào các trận đánh dẹp các đồn bót ven biển, tạo ra vành đai an toàn. "Có nhiều trận ác liệt, anh em mình không rút kịp và bị kẹt lại. Vậy là địch cho tàu chiến đổ bộ lên vây chặt đơn vị. Chỉ còn tôi với một vài anh em may mắn sống sót" - ông Cầu hồi tưởng.

Lần giở trong tủ, lôi ra một cuốn sổ bìa cũ. Trong sổ còn lưu lại những lời tâm sự của đồng đội trong đơn vị HB 18 lúc chia tay. "Đây là lưu bút của anh Đào Văn Lục, quê ở Tân Đức - Phú Bình - Bắc Thái. Anh có vợ là Hoàng Thị Ứng. Tôi đã viết thư ra tìm mấy lần nhưng vẫn không thấy hồi âm. Bây giờ không biết anh còn sống hay chết" - ông Cầu bùi ngùi kể lại tình đồng đội trong những năm tháng chiến tranh.
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Thông tin tin từ phía Mỹ có được chi tiết hơn chút ít, cho thấy được diễn biến sự kiện bi thương và oai hùng của con tàu và những thủy thủ trên đó.

Lúc 19h25 ngày 11/7/1967, phi công máy bay tuần tra số 10 – Phi đội tuần tra số 1 báo cáo về Trung tâm giám sát hàng hải tại Đà Nẵng về việc anh ta phát hiện 1 tàu đánh cá vỏ sắt nhỏ có hướng đi 220 độ, với tốc độ 10 hải lý, và vị trí ở phía Đông Chu Lai 55 dặm.

Một máy bay trinh sát tuần tra biển bay rất thấp tới khu vực và đọc được số hiệu 459 trên sườn tàu. Phi công báo cáo sườn bên kia không có số hiệu và con tàu không xác định này chứa 1 thùng lớn trên boong, và di chuyển mà không có ánh sáng đèn.

Một giờ sau, máy bay trinh sát bay vòng lại để kiểm tra chiếc tàu trên và phát hiện chiếc tàu này đã quay đầu và bật đèn sáng, đồng thời chuyển huớng 120 độ, một dấu hiệu khả nghi. Một tàu chiến Mỹ được lệnh di chuyển để tiếp cận và quan sát bí mật chiếc tàu trên. Tàu chiến Mỹ đã phát hiện chiếc tàu đánh cá trên qua ra đa, và nhận bàn giao mục tiêu từ máy bay trinh sát, bắt đầu nhiệm vụ bí mật theo dõi chiếc tàu trên.

Bốn tháng trước, ngày 14/3/1967, một tàu đánh cá khác cũng cố gắng xâm nhập vào khu vực này. Chiếc tàu đánh cá này bị phát hiện bởi máy bay tuần tra của Trung tâm giám sát hàng hải. Những giờ sau đó, các đơn vị của Trung tâm giám sát hàng hải được điều đến để khống chế chiếc tàu này cập bờ. Chiếc tàu đã cập bờ lúc 6giờ sáng. Nhưng lúc 6giờ 30, chiếc tàu đã phát nổ với những mảnh tàu văng ra xa tới cả nghìn mét. Chiếc tàu gần như bị phá hủy hoàn toàn, không còn nhận ra được. Không một loại vũ khí nào trên chiếc tàu này còn có thể sử dụng được, do vụ nổ gây ra. Vì vậy, với chiếc tàu đánh cá mà các lực lượng Mỹ và VNCH đang theo dõi, chiếc tàu có thể tự phá hủy nếu như không bắt giữ được tàu trước khi thủy thủ đoàn phá hủy nó.
Các nhân viên của Hải đoàn giám sát hàng hải phía Bắc tập hợp vào tối 13/7 khi họ chắc chắn rằng chiếc tàu đánh cá này đã quay trở lại khu vực mũi Ba Làng An và bắt đầu lập kế hoạch hành động cho đêm tiếp theo. Với tốc độ của chiếc tàu đánh cá, thời gian nó có thể cập bờ vào lúc 20 giờ ngày 14/4, nhưng thời điểm này có thể không khả thi do lúc đó trăng vẫn còn sáng. Do vậy phán đoán chiếc tàu sẽ đi chậm trong buổi chiều và cố gắng tiếp cận bờ biển vào nửa đêm.

Trong suốt đêm 14/7, mệnh lệnh từ Sở chỉ huy lực lượng đặc nhiệm là bắt đầu thực hiện kế hoạch khi chiếc tàu đánh cá còn cách bờ 5 dặm. Một lúc sau Sở chỉ huy gửi điện xác nhận rằng chiếc tàu đánh cá được xác định là tàu chở hàng chi viện của Bắc Việt Nam.

Sở chỉ huy ra lệnh cho 2 tàu chiến Mỹ (USCGC Point Orient WPB 82319 và USS Gallup PG-85) đang đóng tại Đà Nẵng gia nhập lực lượng đặc nhiệm chặn bắt chiếc tàu đánh cá này, và tham gia vào kế hoạch hành động khi tàu đánh cá Bắc Việt tiếp cận bờ biển. Hai chiếc tàu rời Đà Nẵng vào chiều muộn ngày 14/7, để đến điểm hẹn với lực lượng đặc nhiệm. Cả ba tàu của lực lượng đặc nhiệm (tàu Wilhoite, Gallup và Point Orient) đến đảo Cù Lao Ré, cách mũi Ba Làng An một vài dặm vào buổi tối ngày 14/7.

Kế hoạch của lực lượng đặc nhiệm là tiếp cận tàu đánh cá ở khoảng cách vừa đủ để tàu không thể rẽ trái hoặc rẽ phải để trốn thoát, nhưng chỉ có thể tiếp tục đi về huớng bờ biển.
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
( tiếp )

Lúc 20giờ, khi trời vừa tối, tàu Wilhoite được lệnh di chuyển cách mạn tàu đánh cá 5 dặm, và tàu Gallup được lệnh di chuyển sang phía bên kia của tàu đánh cá.

Lúc này, ba tàu cách phía Đông – Đông Nam đảo Cù Lao Ré khoảng 22 dặm. Ánh sáng hải đăng (?) trên đảo, từ khoảng cách 12 dặm đã có thể nhìn thấy rõ. Trong lúc này, tàu Wilhoite bám sát tàu đánh cá, tàu Gallup và tàu quét mìn Plêdg MSO 492 di chuyển tạo thành rào chặn phía Nam.

Từ lúc 21 giờ 30 đến 22 giờ 30, tàu đánh cá thực hiện một hoặc 2 lần thay đổi hành trình nhẹ, làm cho chiếc tàu chuyển dịch về phía Nam Cù Lao Ré, nhưng sau đó tiếp tục ổn định hướng đi thằng về phía Tây đến bờ biển Nam mũi Ba Làng An. Một bức điện nhận được từ Chỉ huy lực lượng đặc nhiệm cho biết, lực lượng đón tiếp trên bờ của Quân đội Bắc Việt đã chờ sẵn ở sông Sa Kỳ để bốc dỡ hàng trên tàu.

Dựa trên thông tin trên, có thể lựa chọn tàu tuần tra để theo sát con tàu đánh cá. Tàu PCF 79 được giao nhiệm vụ này.

Chiếc tàu đánh cá bây giờ cách bờ biển 25 dặm. Kể từ đây, tàu đánh cá nâng tốc độ di chuyển lên 15 hải lý. Vì vậy, tàu Gallup và Wilhoite được lệnh bám sát tàu cá, và rút ngắn khoảng cách xuống còn 3 dặm.
Lúc 23 giờ 30, tất cả các đơn vị được lệnh vào vị trí. Tàu Wilhoite chiếm lĩnh vị trí 20 độ ở phía mạn phải tàu cá, với khoảng cách là hơn 4km, tàu Gallup chiếm lĩnh vị trí tương tực phía sau tàu cá. Tàu Orient và PCF79 tiến tới vị trí mạn phải với khoảng cách hơn 2km.

PCF79 tiếp cận tàu cá với tốc độ cao, từ phía Tây tàu, với khoảng cách 100m, duy trì tốc độ cao khi tàu cá đi qua điểm cách bờ biển 5 dặm. Lúc này là 0giờ 11 phút ngày 15/7/1967, tàu cá vượt qua điểm ngăn chặn – 5 dặm cách bờ biển. Thời điểm này trăng lưỡi liềm đã xuống thấp và lặn vào sau đám mây. Tàu Point Orient bắt đầu bắn pháo sáng và sỹ quan hải quân VNCH trên boong tàu phát loa kêu gọi thủy thủ đoàn tàu cá đầu hàng. Chiếc tàu cá phớt lờ lời kêu gọi và bắt đầu bắn vào tàu Mỹ, tiếp tục di chuyển huớng vào bờ.

Lúc 0 giờ 20 phút, tàu cá còn cách bờ 3 dặm, các đơn vị thuộc lực lượng đặc nhiệm bắt đầu khai hỏa. Khoảng 5 phút sau, tàu cá bắn tàu PCF79 bằng vũ khí tự động và 1 hoặc 2 súng cỡ lớn (Sau này xác định tài cá được gắn 3 súng 12,7mm và ít nhất 1 súng DKZ 57mm).

Lúc 0 giờ 40, dưới làn mưa đạn, tàu cá chạy quanh doi cát, cách mép biển 60m, ở cửa sông Sa Kỳ.

Lúc 1 giờ một số tiếng nổ phát ra từ tàu cá. Lúc này lực lượng pháo binh của quân đội Nam Triều Tiên đóng gần mũi Ba Làng An bắt đầu bắn phá khu vực xung quanh tàu cá, và tiếp tục bắn cho đến lúc 6giờ.
Từ lúc 6 giờ đến 7 giờ, tàu Walker, trực thăng vũ trang và máy bay phản lực bắn phá liên tục khu vực để yểm trợ cho các lực lượng thủy quân lục chiến Nam Triều Tiên trên đường tiếp cận bằng trực thăng lúc 7 giờ 15. Tham gia còn có một số tàu tuần tra của phía VNCH.

Lúc 12 giờ 30, các chuyên gia chất nổ Mỹ đã lên tàu cá, vô hiệu hóa được hệ thống tự hủy của con tàu, bao gồm cả hệ thống kích hoạt khối thuốc nổ 1 tấn TNT.

Lúc 16 giờ 10, tàu cá được 2 tàu LCM kéo ra khỏi doi cát và kéo về cập cảng Chu Lai lúc 20 giờ. Trong quá trình kéo về cảng, sự chuyển động của khối không khí trên con tàu đã làm bùng lên ngọn lửa duới boong tàu, với sự trợ giúp từ 2 tàu PCF, ngọn lửa đã bị dập tắt.
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
( tiếp )


Hàng tấn vũ khí và đạn dược trên con tàu đã được phát hiện. Con tàu chở theo khoảng trên 700.000 viên đạn, trên 1200 súng, bao gồm súng máy – súng phóng lựu chống tăng – súng trường.

Con tàu bị bắt giữ có động cơ được chỉnh sửa với tiếng ồn thấp khi chạy, và hệ thống bơm nước mạnh. Một thủy thủ nguời Bắc Việt, bị chết trên phòng thủy thủ.

Chi tiết số lượng vũ khí mang trên tàu:



  • 706.080 đạn 7.62mm
  • 5.750 đạn 12.7mm
  • 996 đạn cối 82mm
  • 213 đạn B40
  • 6 đạn DKZ 57mm
  • 1.960 mìn chống bộ binh
  • 1.734 lựu đạn
  • 3.4 tấn thuốc nổ C4
  • 1.5 tấn thuốc nổ TNT, và kíp nổ, pin…
  • 3 súng 12.7mm
  • 975 súng trường
  • 189 súng AK
  • 25 súng B40
  • 9 súng máy K53


Đây là lần thứ 8 bắt giữ được tàu vận chuyển tiếp tế của phía Bắc Việt kể từ tháng 2/1965, khi bắt đầu ngăn chặn việc Bắc Việt sử dụng tàu đánh cá vỏ thép để vận chuyển. Bảy lần bắt giữ trước thì có 3 tàu bị phá hủy, 1 tàu bị hư hỏng, 1 tàu bị bắt và 2 tàu quay trở lại Bắc Việt.
Một số hình ảnh về sự kiện bắt giữ tàu không số tại khu vực sông Sa Kỳ - Quảng Ngãi ngày 15/7/1967
Nguồn: website http://www.pcf45.com


Đường di chuyển của tàu PCF79. Điểm đánh dấu X có thể là doi cát nơi tàu không số bị mắc cạn




Hình ảnh tàu không số, có thể chụp ban ngày, ngày 15/7/1967





 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
( tiếp )











Hai tàu LCM kẹp tàu không số để kép về cảng Chu Lai


Lá cờ trên tàu





Tại cảng






 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
( tiếp )


Góc chụp khác






Vũ khí trên tàu





Trưng bày vũ khí tại căn cứ quân Nam Triều Tiên

S





 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
2. Sự kiện hải quân Mỹ chặn bắt tàu không số (số 43) tại Bình Phú (?) - Bình Sơn - Quảng Ngãi ngày 14/3/1967 (Khu vực mũi Ba Làng An)

Thông tin tóm tắt:

Ngày 8 tháng 3, tàu 43 nhổ neo (Tàu 43 đã ra đi một lần, ngày 16 tháng 12 năm 1966, nhưng gặp địch nên quay lại (phần trên)). Sau 5 ngày đi trên biển, 23 giờ ngày 13 tháng 3 năm 1967 thì bị máy bay trinh sát địch phát hiện. Nhưng chưa có triệu chứng tàu bị lộ, nên thuyền trưởng Thắng vẫn cho tàu đi về hướng bến. 2 giờ sáng ngày 14 tháng 3, khi cách Sa Kỳ (Quảng Ngãi) vài chục hải lý anh em trên tàu thấy có tàu chiến địch bám theo và ngày càng tiến sát tàu ta. Một tiếng sau, máy bay địch vòng lại, thả pháo sáng. Tàu chiến địch chiếu đèn pha vào tàu ta. Thực ra, tàu 43 đã bị ra-đa đối hải của địch phát hiện từ xa, nhưng chúng chưa hành động mà bí mật theo dõi chờ tàu ta vào hải phận miền Nam mới điều tàu chiến đến bao vây. Thuyền trưởng Thắng và chính trị viên Tuấn quyết định phá vòng vây để đưa tàu vào bến. Tàu 43 mở hết tốc độ, tiến thẳng vào bờ. Ba tàu chiến của Mỹ lao theo. Tàu 43 bắt buộc phải nổ súng. Cuộc chiến đấu diễn ra quyết liệt một mình tàu 43 phải đánh trả 3 tàu chiến có máy bay yểm trợ. Cuộc đọ súng diễn ra 3 giờ liền. Ta bắn bị thương một tàu địch khiến những chiếc còn lại phải dãn ra. Tuy vậy tàu địch có hoả lực mạnh hơn, tốc độ nhanh hơn, trang bị tốt hơn nên tàu 43 chống chọi khá khó khăn. Thân tàu đã bị nhiều vết đạn. Tình thế mỗi lúc một bất lợi. Nếu tiếp tục chiến đấu trời sẽ sáng và nhất định địch sẽ tăng cường lực lượng để cướp tàu ta. Nhận định như vậy, nên cấp ủy và chỉ huy tàu quyết định phá tàu. Thủy thủ tầu 43 rời tàu một lúc, thuyền trưởng cho điểm hoả. Mười mấy phút sau, một tiếng nổ dội lên, con tàu 43 mất dạng. Bọn địch ngơ ngác, kinh hoàng. Anh em ta vào bờ an toàn, sau đó đã tìm đường trở ra Bắc.
Thông tin của phía Mỹ về sự kiện này như sau:

Lúc 0 giờ 14 ngày 14/3/1967, máy bay tuần tra của Phi đội 46 phát hiện một tàu sắt, không có ánh đèn, tại điểm cách Cù lao Ré (đảo Lý Sơn) 40 hải lý về phía Đông – Đông Bắc. Tàu đang di chuyển về hướng Tây Bắc. Các đơn vị hải quân Mỹ có mặt gần khu vực vào thời điểm này gồm có tàu Brister, Point Ellis, PCF 16 và PCF 78. Bầu trời đêm quang đãng và tối, biển lặng.
Lúc 4 giờ 3 phút, cách đảo Lý Sơn 10 hải lý về phía Đông Nam, tàu Brister sử dụng radar phát hiện mục tiêu, tàu lạ nằm ở hướng 230 độ. Khoảng 4 giờ 20, mục tiêu chuyển sang hướng 285 độ, và có dấu hiệu hướng vào đất liền.

Lúc 4 giờ 30, Máy bay của Phi đội tuần tra số 4 bắn pháo sáng, và phát hiện đó là 1 tàu đánh cá vỏ sắt. Vài phút sau, tàu Brister tiếp tục bắn pháo hiệu, nhưng không có tín hiệu trả lời. Tàu Brister bắn vài phát súng cảnh cáo, và ra lệnh cho tài PCF 78 cùng tàu Point Ellis tiến hành ngăn chặn chiếc tàu cá trên.

Khoảng 5 giờ 40 phút, tàu PCF 78 tiến gần tàu đánh cá, nhưng bị tàu cá bắn trả dữ dội bằng súng bộ binh, làm cho tàu PCF phải lùi lại về phía Đông Bắc.

Lúc 6 giờ 12 phút, tàu cá bắn về phía tàu Brister và sau đó bắn bằng súng 12,7mm. Năm phút sau, tàu cá này cập bờ ở khu vực cách thôn Phước Thiện (?) khoảng 1 hải lý về phía Nam (cách Đà Nẵng khoảng 60 hải lý về phía Tây Nam).

Các lực lượng Mỹ tiếp tục bắn về phía tàu cá cho đến lúc rạng sáng, khi hỏa lực bắn trả của phía Bắc Việt chuyển từ tàu cá sang khu vực rừng cây phía sau bãi biển.

Lúc 6 giờ 55, từ tàu cá phát ra 1 tiếng nổ, xác định là do chất nổ trên tàu bị thủy thủ của tàu điểm hỏa. Máy bay của không quân Mỹ bay phía trên tàu, phát hiện có một số người chạy qua khu rừng phía sau bãi biển, lập tức tấn công nhưng không xác định được kết quả của cuộc tấn công.

Các lực lượng Mỹ phát hiện được một số mảnh của con tàu, trong đó mảnh lớn nhất có kích thước 2x4m.

Các vũ khí thu được trong quá trình lục soát khu vực gồm: 1 súng 12,7mm, súng máy, 1 súng DKZ 57mm, 1200 súng carbin K53 cỡ nòng 7.62mm, 30 súng K43 cỡ nòng 7.62mm, hòm đựng mìn claymore [Mìn định hướng], 5000 lựu đạn, và đạn được. Ngoài ra còn thu được một số đồ dùng cá nhân, thiết bị cứu sinh của tàu, đồ y tế như thuốc vitamin, 2 bộ đồ phẫu thuật cho bệnh viện dã chiến. Mỗi bộ đồ phẫu thuật gồm 195 dụng cụ, có chữ Trung quốc trên bao gói.




 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
3. Sự kiện hải quân Mỹ chặn bắt tàu không số 176 tại bến Thạnh Phong - Bến Tre (Cửa sông Cổ Chiên) ngày 21/11/1970

Thông tin về sự kiện tàu không số (Tàu 176) bị hải quân Mỹ và VNCH chặn đánh tại vùng biển Thạnh Phong - Bến Tre ngày 21/11/1970, trong chuyến vận chuyển vũ khí cho Quân khu 9

Chuyện kể về “đường mòn Hồ Chí Minh” trên biển: Huyền thoại những con tàu



Cửa biển Thạnh Phong - đường vào các bến tiếp nhận vũ khí Bắc - Nam năm xưa Trong 10 năm từ 1962 đến 1972, tại bến Đồ Sơn (Hải Phòng) đã có gần một trăm lượt con tàu bí mật của Đoàn 125 xuất phát, vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí, phương tiện và hàng trăm cán bộ chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần làm nên nhiều chiến công vang dội. Bến Đồ Sơn còn được gọi mật danh là “K.15”.
Nơi xuất phát những con tàu bí mật vào Nam
Ngày 18/8/1960, một con tàu gỗ gắn máy thủy động cơ xuất phát từ Cồn Tra (xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, Bến Tre) mở đường đầu tiên (thời kỳ chống Mỹ) ra Bắc để xin chi viện vũ khí. Trên tàu này gồm có 8 đồng chí, do ông Lê Công là Bí thư chi bộ kiêm thuyền trưởng. Mật khẩu vượt biển vào lãnh hải miền Bắc xã hội chủ nghĩa là: “Đơn vị 106B đi tìm anh 3D”. Sau 4 ngày đêm vượt trùng dương, tàu của ông Lê Công đến miền Bắc an toàn, cuộc hải hành trên được hoàn toàn giữ kín. Sau khi ở lại Bắc gần hai năm để học đường lối, chủ trương của **** các thành viên trên tàu Lê Công được đưa đến bến Đồ Sơn (K.15) chờ bố trí tàu vận chuyển vũ khí vào Nam.

Vàm Khâu Băng - Thạnh Phong (Thạnh Phú, Bến Tre) - nơi bà Nguyễn Thị Định xuống tàu, xuất phát đầu tiên ra miền Bắc (năm 1946) xin chi viện vũ khí
Tại Cà Mau, ngày 20/7/1961, ông Bông Văn Dĩa (người Cà Mau) được Khu ủy Khu 8 và Tỉnh ủy Cà Mau cử ra Bắc cũng bằng con đường biển trên để liên hệ Trung ương chở vũ khí vào Cà Mau. Cũng giống như tàu của ông Lê Công, số chiến sĩ trên tàu của nhà cách mạng Bông Văn Dĩa được bố trí đến bến Đồ Sơn, chờ lệnh xuất phát về Nam. Tại bến Đồ Sơn, đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ gắn máy mang tên “Phương Đông 1” chở 30 tấn vũ khí do thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy, xuất phát lên đường vào Nam. Trước khi xuất phát, đích thân các nhà lãnh đạo Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà đến bến cảng Đồ Sơn động viên cán bộ, chiến sĩ trên tàu. Đồng chí Phạm Hùng nói: “Các đồng chí là những người đầu tiên mở ra con đường biển Bắc - Nam này. Nó cũng giống như trên Trường Sơn kia, các đồng chí là những người tiên phong đi khai sơn phá thạch”. Sau 5 ngày vượt biển Đông, ngày 16/10/1962, tàu đến cửa Bồ Đề và cặp bến Vàm Lũng (xã Tân Ân, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) an toàn. Đây là chuyến chở vũ khí đầu tiên vào Nam bằng đường biển và con đường vận tải chiến lược trên biển Đông chính thức ra đời. Sau này, ông Bông Văn Dĩa được tuyên dương Anh hùng các LLVT Nhân dân.
Kế đến, ngày 11/11/1962, tàu của ông Lê Công được lệnh trở vào Nam, chở theo 75 tấn vũ khí. Ngày 18/11/1962, tàu cặp bến an toàn tại Vàm Lũng (Cà Mau). Đây là chuyến thứ hai chở vũ khí vào Nam thành công sau chuyến đầu tiên “Phương Đông 1” của ông BôngVăn Dĩa. Tàu trên còn có mật danh là "Phương Đông 2”.
Sau những chuyến tàu chở vũ khí đầu tiên do chính các chiến sĩ từ miền Nam xin chi viện, từ cuối năm 1962 đến 1972, tại Đồ Sơn (Hải Phòng) đã có gần 100 lượt tàu của Đoàn 125 HQ xuất phát “chở hàng” chi viện cho chiến trường miền Nam. Điểm đến là các bến: Tân Ân (Cà Mau), Thạnh Phong (Bến Tre), Vũng Rô (Phú Yên), Lộc An (Xuyên Mộc, Bà Rịa-Vũng Tàu), Đức Phổ, Sa Kỳ, Ba Làng An (Quảng Ngãi). Tất cả đã vận chuyển hàng ngàn tấn vũ khí và hàng trăm cán bộ cốt cán; góp phần làm nên nhiều chiến thắng vang dội. Hiện nay, di tích còn lại của bến Đồ Sơn (K.15) là 15 trụ bê-tông cầu cảng, cách mép bờ khoảng 30m. Còn trên bờ còn lại là một số nền móng kho hàng, bể nước.

Những bến tiếp nhận vũ khí Bắc - Nam ít được nhắc đến
Ngoài những bến đã được báo chí nhắc đến nhiều như Thạnh Phong (Bến Tre), Vàm Lũng (Cà Mau), Vũng Rô (Phú Yên)... thì bến đến Lộc An và các bến đến tại Quảng Ngãi vẫn lặng lẽ theo năm tháng dù rằng trước đó, các bến tiếp nhận này đã góp phần rất lớn vào các chiến công tại miền Đông Nam bộ và Khu 5.

Bia lưu niệm bến đến Thạnh Phong - đường Hồ Chí Minh trên biển - tại đầu Vàm Khâu Băng do Lữ đoàn 125 HQ xây dựng Bến Lộc An nay thuộc xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc (Bà Rịa-Vũng Tàu). Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đoàn 125 HQ đã tổ chức 3 chuyến tàu cặp bến thành công, vận chuyển 109 tấn vũ khí, kịp thời trang bị cho quân dân các tỉnh miền Đông, Khu 6 tham gia các chiến dịch, góp phần làm nên chiến thắng như trận Bình Giã, Đồng Xoài, Dầu Tiếng, Bầu Bàng (1965). Có thể kể đến" Chuyến 1: Ngày 26/9/1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 gồm 12 chiến sĩ do thuyền trưởng Lê Văn Một (vào Nam lần hai) và Chính trị viên Đặng Văn Thanh chỉ huy, chở 18 tấn vũ khí vào bến Lộc An. 3 giờ sáng ngày 2/10/1963, tàu cặp bến an toàn, lực lượng địa phương (Đoàn 1500) đã chờ sẵn ở bến để bốc hàng. Lúc này thủy triều bắt đầu rút làm tàu mắc cạn, gần đó là đồn địch (đồn Phước Hải); nhưng cán bộ, chiến sĩ tàu 41 đã mưu trí, dũng cảm bảo vệ an toàn con tàu và bến bãi. Chuyến 2: Ngày 29/11/1964, tàu mang số hiệu 56, gồm 16 chiến sĩ do thuyền trưởng Nguyễn Quốc Thắng và chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Tàu 56 chở 44 tấn vũ khí, cặp bến Lộc An an toàn, và chuyến hàng chiến lược này đã kịp thời trang bị cho các đơn vị chủ lực miền Đông, Khu 6 tham gia mở đợt 2 chiến dịch Bình Giã (1/1965). Chuyến 3: Vẫn tàu 56. Tàu do thuyền trưởng Lê Quốc Thân và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy, chở 47 tấn vũ khí xuất phát vào ngày 27/1/1965 và cặp bến Lộc An an toàn vào đêm 1/2/1965. Số vũ khí chở vào lần này tiếp tục trang bị cho quân dân Khu 6 tham gia giai đoạn 3 chiến dịch Bình Giã. Ngày 7/3/1965, chiến dịch Bình Giã kết thúc thắng lợi đã làm thất bại cơ bản chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy, mở ra thời kỳ mới cho cách mạng miền Nam. Nhưng các bến đến tại Quảng Ngãi mới thật mang nhiều ấn tượng. Tại đây, Đoàn 125 HQ đã tổ chức 4 chuyến (2 chuyến vào bến Đức Phổ, 1 chuyến vào bến Sa Kỳ, 1 chuyến vào bến Ba Làng An). Cả 4 chuyến đều gặp địch, cán bộ, chiến sĩ trên tàu đã anh dũng chiến đấu, hủy tàu để không lọt vào tay địch và sau đó anh em thủy thủ vượt ngược Trường Sơn ra miền Bắc trở về đơn vị. Chuyến 1 (vào Đức Phổ - Quảng Ngãi): Ngày 19/11/1966, tàu mang số hiệu 41 được lệnh chở 59 tấn vũ khí vào Đức Phổ, trên tàu có 17 chiến sĩ, do thuyền trưởng Hồ Đắc Thanh và Chính trị viên Đặng Văn Thanh chỉ huy. Trên đường vượt biển, gặp thời tiết xấu nên tàu phải dừng lại nhiều lần trên biển. Đến đêm 23/11, tàu tiếp tục đi và đêm 26/11 tàu đến bến qui định, thả hàng trong điều kiện sóng to gió lớn. Rạng sáng 27/11, lúc tàu chuẩn bị quay ra thì bị mắc cạn. Để giữ bí mật, Chi ủy và chỉ huy tàu quyết định hủy tàu. Có điều tàu nổ không đúng thời gian đặt chất nổ làm 2 chiến sĩ hy sinh là Trần Nhợ và DươngVăn Lộc. Trong khi đó 15 thành viên còn lại, đã vào được đến bờ, sau đó tất cả đi bằng đường bộ, vượt dãy Trường Sơn và mãi đến 4 tháng sau mới trở về đơn vị an toàn. Chuyến 2 (vào Sa Kỳ): Ngày 14/3/1967, tàu 43 do thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn, được lệnh chở 50 tấn vũ khí vào Sa Kỳ - Quảng Ngãi. 2 giờ sáng ngày 18/3/1967, khi tàu còn cách Sa Kỳ vài chục hải lý, anh em trên tàu thấy tàu địch bám theo tàu ta, còn trên không thì máy bay địch quần thảo, thả pháo sáng liên hồi, làm sáng rực cả một vùng biển đêm. Trước tình hình nguy cấp trên, anh em thủy thủ trên tàu quyết định phá vòng vây đưa tàu vào bến. Khi phá vòng vây, 3 tàu chiến địch bám theo, tàu 43 buộc phải nổ súng và cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra sau đó. Tàu chiến địch gọi điện cho nhiều máy báy đến yểm trợ. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra 3 giờ liền, tàu ta bị trúng đạn nặng, tình thế mỗi lúc thêm bất lợi, nếu tiếp tục chiến đấu, trời sẽ sáng và nhất định địch sẽ tăng cường lực lượng vây tàu ta. Nhận định vậy nên cấp ủy và chỉ huy tàu quyết định hủy tàu để không lọt vào tay địch. Hủy tàu xong, anh em thủy thủ bơi vào bờ an toàn rồi tìm đường trở ra Bắc. Chuyến 3 (vào Ba Làng An): Ngày 6/7/1967, tàu 148 gồm 18 đồng chí, do đồng chí thuyền trưởng

Đài kỷ niệm những con tàu không số tại ngã ba Thạnh Hải - Thạnh Phong
Nguyễn Tấn Ích và Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch chỉ huy, chở 56 tấn vũ khí vào Quảng Ngãi. Vào đêm 11/7, trên đường đi, tàu 148 gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây, tàu 148 đánh trả và cơ động vào bến Ba Làng An. Địch đánh tàu ta bị thương nặng, Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và thuyền phó Phạm Chuyên Nghiệp hy sinh trong lúc chiến đấu. Ta không phá hủy được tàu và địch cho quân đến kéo tàu đi. Anh em thủy thủ còn lại bơi được vào bờ rồi đi bộ trở ra miền Bắc. Chuyến 4 (chuyến lần thứ hai vào Đức Phổ): Ngày 27/2/1968, tàu 43 gồm 16 đồng chí được lệnh chở 37 tấn vũ khí vào bến Đức Phổ (Đội tàu 43, sau chuyến đi lần trước đã chiến đấu anh dũng với địch, hủy tàu và trở lại miền Bắc anh em trong tàu được nhận một tàu mới, vẫn mang tên 43). Tàu 43 vẫn do thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng và Chính trị viên Trần Quốc Tuấn chỉ huy. Ngày 29/2, khi tàu 43 đến gần bến Đức Phổ, cách bờ khoảng chục hải lý thì gặp cùng lúc 6 tàu địch và trực thăng tấn công tàu ta. Anh em trên tàu tổ chức đánh trả. Ta bắn rơi 1 trực thăng của địch, trong khi ta đã hy sinh 3 đồng chí: Vũ Văn Ruệ, Võ Nho Tòng và Phạm Văn Rai. Biết lực lượng địch đông, nếu tiếp tục chiến đấu địch có khả năng cướp tàu ta, nên chỉ huy lệnh cho anh em rút lên bờ và hủy tàu. Anh em còn lại trở về miền Bắc an toàn. Đây là lần thứ hai anh em chỉ huy, thủy thủ tàu 43 lại đi bộ, vượt Trường Sơn trở ra Bắc. Từ năm 1968 đến 1972, Đoàn 125 HQ chuyển hướng, tập trung vận chuyển vũ khí Bắc - Nam vào sâu tận biển Nam bộ, chủ yếu đến bến Thạnh Phong (Bến Tre) và Tân Ân (Cà Mau). Đến ngày 21/11/1970, tàu 176 do đồng chí Lê Xuân Ngọc làm thuyền trưởng và đồng chí Trần Thành Trung là Chính trị viên chỉ huy bị lộ khi sắp vào bến Thạnh Phong (hủy tàu, ta hy sinh 10 đồng chí) từ đó, các tàu vận chuyển chuyển hẳn vào cặp bến ở các bến thuộc xã Tân Ân. Tại các bến ở Thạnh Phong và Cà Mau, còn là nơi diễn ra nhiều trận chiến ác liệt, anh dũng của cán bộ, chiến sĩ vận tải Đoàn 125 HQ anh hùng và quân dân địa phương với máy bay, tàu chiến, các cuộc hành quân qui mô lớn của địch để bảo vệ tàu và hàng. Các trận chiến đấu đó là những tấm gương cao đẹp về phẩm chất và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của cán bộ, chiến sĩ Hải quân, đồng thời nói lên tính chất khốc liệt, đầy khó khăn nguy hiểm của công tác vận chuyển vũ khí bằng đường biển chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần đưa đến ngày đại thắng 30/4/1975.
Phan Lữ Hoàng Hà
(Nguồn: tư liệu thống kê của Đoàn 125 HQ)
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Thông tin tóm tắt của phía Mỹ

Chiếc tàu cá chở vũ khí của phía Bắc Việt bị máy bay của lực lượng tuần thám hải quân phát hiện lần đầu tiên vào ngày 17/11/1970 tại phía Nam đảo Côn Sơn. Lập tức thông tin này được chuyển tới 2 tàu chiến Mỹ ở khu vực (Tàu Rush và Tacoma), đồng thời lực lượng hải quân VNCH cũng được báo động.

Tàu Tacoma nhận bàn giao mục tiêu từ máy bay tuần thám, và duy trì theo dõi mục tiêu qua rada ở khoảng cách 7 đến 8 hải lý trong đêm. Tàu Rush cùng bám sát mục tiêu với tàu Tacoma.

Tàu cá thay đổi hướng đi vài lần trong 3 ngày tiếp theo, nhưng tàu Rush tiếp tục duy trì bám sát ở ngoài tầm nhìn, bằng rada.

Thời điểm này, tàu cá có vẻ như từ bỏ nhiệm vụ và quay hướng về đảo Hải Nam, nhưng đến ngày 21/11 tàu cá bất ngờ đổi sang hướng Tây Bắc di chuyển vào bờ biển Nam Việt Nam, khu vực chiến khu Long Toàn hoặc Thạnh Phú.

Tàu cá tiến vào phạm vi lãnh hải 12 hải lý, và 22 giờ ngày 21/11/1970, tàu Rush, được tàu Endurance và Sherman hỗ trợ, bắn pháo sáng ở khu vực. Tàu cá bật đèn sáng và cố gắng trốn thoát. Tàu Endurance bắn cảnh cáo qua mũi tàu, và khi tàu cá không dừng lại, đã bắn trực tiếp vào tàu cá.

Tàu cá cố gắng thoát khỏi tàu Endurance và bắn vào tàu Endurance bằng súng DKZ 75mm và vũ khí bộ binh. Một viên đạn DKZ 75mm bắn trúng đuôi tàu Endurane và gây nên hư hỏng nhẹ. Thoát khỏi tàu Endurance, tàu cá hướng vào bãi biển phía Bắc cửa sông Cung Hầu. Tàu Rush, Sherman, và Tacoma (Mới đến khu vực) bắn phá tàu cá. Lúc 0 giờ 16 phút ngày 22/11/1970, tàu cá bị lật úp và chìm, có thể do tự phá hủy tàu.

Các tàu Mỹ lục soát cẩn thận khu vực nhưng không phát hiện ai còn sống sót, ngoại trừ một thời gian sau có 2 thành viên của tàu bị bắt ở tỉnh Kiến Hòa.
Các lực lượng Mỹ và hải quân VNCH đã tiến hành chiến dịch trục vớt vũ khí trang bị trên tàu cá vận chuyển vũ khí của Bắc Việt bị chìm ngoài khơi tỉnh Kiến Hòa. Con tàu cá ước tính chở 61 tấn vũ khí, quân cụ. Các loại vũ khí trang bị trục vớt được gồm:



  • 2 thùng đạn 12,7mm
  • 1 kính ngắm súng 12,7mm
  • 1 hộp ngòi nổ chậm và thiết bị gây nổ
  • 1 động cơ loại 2 xilanh
  • 2 hộp tiếp đạn cho súng máy kiểu K56
  • 1 bộ phụ kiện cho súng DKZ 75mm
  • 3 máy radio
  • 1 bao cáp thông tin, dây anten
  • 5 súng DKZ 75
  • 19 lưới ngụy trang
  • 1 bao đồ y tế
  • 10 thùng kíp nổ
  • 1.110.000 đạn AK 47
  • 194 súng AK47
  • 420 đạn B40
  • 458 đạn B41
  • 242 đạn DKZ75mm
  • 95 đạn phản lực 107mm
  • 56 đạn 82mm
  • 52 súng B40
  • 46 súng B41
  • 88 pin điện
  • 49 thùng C3 (thuốc nổ?)
  • 3.4 tấn thuốc nổ TNT
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
( tiếp )


Bản đồ đường đi của các tàu trong sự kiện hải quân Mỹ chặn bắt tàu không số 176 của Hải quân nhân dân Việt Nam ngày 22/11/1970 tại vùng biển phía Nam.

Nguồn: http://www.uscg.mil

Đường màu vàng biểu thị cho tàu không số 176
Đường màu đỏ biểu thị cho tàu Rush
Đường màu xanh biểu thị cho tàu Sherman

 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Lược dịch về trận chiến đêm 21, rạng sáng 22/11/1970 – Hải quân Mỹ ngăn chặn tàu không số 176 của Lữ đoàn 125 hải quân (Nguồn: http://www.uscg.mil).

Đêm 21/11/1970 là đêm không trăng, trời tối và thủy triều lớn. Tàu Endurance (Là tàu quét mìn) bắn pháo sáng, và ngay sau đó là súng từ tàu chiến Mỹ và tàu vận tải Bắc Việt bắt đầu bắn. Sau khi bắn nhau qua lại một lúc, các tàu dừng bắn. Tàu quét mìn Endurance bị trúng 1 viên đạn DKZ75mm vào khu vực vỏ gỗ của tàu nhưng nó không nổ. Tàu quét mìn được lệnh dừng tấn công.

Tàu tuần duyên Sherman




Hình ảnh 1 tàu quét mìn khác, cùng loại với tàu Endurance



Tàu vận tải Bắc Việt, hiển thị trên màn hình radar, ở giữa Bắc và Tây Bắc khoảng 10 hải lý và khi các tàu dừng bắn, nó vẫn chạy với tốc độ 10 hải lý. Trên màn hình radar, tàu Sherman và tàu Rush cùng các đơn vị/ tàu khác đang đi theo tài vận tải Bắc Việt ở khoảng cách 3 hoặc hơn 3 hải lý. Tàu vận tải Bắc Việt và các tàu hải quân Mỹ/ VNCH đang tiếp cận bờ biển. Thời điểm này, tàu Rush bắt đầu sử dụng pháo 127mm, cùng với tàu Sherman, bắn vào tàu vận tải Bắc Việt. Bộ phận kiểm soát hỏa lực báo cáo bắn không trúng tàu Bắc Việt. Tàu Rush dừng bắn và tàu Sherman tiếp tục tấn công tàu Bắc Việt, hiện vẫn đang di chuyển và tiến gần hơn đến bờ biển phía trước cách hơn 1 hải lý.

Tàu Sherman dừng lại bên ngoài vùng nước nông cửa sông Mekong, duy trì việc xác định chính xác vị trí tàu [Sherman] thông qua hệ thống định vị LORAN C. Để tiếp cận tàu Bắc Việt, thì tàu Sherman phải tiến vào vùng nước mà theo hải đồ cho thấy mức nước quá thấp đối với tàu Sherman. Chỉ huy tàu Sherman biết thủy triều rất cao và có thể di chuyển nhất định trong khu vực này nhờ thủy triều. Vùng đồng bằng [cửa sông] tương đối bằng phẳng và tàu Sherman có thể hoạt động nhờ chỉ dẫn của 2 thiết bị đo độ sâu trên tàu, bắt đầu tiến vào vùng nước nông.
Tàu Sherman phải hành động rất nhanh, nếu không tàu Bắc Việt sẽ tiến vào bờ biển và lúc đó tàu Sherman sẽ đi vào vùng nước nông. Lúc này, tàu quét mìn xác nhận tàu Sherman đã vượt qua tàu quét mìn, và tàu Bắc Việt hiện đang ở phía trước tàu Sherman. Khi ở khu vực nước nông, hải đồ cho thấy mức nước chỉ ở khoảng 2 đến 3 mét, không đảm bảo đối với tàu Sherman. Thiết bị đo độ sâu của tàu Sherman cho thấy độ sâu dưới lườn tàu khoảng 4.5 mét. Khi độ sâu dưới sườn tàu giảm xuống 1.8 mét thì chân vịt của tàu sẽ bị ảnh hưởng. Lúc này tàu Sherman đang di chuyển với tốc độ 26 hải lý.

Chỉ huy tàu Sherman không còn nhớ được tàu duy trì tốc độ 26 hải lý trong bao nhiêu lâu, có thể chỉ trong 5 phút, cho đến khi sỹ quan hoa tiêu thông báo về việc tàu Sherman bị dừng lại. Khi đó, tàu bắt đầu khai hỏa.

Khi đó, tàu vận tải Bắc Việt vẫn chạy ở tốc độ 10 hải lý, chạy trong màn đêm và không bị bắn. Tàu Sherman khóa mục tiêu cho các khẩu pháo, và bắn 3 pháo sáng để chiếu sáng mục tiêu. Ba quả pháo sáng soi rõ tàu vận tải vỏ sắt của Bắc Việt. Ngay sau đó, tàu Bắc Việt nổ súng vào tàu Sherman. Viên đạn của tàu Bắc Việt vạch đường đỏ lừ, được cho là từ súng máy cỡ nòng 60 [Súng 12,7mm?] và đường đạn màu xanh từ súng khác, có thể là DKZ 75mm. Khoảng cách giữa 2 tàu lúc này khoảng hơn 2km. Chỉ huy tàu Sherman ra lệnh bộ phận chỉ huy hỏa lực chuyển sang chế độ bắn trực tiếp.

Sau khi bắn viên đạn đầu tiên ở chế độ bắn trực tiếp, có 1 vụ nổ và ánh sáng chói lòa bùng lên ở tàu Bắc Việt. Chỉ huy tàu Sherman biết rằng trước đây, tàu Bắc Việt thường hay tự hủy khi bị tàu Mỹ/ VNCH chặn bắt và do đó, vụ nổ này là do tàu tự hủy. Tàu Sherman tiếp tục sử dụng pháo 127mm phía trước, bắn liên tục ở tốc độ bắn cao nhất vào tàu Bắc Việt (Khoảng 18 phát đạn/ 1 phút) và các viên đạn đều trúng mục tiêu, làm bùng lên ánh lửa. Sau 8 đến 10 phát bắn, khoảng 1 phút rưỡi sau tàu Bắc Việt dừng lại và vẫn cháy rực.

Khi tàu Bắc Việt dừng lại, chỉ huy tàu Sherman ra lệnh dừng bắn. Tàu Bắc Việt bị chìm (ngọn lửa biến mất và radar mất tín hiệu tàu địch). Do tàu Sherman đang ở vùng nước nông nên chỉ huy tàu ra lệnh di chuyển ra phía ngoài, vùng nước sâu hơn và thông báo tới chỉ huy cử tàu nhỏ hơn vào tìm kiếm tại khu vực tàu Bắc Việt chìm.
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
( tiếp)


Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, chỉ huy tàu Sherman bắt đầu đọc được những tin điện cảu phía hải quân VNCH báo cáo, trong những ngày tiếp sau, xác tàu Bắc Việt đã được tìm thấy và các thợ lặn Mỹ và VNCH đã tiếp cận tàu chìm. Xác tàu vẫn nổi trên mặt nước khi thủy triều thấp, ở vị trí cách bờ biển hơn 1 hải lý. Các thợ lặn báo cáo có một lỗ thủng bên mạn phải, do đạn pháo 127mm gây ra.

Các thợ lặn hải quân phát hiện súng cỡ nòng 60 [Súng 12.7mm?] và súng DKZ, và phát hiện ra tàu Bắc Việt chở theo lượng vũ khí và đạn dược đủ trang bị cho cả sư đoàn. Có một số thi thể thủy thủ được tìm thấy. Vào ngày đầu tiên hoặc ngày thứ 2, có thể thủy thủy đoàn từ chiếc tàu bị bắt khi đã lên được bờ.

Chỉ huy tàu Sherman tin rằng viên đạn pháo 127mm đầu tiên hoặc viên đạn thứ 2 đã giết chết Ban chỉ huy tàu và chính điều này đã ngăn cản việc tự hủy con tàu. Một hoặc hai tuần sau, tàu Sherman đề nghị gửi đến cho tàu một thứ vũ khí lấy từ con tàu Bắc Việt bị đắm. Phía Hải quân đã gửi cho tàu Sherman một khẩu súng B40, là vũ khí thông dụng của quân đội Bắc Việt.
Thuyền trưởng tàu Rush cho biết, tàu Rush theo dõi tàu Bắc Việt từ ngoài đường chân trời [Ngoài tầm nhìn]. Radar trên tàu Rush cho thấy tàu Bắc Việt liên tục ngoặt theo đường tròn, và chỉ huy tàu Rush không hiểu được lý do.

Một thời gian sau, chỉ huy Hải đội tuần duyên 3 đã thông tin cho chỉ huy tàu Sherman biết về việc các thợ lặn hải quân phát hiện hòm chứa chim bồ câu đưa thư ở xác tàu Bắc Việt. Các viên chỉ huy đã thảo luận về những con chim bồ câu được dùng làm gì? Chỉ huy hải đội 3 cho rằng những con chim này được dùng để mang thư về căn cứ của tàu [Bến tiếp nhận?]. Chỉ huy tàu Sherman cho rằng, khi tàu Bắc Việt xâm nhập vào vùng biển trong đêm tối trời, do không có thiết bị radar, nên tàu Bắc Việt cần trợ giúp định hướng. Chim bồ câu đưa thư, nếu nhà của nó là bến tiếp nhận tàu Bắc Việt, sẽ chỉ hướng cho tàu Bắc Việt khi được thả ra, và tàu Bắc Việt sẽ đi theo hướng đó, hoặc cũng có thể mang theo thư vào bến. Các vòng tròn di chuyển của tàu Bắc Việt [do radar trên tàu Rush ghi nhận được], là để giúp chim bồ câu định hướng về nhà nó, mà chỉ huy tàu Sherman cho rằng có liên quan đến từ trường trái đất.

[Trong danh mục vũ khí, đồ vật thu được từ tàu không số 176 bị chìm, có một mục ghi: “20 Birdcage underwater pressure actuating devices” – Là 20 lồng chim?]
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
Báo Quân đội nhân dân có bài viết về những thủy thủy của tàu không số (số 198) của Lữ đoàn 125 xưa, sau sự kiện gặp địch đêm 14/7/1967.
QĐND - “Chồn Alpha” chính là tàu không số của ta, ký hiệu 198. Người thuyền trưởng đến nay vẫn còn sống và từng phải chịu nhiều nỗi đau day dứt khi không hoàn thành nhiệm vụ, để tàu rơi vào tay địch. Ông đã khóc khi được nghe chúng tôi đọc một đoạn trong tài liệu phía Mỹ viết, giúp sáng tỏ nhiều thông tin về cuộc truy đuổi con tàu. Cuộc tìm kiếm của phóng viên Báo Quân đội nhân dân còn sáng tỏ một sự thực khác về cái gọi là “triển lãm” tàu chiến thu được của quân đội Sài Gòn.
“Chồn Alpha” trong sử sách
Con tàu trong cuộc rượt đuổi là tàu không số nào? Không khó khăn lắm, chúng tôi đã tìm thấy những dòng viết về nó trong cuốn Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005) do NXB Quân đội nhân dân ấn hành năm 2005, có đoạn: “Trong những tháng đầu năm 1967, mặc dù đế quốc Mỹ ngăn chặn gắt gao, Đoàn 125 vẫn tiếp tục tìm mọi cách vận chuyển cho chiến trường. Năm 1967, Đoàn 125 tổ chức 5 chuyến vào Khu 5, bị địch ngăn chặn, 3 chuyến phải quay về, chỉ có 2 chuyến do tàu 43 và tàu 198 đảm nhiệm vào tới nơi an toàn...”.
“Tàu 198 do thuyền trưởng Vũ Tấn Ích và Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch chỉ huy xuất phát ngày 6 tháng 7 năm 1967. Đêm ngày 14 tháng 7, tàu vào cách bến Ba Làng An (Quảng Ngãi) 6 hải lý thì gặp máy bay và tàu chiến địch bao vây bắn phá. Cán bộ, thủy thủ tàu 198 nổ súng đánh trả địch và cơ động vào bến Ba Làng An. Ở đây, tàu 198 vẫn bị địch tiến công. Trong trận này, chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và Phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp đã anh dũng hy sinh”.
Thuyền trưởng Vũ Tấn Ích - năm 1967 (ảnh do nhân vật cung cấp) Ông Vũ Tấn Ích hiện nay. Ảnh: Phan Tiến Dũng Như vậy, trước khi lâm nạn, tàu 198 từng thực hiện một chuyến hàng thành công. Cuốn Lịch sử Lữ đoàn 125 Hải quân (NXB QĐND-2001) viết về sự kiện này có đoạn: “Tàu 198 đánh trả và cơ động vào bến Ba Làng An (Quảng Ngãi). Song do không tổ chức hủy tàu được nên bị địch lấy nguyên tàu. Anh em lên bờ, đi bộ ra miền Bắc. Trong trận này, chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và Phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp hy sinh. Đây là nỗi đau nhức nhối của Đoàn 125 trên con đường vận chuyển vũ khí vào Nam. Sau này, **** ủy đoàn và cán bộ tàu 198 đã kiểm điểm sâu sắc sự việc này”.
Nỗi đau 45 năm
Như vậy, câu chuyện diễn biến cuộc rượt đuổi, bắt sống “Chồn Alpha” trùng khớp với diễn biến về tàu 198 đã được ghi trong sử sách. Việc tàu 198 bị bắt đã trở thành nỗi ám ảnh trong lòng những người lính Lữ đoàn 125, cho dù hơn 40 năm đã trôi qua. Trên internet hiện có hẳn một diễn đàn mang tên “Đường Hồ Chí Minh trên biển”, tập hợp nhiều cựu chiến binh tàu không số và con cháu họ cũng như những người quan tâm, bàn luận sôi nổi suốt nhiều năm qua. Mới đây, khi truy cập vào diễn đàn, chúng tôi đã ghi lại được khá nhiều ý kiến về việc này. Ông Trần Hậu Vệ, một cựu chiến binh tàu không số viết: “Sau chuyến tàu đó như tôi biết, đồng chí Ích bị kỷ luật khiển trách nội bộ bởi lúc đó có thể nói là rất hiếm cán bộ thuyền được chọn lựa về đoàn tàu không số. Lỗi lầm hết sức lớn bởi từ vụ của đồng chí Ích trở đi, đoàn tàu không số phải chịu nhiều tổn thất, mất mát lớn, mà tiêu biểu là những chuyến đi của các tàu trong Tết Mậu Thân 1968. Ba con tàu ra đi trong dịp đó, chỉ có tàu 56 của chúng tôi thoát hiểm được”. “Thật lòng, không sợ mất lòng mà nói thì bác Ích rất có công, nhưng cũng có “tội”. Con tàu không đánh bộc phá dứt điểm ở bến Ba Làng nên địch đã lấy toàn bộ vũ khí tàu 198 về Sài Gòn khoe mẽ với dân chúng... Nhưng cái gì đã qua thì nó đã xa, nhắc lại chỉ thêm đau lòng đồng đội" -Trần Hậu Vệ.
Theo thông tin từ phía quân đội Sài Gòn khi đó, sau “chiến thắng trên sông Sa Kỳ”, “Chồn Alpha” – tức tàu không số 198 đã bị họ kéo về Sài Gòn triển lãm, trưng bày toàn bộ số vũ khí thu được để khuếch trương thành công của chiến dịch Market Time. Gần đây, ông Đỗ Thái Bình, một cựu kỹ sư tàu biển đang sống ở nước ngoài đã thu thập được nhiều hình ảnh về cuộc trưng bày và đưa lên blog cá nhân. Theo đó, cuộc “triển lãm” đã diễn ra rất “hoành tráng”. Con tàu được kéo về Sài Gòn, trưng bày tại bến Bạch Đằng cận kề một cầu cảng với tấp nập người đến xem. Nhìn nó có vẻ thật nhỏ bé và “tội nghiệp” với dáng vẻ cũ kỹ, han gỉ, mốc thếch bên cạnh một dàn chiến hạm đồ sộ mà đối phương cố tình cho đỗ ngay phía trước như để tạo ra một sự tương phản, gây cảm xúc mạnh mẽ cho người xem triển lãm. Cùng với đó là hình ảnh hàng nghìn khẩu súng được thu lượm, xếp hàng dài đặt trên bờ.
Tình dân, tình đồng đội
Sự thật có đúng như vậy không?
Ông Lương Hữu Lâm, Ban Liên lạc Cựu chiến binh đoàn tàu không số toàn quốc, sau khi nghiên cứu đã khẳng định với chúng tôi: Hoàn toàn không có chuyện tàu 198 – "Chồn Alpha" được kéo về Sài Gòn triển lãm. Đó chỉ là trò lừa bịp của quân đội Sài Gòn trước dân chúng và binh lính. Trên thực tế, sau khi địch lấy vũ khí mang đi, con tàu neo ở Đà Nẵng bị bỏ chỏng chơ, đã nhanh chóng bị đặc công ta tiếp cận, dùng thuốc nổ hủy bỏ, phi tang. Con tàu mà địch triển lãm ở bến Bạch Đằng, có thể chỉ là một con tàu “ma” giả mạo.
Cuộc triển lãm với tàu 198 bị cho là giả mạo được thực hiện ở bến Bạch Đằng, Sài Gòn tháng 9-1967. Ảnh tư liệu Còn thuyền trưởng Vũ Tấn Ích cùng những người thoát hiểm sau khi con tàu bị địch bắt, gần 45 năm đã trôi qua, nay họ ở đâu?
Sau khi tìm hiểu thông tin tại Lữ đoàn 125, chúng tôi đã liên lạc được với ông Vũ Tấn Ích. Người thuyền trưởng của “Chồn Alpha” năm nào, nay đã bước sang tuổi 81 nhưng vẫn còn rất minh mẫn. Hiện ông đang sống trong một ngôi nhà nhỏ tại phố Nguyễn Tri Phương, thành phố Đà Nẵng. Khi tôi đặt vấn đề hỏi về tàu 198, có lẽ đã chạm đến một nỗi đau lặn sâu trong vùng ký ức, ông lặng đi hồi lâu rồi cất tiếng:
- Chuyện xảy ra lâu lắm rồi! Nhắc lại làm gì?
Sau hồi lâu tâm tình, khơi gợi và kể lại những gì chúng tôi mới dịch được từ bài viết về “Chồn Alpha” của Mỹ, ông mới mở lòng, trò chuyện cùng tôi. 45 năm trôi qua rồi, đây là lần đầu tiên ông được nghe tường thuật chi tiết về trận rượt đuổi con tàu do mình làm thuyền trưởng từ phía đối phương. Ông cũng ngạc nhiên vô cùng khi đối phương đặt tên cho con tàu thật ngộ nghĩnh “Chồn Alpha”. Nghe tôi thuật lại, ông thừa nhận những gì đối phương miêu tả tương đối chân thực và sát với diễn biến của cuộc rượt đuổi. Ông nói:
- Đó là một chuyến đi đầy cam go, khi biết địch vây ép, tôi bình tĩnh yêu cầu anh em không manh động. Vào tới gần Lý Sơn, thấy ánh đèn tàu, tôi quyết định cho bật đèn hành trình để đi, đồng thời ngầm báo với địch: mình là tàu cá, làm ăn “chân phương”. Đến khi chúng không ép nữa, bỏ đi rồi chúng tôi mới táo bạo lao vào bờ thì... Chi tiết họ viết rằng tìm thấy một xác thủy thủ trên tàu là đúng. Đó là thi thể anh Trạch, chính trị viên. Khi tàu đã mắc cạn và chiến đấu với địch hàng giờ, bị địch bao vây, chúng tôi đã quyết định rút khỏi tàu và cử Chính trị viên Huỳnh Ngọc Trạch và Phó thuyền trưởng Phạm Chuyên Nghiệp ở lại hủy tàu. Tuy nhiên, không hiểu sao hai anh đã không thể kích nổ được bộc phá theo kế hoạch. Anh Nghiệp sau khi rời tàu, bơi được vào bờ nhưng bị thương nặng đến hôm sau thì hy sinh. Còn anh Trạch, có lẽ đã hy sinh vì trúng đạn khi còn ở ngay trên tàu.
- Nghe nói sau vụ bị đối phương thu tàu ấy, bác và toàn bộ thành viên tàu 198 đã phải nhận hình thức kỷ luật nghiêm khắc? – Tôi hỏi.
- Lúc đó chi bộ họp kiểm điểm, phê bình nghiêm khắc, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thất bại cay đắng. Chúng tôi đã chỉ ra nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Riêng tôi là thuyền trưởng, nói gì thì nói, nguyên nhân gì thì nguyên nhân nhưng không hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm trước hết thuộc về người chỉ huy. Tôi đã nhận trách nhiệm thuộc về mình. Cấp trên chỉ đạo phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc, tuy nhiên cũng không thi hành hình thức kỷ luật gì cụ thể. Không có hình thức kỷ luật nào, nhưng thất bại ấy luôn là nỗi đau đè nặng suốt cuộc đời tôi như một ám ảnh. Đau vì thất bại, mất tàu là một chuyện, nỗi đau lớn hơn chính là sự hy sinh của đồng đội, mình trở về, còn anh em mãi mãi nằm lại” – ông tâm sự.
Dù là một con cá kình trong đội tàu không số, từng thực hiện 9 chuyến đi biển, trong đó có 6 chuyến thành công nhưng cuộc đời binh nghiệp của ông đúng là “ba chìm, bảy nổi, chín lênh đênh”, đến lần thứ chín thì xảy ra sự cố với tàu 198. Không bị kỷ luật nhưng ở một khía cạnh nào đó, ông Ích đã bị ảnh hưởng rất nhiều. Ông không được làm thuyền trưởng, không được đi biển nữa mà được điều về bộ phận tác chiến của Lữ đoàn. Năm 1970, ông được điều chuyển về đơn vị đặc công nước rồi lại về làm Tiểu đoàn trưởng đơn vị tàu rà phá ngư lôi. Năm 1975, ông vào chiến trường Liên khu 5, tham gia giải phóng thành phố Đà Nẵng và công tác tại Quân khu 5, tới năm 1982 thì nghỉ hưu với quân hàm trung tá. Tuổi xế chiều, người vợ lại ra đi quá sớm, ông phải vật lộn với cuộc sống, lo cho con, cho cháu.
Chiến tranh thật khắc nghiệt, để lại bao thân phận đắng cay. Nhưng điều còn mãi là tình người. Cách đây hai năm, chị Loan, vợ anh Nghiệp ở Tứ Kỳ, Hải Dương – người vẫn ở vậy thờ chồng mấy chục năm qua cùng em trai anh đã tìm gặp ông rồi cùng ông trở lại Quảng Ngãi tìm hài cốt anh Nghiệp. Thật cảm động, bác Nguyễn Tương, nguyên Chủ tịch xã từ năm 1967 đã mang thi hài anh về chôn trên rẫy cạnh nhà mình. Lúc chiến tranh vội vàng, gấp gáp, bác cũng không kịp hỏi tên, chỉ biết người lính hy sinh là thuyền phó nên nhà bác có tám anh em, bác gọi anh Nghiệp là... “chú Chín”, thờ phụng, cúng giỗ như ruột rà. Rồi bác cùng anh em lại lo đưa anh về nghĩa trang liệt sĩ xã, đề mộ vô danh...
Trước cuộc gặp gỡ ấy, bác Tương bất ngờ nằm mơ thấy anh Nghiệp về, đòi bác làm cơm để chia tay. Lúc đưa chị Loan ra nghĩa trang, dù không nói trước anh nằm mộ nào, tự dưng chị đi thẳng tới ngôi mộ vô danh số sáu, đúng mộ anh nằm, ôm lấy mộ kêu tên anh, khóc thảm thiết.. .Có lẽ, đạn bom, thời gian, nỗi đau cách trở dường như không ngăn được sợi dây tình cảm thiêng liêng, kỳ diệu...
Nguyên Minh
 

pháo BM21 grad

Xe lăn
Biển số
OF-302370
Ngày cấp bằng
20/12/13
Số km
11,354
Động cơ
73 Mã lực
4. Sự kiện hải quân Mỹ chặn bắt tàu không số 100 tại cửa sông Rạch Già (Cà Mau) ngày 9 và 10/5/1966

Sau khi tàu 69 vào bến, một ngày sau, đêm 23 rạng 24 tháng 4 năm 1966, tàu 100 được lệnh rời bến Bính Đông. Tàu 100 do thuyền trưởng Lê Minh Sơn và chính trị viên Nguyễn Hữu Tương chỉ huy. Thuyền phó là Ngô Văn Sở và Phạm Ngọc Điển; các thủy thủ gồm: Nguyễn Thành Thưởng, Lê Văn Cớt, Đàm Văn Chung, Phùng Văn Quý, Trần Văn Đua, Đặng Thanh Bàn, Lê Xuân Giản, Đoàn Văn Minh, Lê Văn Thi, Lê Văn Tưởng, Cao Văn Thiện, Lê Công Khanh.

Đi được một ngày, theo lệnh của Sở chỉ huy, tàu dửng lại ở A3. Ngày 5 tháng 5, tàu tiếp tục lên đường. Sáu ngày đầu, tàu đi trong sự yên tĩnh. Ngày thứ 7, khi tàu ở vào toạ độ 09o55 vĩ bắc, 109o30 kinh đông thì gặp một tàu khu trục Mỹ. Vừa phát hiện tàu lạ, chiếc khu trục tăng tốc độ, bám sát. Cuộc "hộ tống” kéo dài nhiều giờ. Tàu 100 mấy lần định “cắt đuôi” nhưng không được. Đêm 9 rạng 10 tháng 5, tàu quyết định chuyển hướng vào bờ. Máy bay trinh sát của địch phát hiện được, lập tức chúng báo động và điều tàu chiến đấu. Sau đó một thời gian, chiếc tàu chiến của hải quân Mỹ mang tên Uscg Cuher Poiut Grey đã có mặt. Chúng đánh tín hiệu xin cập mạn. Tàu ta vẫn không đáp. Tàu Mỹ chạy nhanh về phía trước, có ý chặn đường, nhưng tàu 100 vẫn tiến thẳng, sẵn sàng đâm vào tàu địch. Thấy vậy, tàu Mỹ phải tránh sang một bên. Song tàu Cuher Poiut Grey vẫn bám sát tàu ta, với ý định đe doạ, buộc tàu 100 phải đầu hàng. Tàu 100 không nổ súng trước, mà tranh thủ đi nhanh về phía bờ. Lúc này, thấy ám hiệu: hai đống lửa ở cửa Bồ Đề, nên tàu đã đi vào cửa Rạch Già. Đêm đó nước ròng, tàu vào tới Rạch Già thì bị mắc cạn

Ngoài khơi, địch điều thêm 3 tàu chiến nữa với ý định cướp tàu ta. Trước tình hình đó, chi ủy, cán bộ tàu 100 quyết định cho anh em lên bờ, bắt liên lạc với bến. Trước khi rời tàu, đồng chí Phạm Ngọc Điển thuyền phó và đồng chí Lê Văn Cớt thợ máy ở lại điểm hoả để phá tàu và phá vũ khí. Song không rõ nguyên cớ gì, tàu 100 không nổ. Tàu của địch không dám vào gần tàu ta, nó ở xa 200 mét đánh tín hiệu xin cập mạn. Nó tưởng trên tàu 100 vẫn còn người.

Tàu địch kéo còi mấy lần, không thấy tàu ta đáp lại chúng cho hai tên liều mạng bơi về phía tàu 100 thăm dò. Nhưng lúc đó, lực lượng ở bến do đồng chí Tư Mao chỉ huy đã ra kịp thời, bắn xả vào mấy tên địch, buộc chúng quay lại.

Lúc ấy trời đã gần sáng. Khả năng giữ được tàu, không cho địch kéo đi rất khó. Đồng chí Tư Mao cùng với thợ máy Cớt và Hải, một du kích của bến, bơi ra tàu thu thập tài liệu liên quan đến chuyến đi và bí mật của đơn vị.

Suốt ngày hôm đó, các thủy thủ tàu 100 phối hợp với lực lượng ở bến chiến đấu kiên cường, quyết không cho địch vào gần cướp tàu.

Khoảng gần trưa, thêm hai tàu nữa của địch đến. Chúng dàn đội hình quây lấy tàu 100, đồng thời xả đạn vào bờ. Song vẫn bị chống trả quyết liệt nên ý định cướp tàu không thành. Máy bay trực thăng, máy bay phản lực đến dội bom, bắn phá khu vực, với mục đích không cho ta bám tàu. Sau mỗi đợt bắn phá, tàu địch lại vào, anh em ta đánh rát, chúng lại dạt ra. Mãi đến 10 giờ sáng ngày hôm sau, biết không bắt sống được tàu ta, bọn địch ném bom xuống tàu. Thuốc nổ của bom, thuốc nổ trên tàu và vũ khí chứa trong nó, khiến con tàu bùng lên dữ dội và mất dạng. Như vậy là ý định bắt sống cán bộ chiến sĩ và cướp tàu ta của kẻ địch không thực hiện được. Đã vậy, địch bị nhiều tổn thất. "Trời vừa mờ sáng, tàu Poăng-gơ-rây đã đến cách mục tiêu 500 mét, dự định đổ bộ lên tàu địch (tức tàu 100), nhưng đã gặp sự kháng cự mãnh liệt của hoả lực tử các bụi rậm trên bờ bắn xuống. Tàu Poăng-gơ-rây đã cố giữ vững vị trí và anh dũng chống trả với tất cả hoả lực... Cuộc chống trả dai dẳng và gay go này đã làm cho tàu Poăng-gơ-rây bị nhiều thiệt hại, ba pháo thủ tiền vệ bị thương, vỏ tàu bị nhiều vết đạn xuyên phá...". Đó là lời thú nhận của kẻ địch trong một tài liệu sau này Đoàn 125 thu được.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top