[TT Hữu ích] Dịch sách cổ: Ký sự Việt Nam 1835 [Hải Nam Tạp Trước]

Lạc Lạc 2008

Xe tải
Biển số
OF-855708
Ngày cấp bằng
22/3/24
Số km
208
Động cơ
2,577 Mã lực
Nơi ở
Từ Liêm Nam
Đã lâu, khi rảnh, em vẫn dịch sách cổ, vừa luyện ôn kiến-thức, vùa phục vụ các cụ đam mê tìm hiểu Lịch sử.
Trước, em đã giới thiệu phần 1 cuốn Hải Nam Tạp Trước 海南雜著 của Thái Đình Lan 蔡廷蘭, một văn sĩ Đài Loan bị bão đánh dạt thuyền vào nước ta thời Minh Mạng vào cuối năm 1835, rồi lên đường bộ từ Quảng Ngãi ra Bắc, ngược theo Lạng Sơn về Trung Quốc.
Trong suốt cuộc hành trình này, Thái Đình Lan đã ghi chép, tường thuật, quan sát phong cảnh, con người, thể chế chính trị của nước ta thời Minh Mạng, rồi viết thành sách có nhan đề Hải Nam Tạp Trước 海南雜著.
Cuốn này gồm 3 phần:
1. 滄溟紀險 Thương Minh kỷ hiểm [ghi chép về những hiểm nguy ở biển lạnh giá]
2. 炎荒紀程 Viêm hoang kỷ trình [ghi chép về hành trình qua những vùng đất xa xôi].
3. 越南紀略 Việt Nam kỷ lược [ghi chép sơ-lược về Lịch sử Việt Nam, phần này tác giả đứng trên quan điểm thân nhà Nguyễn đã cưu-mang mình nên viết khá tiêu-cực về nhà Tây Sơn nói chung và vua Quang Trung nói riêng, tập trung chủ yếu nói về tình hình xã hội, phong tục, quan chế, kinh tế, hôn nhân thời Minh Mạng]
Nay em dịch phần 2 và 3, có liên quan đến nước ta vậy. Những đoạn tác giả tự chú thích, xin để ngoặc (..) còn những đoạn người dịch chú thích them, xin để ngoặc [ ].
---------------------------
Vì trình độ vô cùng ngu dốt, kiến thức quê mùa nông-cạn, hiểu biết rất hạn-chế, bản dịch này chỉ phục vụ các cụ OF đọc vui tham khảo, rõ ràng, phần Lịch sử tác giả có khá nhiều nhầm lẫn, nhưng những phần trực tiếp quan sát, nhận định nước ta thời Minh Mạng thì rất đáng để tham khảo.
Tks cụ, cũng là để xem "khách quan" họ nhìn nhận thế nào. Vì người đọc sẽ đọc nhiều nguồn, nên sẽ nghe nhiều tai.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Công cụ trừng phạt người dân nước An Nam bao gồm roi mây, gông dài, xiềng xích, v.v. Khi trừng phạt bằng roi, họ chỉ dùng roi mây. Tội nhẹ thì đeo gông tre, tội nặng thì đeo gông gỗ, thêm xiềng xích. Đến mức tử hình, lưu đày thì đều tuân theo luật lệ của triều đình nhà Thanh để định tội. Vòng pháp luật nghiêm ngặt, khi nghe tin quan sai đến bắt, tội nhân tự đến nộp mình. Chỉ dùng một roi mây để giải đi hàng trăm người, không ai dám trốn chạy.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Mỗi làng ở nước An Nam đều có xã trưởng社長, lý trưởng里長. Khi có việc gì xảy ra, họ sẽ đánh mõ, khánh để báo hiệu. Nếu làng bị trộm cắp, xã trưởng sẽ đánh mõ ba lần liên tiếp, các làng lân cận nghe tiếng sẽ đánh mõ để ứng phó. Người dân trong làng sẽ tỏa đi khắp nơi để bắt trộm, không ai có thể trốn thoát. Khi bắt được trộm, phải có tang vật làm bằng chứng. Nếu trộm trốn thoát khỏi làng, không có tang vật thì quan phủ không xử lý, vì vậy tình trạng trộm cắp vặt rất phổ biến. Khi xảy ra mâu thuẫn, bất kể nam nữ, hai người sẽ lao vào nhau đánh nhau, không ai chịu nhượng bộ, gọi là "loạn bá"亂霸 (người ra tay trước được coi là đúng lý). Ngay cả người thân thích mạnh mẽ nhất cũng không dám can thiệp. Khi xã trưởng biết chuyện, sẽ đánh mõ tập hợp dân làng để hòa giải. Nếu không giải quyết được, họ sẽ báo quan. Người bị thương được đưa đến nhà kẻ thù để nằm rên rỉ suốt ngày đêm, không chịu ăn uống. Quan phủ buộc kẻ thù phải chữa khỏi cho người bị thương, sau đó mới xét xử vụ việc. Nhờ vậy, người dân không đánh nhau bằng hung khí, hiếm khi xảy ra án mạng do đánh nhau. Phụ nữ mang thai càng không được phép đánh đập, nếu ai đánh đập phụ nữ mang thai sẽ bị trừng phạt gấp đôi. Về tội thông dâm, có sự phân biệt giữa gái chưa chồng và gái đã chồng. Đối với tội thông dâm với gái chưa chồng, nếu gái tự nguyện, quan phủ sẽ tác hợp cho họ thành vợ chồng. Đối với tội thông dâm với gái đã chồng, kẻ phạm tội sẽ bị xử tử hình. Nước An Nam không có nhà thổ. Việc buôn bán và sử dụng thuốc phiện bị cấm nghiêm ngặt, kẻ buôn bán và sử dụng đều bị xử tử hình, tài sản bị tịch thu vào kho của triều đình. Tuy nhiên, cờ bạc lại không bị cấm. Cờ bạc là nghề kiếm sống của những kẻ lưu manh, khách đi đường càng ham mê hơn. Có người nhờ cờ bạc mà trở nên giàu có, nên mọi người đua nhau học theo. Phong trào này ngày càng lan rộng, mà quan phủ không hay biết, đáng lo ngại thay! Thuế được thu theo đầu người, mỗi năm người dân bản địa phải nộp 12 quan tiền thuế, người Hoa chỉ nộp một nửa. Thuế đinh 7 người được cấp lương cho một binh lính. Đất đai hoang vu, dân lười biếng, cuộc sống không có gì vui vẻ. Người giàu không có đến vạn quan tiền, người nghèo phải đi buôn bán, đốn củi làm nghề.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nước An Nam nhiều núi rừng, nên có nhiều hổ dữ. Tôi từng thấy nhiều tiều phu bắt được hổ đem dâng cho quan lớn, quan thưởng cho họ năm quan tiền. Họ nhốt hổ vào lồng, trói lại, cắt hết răng nanh và vuốt móng, rồi đem đến trường diễn võ. Khi voi được dắt đến, hổ nhìn thấy liền gầm lên dữ dội. Bầy voi đều hoảng sợ, lùi lại và bỏ chạy. Chỉ có một con voi già dũng cảm tiến lên húc vào trán hổ. Nó húc ba lần, đánh ba lần, hổ ngã lăn ra đất không thể cử động. Sau đó, bầy voi cùng nhau giẫm đạp hổ, chỉ trong chốc lát, da thịt hổ nát bét. Tôi hỏi người quản voi:
- Tại sao lại làm như vậy?
Người quản voi trả lời:
- Để huấn luyện voi, khiến chúng không sợ hổ.
Voi rất khỏe và có thể hiểu tiếng người. Các nha môn ở các tỉnh đều nuôi voi, mỗi năm huấn luyện voi đánh nhau hai lần (mỗi khi duyệt binh, trước tiên quân lính xếp hàng chỉnh tề, sau đó dắt voi vào trận. Bó rơm thành người đặt ở hàng đầu tiên, voi dùng vòi đánh vào, rơm nát tan tành. Tuy nhiên, voi sợ lửa và khói), nên quân đội thường dùng voi để xung phong, không gì có thể cản phá. Theo sách Minh sử, năm 1407, Trương Phụ張輔 nhà Minh đánh bại quân An Nam, gặp phải voi chiến, họ dùng ngựa che phủ bằng hình vẽ sư tử lao vào tấn công, voi đều quay đầu bỏ chạy. Tóm lại, mặc dù dã thú hung dữ, nhưng không bằng được lòng dân, đó mới là điều đáng tin cậy.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tôi cũng đã quan sát kỹ lưỡng phong tục tập quán của người dân An Nam. Mặc dù phần lớn họ có ảnh hưởng nhiều từ người Hán, nhưng vẫn mang nhiều phong tục tập quán cũ pha tạp của nhiều sắc dân cùng sinh sống [trên đất nước Việt Nam], tính cách xảo quyệt, dễ dối trá và keo kiệt, rất khó gần gũi. Đàn ông thường tụ tập cờ bạc, ăn nhậu, khi gia đình có việc [đại sự] lại hỏi ý kiến vợ, phụ nữ lo toan mọi việc trong nhà. Họ thích mặc áo đen, quần đỏ, đội nón tre hình nồi úp, khi gặp người khác thì cởi nón, cúi đầu chắp tay chào hỏi. Quần áo thường bẩn thỉu, không giặt giũ, đầy chấy rận, họ thường bắt rận bỏ vào miệng nhai, cho rằng như vậy là "hút sinh khí" của bản thân. Phong tục này phổ biến ở cả người giàu và người nghèo. Khi quan lại đến thăm dân, họ cũng cởi áo bắt rận, không ai cảm thấy kỳ lạ. Người dân An Nam rất thích tắm, ngay cả mùa đông cũng tắm nước lạnh từ đầu đến chân. Phụ nữ thường đi chợ bán buôn, họ búi tóc, đi chân trần, quấn đầu bằng khăn lụa xoắn, đội nón vành phẳng, mặc áo dài tay bó sát màu đỏ hoặc đen, dài đến tận đất, tay đeo vòng cổ, vòng tay bằng san hô, chuỗi hạt hoặc vòng tay bằng đồng, sắt, không mặc váy và không trang điểm. Họ thường gánh các loại thực phẩm, tạp hóa đến chợ, bày bán trên mặt đất, gọi là "hàng vỉa hè". Mỗi ngày có hai phiên chợ, gọi là “chợ sáng"早市 và "chợ chiều"晚市. Chợ bán đủ loại hàng hóa, trong đó trà, thuốc bắc, đồ gốm sứ, quần áo cũ chủ yếu do thương nhân Trung Quốc mang đến bán.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Về hôn nhân: nam nữ kết hôn, tiền sính lễ không có quy định nhất định, ít nhất là hơn mười quan tiền. Đến ngày cưới, chú rể cùng mai mối đến nhà gái đón dâu. Dâu đi theo chồng về nhà, không dùng xe ngựa. Hai bên gia đình đi theo đều là phụ nữ, không có đèn hoa, âm nhạc. Nếu vợ bỏ chồng, trả lại tiền sính lễ và về nhà. Con gái thích lấy người Hán làm chồng, gọi người Hán là "thúc"叔. Theo phong tục, con gái được chia đều tài sản gia đình. Về thờ cúng: thờ cúng tổ tiên, nhất định phải thờ cả cha mẹ vợ. Không lập bài vị, viết thơ đối dán trên vách nhà, đặt bát hương ở đó. Thần linh thờ cúng trong nhà gọi là Bản Đầu Công"本頭公 (giống như Thổ Địa Công土地公 ở vùng Phúc Kiến), trong sân thờ Cửu Thiên Huyền Nữ九天元女 [Cửu Thiên Huyền Nữ hay còn gọi Cửu Thiên Huyền Mỗ, tục gọi Cửu Thiên Huyền Nữ nương nương hay Cửu Thiên nương nương là một trong ba vị Thánh tổ của Đạo giáo Trung Quốc], dựng một cây gỗ cao, đặt khám thờ trên đó, để bát hương, bên dưới trồng nhiều tre đỏ và các loại hoa đẹp. Đền thờ đặt bài vị thần, không tạc tượng. Khi rước thần, một người hát, tám người bên cạnh đánh trống giữ nhịp, hoặc bốn người, không có nhạc cụ khác. Vào đền, đốt pháo nổ nhiều, gọi là "Cát Lợi"吉利.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nhà dân chủ yếu làm bằng tranh tre vì gạch, ngói, vôi đều đắt tiền. Nhà có hình dạng cao ở giữa, thấp xung quanh. Phía trước nhà có mái che bằng tre, che cửa. Ban ngày thì kéo lên. Trong nhà không có ghế, bàn, chỉ có giường thấp, người ta ngủ trên đó cả ngày lẫn đêm. Họ không làm chăn, đệm, khi lạnh thì lấy chiếu quấn quanh người. Chỉ người Trung Quốc lưu ngụ mới có nhà ngói, cửa cao, đầy đủ đồ đạc, gọi là Đại Gia viên大家圍. Về ăn uống: đặt một mâm đồng lên bàn, nếu không có mâm đồng thì coi là bất kính, xếp thức ăn lên mâm. Rượu rất ngon, uống lạnh. Thịt bò, thịt lợn, thịt cá chỉ nấu sơ, chưa chín hẳn. Họ thích ăn thịt có máu, chưa chín hẳn. Mỗi món chỉ có một ít, một đũa là hết. Tiếp tục dọn nhiều đĩa lớn, thường là rau sống thái nhỏ, các loại rau sống khác trộn với nước mắm cá ăn kèm. Dụng cụ nấu nướng bằng nồi đồng, gọi là "bản khẩu"本扣, vì vậy họ thường ăn nhiều rau để giải độc đồng. Họ không có xì dầu, dùng nước mắm cá thay thế, rất tanh. Ăn cơm xong, họ rửa tay bằng tay, không dùng khăn mặt. Người ta dâng trà Thuận Hóa (nơi có kinh đô, nay đổi tên là Phú Xuân), nơi sản xuất trà có thể giải độc đồ đồng, cũng có tác dụng giải nhiệt, vị rất đắng. Họ cuốn lá thuốc lá vào giấy, châm lửa hút, không dùng tẩu thuốc. Họ thường ăn trầu, răng đen nhiều. Vào những dịp vui vẻ, họ cũng diễn trò chơi và ca múa.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trình diễn tạp kỹ: tôi từng đi qua phủ Thường Tín常信府, thấy chủ quán trọ nuôi một nhóm trẻ em trai và gái đẹp, có thể biểu diễn tạp kỹ. Cùng với bạn đồng hành, tôi góp tiền hai quan tiền để mời họ biểu diễn. Các diễn viên tô mặt bằng son và mực, mặc áo ngắn tay bó sát, đi tất nhưng không đi giày. Họ nhảy múa, xoay tròn, biểu diễn điệu múa Thiên Ma天魔舞, vung tay đá chân, vỗ đùi vỗ ngực, theo nhịp tiếng chiêng. Sau đó, họ thay trang phục đơn giản, mặc áo gấm, đóng vai Thục Tiên Chủ 蜀先主 [Lưu Bị] chia tay Từ Nguyên Trực 徐元直 [Từ Thứ], hát giọng buồn bã, nức nở như sắp nghẹn thở. Người dẫn chương trình thỉnh thoảng thổi sáo, đàn hồ, đánh trống theo nhịp. Bỗng nhiên, bốn cô gái bước ra cùng lúc, eo thon, bước nhỏ, khoác tay nhau hát, vẻ đẹp vô cùng yêu kiều. Hát xong, họ quỳ gối lạy tạ.
Lại một lần ở Lạng Sơn諒山, tôi thấy một bà lão đánh Chủy Cầm嘴琴, (hình dạng giống như đàn Nguyệt Cầm月琴 thông thường, nhưng cán đàn rất dài, có bốn dây, tiếng đàn nhỏ, âm thanh vang xa). Hai người phụ nữ trang điểm lộng lẫy bước ra hát, hát đối đáp nhau khe khẽ, dư âm ai oán. Mỗi bài hát kết thúc, họ lại nói chuyện rì rào với nhau, không ai hiểu được. Họ còn có thể múa điệu Bà Vũ婆舞, tiến lùi nhẹ nhàng, xoay chuyển yểu điệu như muốn ngã. Mọi người ném tiền cho họ, họ liền đưa mắt liếc nhìn, mỉm cười rạng rỡ. Phong tục tập quán của người nơi đây cũng có một nét riêng biệt, nhiều người mời họ rót rượu. Một, hai người có thể hát những bài hát của Trung Quốc, càng được mọi người yêu thích.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thầy cúng, thầy thuốc, thầy bói, thầy số ở An Nam đều là người Trung Quốc. Khi thuyền buôn Trung Quốc đến, họ đều có đủ mặt. Thuyền buôn Trung Quốc tập trung nhiều nhất ở Gia Định嘉定 (tức là Đồng Nai), sau đó đến Quảng Nam廣南 (tức là Hội An), Bình Định平定 (tức là Tân Châu即新州), Phú Xuân富春 (tức là Thuận Hóa順化), Quảng Nghĩa廣義, Nam Định南定 (tục gọi là Bi Phóng碑放) [có lẽ là Hải Phòng?]. Số lượng hàng hóa mua bán, thuế thu được và tiền hối lộ mà quan lại nhận được đều phụ thuộc vào kích thước và số lượng thuyền. Thuyền buôn Trung Quốc đến vào mùa đông và trở về vào mùa hè. Tương truyền rằng:
"Chim công孔雀 di cư về phương Nam thì thuyền buôn Trung Quốc đến; chim Tô Hòa蘇和 [Tu Hú] hót thì thuyền buôn Trung Quốc trở về."
Tu Hú là tên một loài chim ở An Nam. Tương truyền rằng, ngày xưa có một người con trai tên là Tu Hú, vì mâu thuẫn với mẹ kế mà bỏ nhà đi đến An Nam và không bao giờ trở về. Năm sau, mẹ kế sai con trai riêng đi tìm Tu Hú. Khi đến An Nam, người con trai riêng không tìm được tin tức của Tu Hú nên không dám về nhà và chết vì bệnh. Sau khi chết, linh hồn hóa thành chim, bay khắp nơi gọi tên "Tu Hú". Khi thuyền buôn Trung Quốc chuẩn bị trở về, tiếng kêu của chim Tu Hú càng thảm thiết hơn, nên người ta gọi nó là chim Tu Hú. [nguyên tác viết là chim Tô Hòa蘇和, người dịch xin phép chuyển thành Tu Hú cho gần với tiếng Việt hơn]. Hiện nay, chim Tu Hú rất nhiều, tiếng kêu của nó nghe rất giống tiếng người gọi "Tu Hú".
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong vài năm gần đây, triều đình An Nam đã cấm xuất khẩu quế, đường thô và một số hàng hóa khác. Triều đình thu mua những hàng hóa này với giá quy định và giao cho thương nhân của hoàng gia bán. Đồng thời, triều đình cũng tăng thuế đối với thuyền buôn Trung Quốc. Do đó, số lượng thuyền buôn Trung Quốc đến An Nam ngày càng giảm, giảm từ một nửa đến hai phần ba. Người dân An Nam rất khổ sở vì điều này. Ngoài ra, còn có các tỉnh Hà Nội河內 (xưa gọi là Đông Kinh東京), Bình Thuận平順 (vùng đất cũ của Chiêm Thành占城, ranh giới có núi Hỏa Viêm火炎山, vào mùa hè, mặt đất ở đây nóng như lửa, ban ngày không thể đi lại được, nên không có người qua lại). Hàng hóa ở những tỉnh này đều được vận chuyển bằng thuyền nhỏ của địa phương. Hàng hóa Quảng Đông rất nhiều. Loại thuyền này được gọi là "thuyền Nha Tế 牙仔" (牙仔船). Thuyền lớn có thể chở hơn 200 tấn hàng. Theo Đài Loan quận chí台灣郡志載, vào năm Khang Hi康熙 thứ 56 [năm 1717], có một chiếc thuyền nhỏ gọi là đằng đinh 藤钉 [thuyền trát bằng dây mây và đóng đinh] bị gió thổi dạt đến Bành Hồ. Đây chính là loại thuyền Nha Tế 牙仔. Đáy thuyền được làm bằng tre đan lại, bên ngoài bôi dầu dừa, chỉ có phần trên thuyền được làm bằng gỗ. Các thuyền nhỏ khác cũng vậy. Cũng có loại thuyền có đáy bằng gỗ, các khe hở được chèn kín bằngdây mây, khi đổ nước vào, người ta dùng muỗng gỗ tát nước ra ngoài.
An Nam không sản xuất sắt, vì vậy các thuyền nhỏ đều không sử dụng đinh sắt. "Hải quốc văn kiến lục"海國聞見錄 nói về một loại thuyền không có mũi và đuôi, khi bị chìm nước, người ta đóng đinh và dây thừng nhỏ vào mạn thuyền và đáy thuyền, sau đó dùng hàng trăm chiếc thuyền khác kéo đi. Khi thuyền này mắc cạn, thuyền Tây dương rất sợ nhìn thấy kiểu thuyền này ở Quảng Nam. Có thể đây là loại thuyền Nha Tế 牙仔. Nhìn chung, người dân ven biển An Nam rất phụ thuộc vào việc buôn bán, họ rất thích buôn bán tấp nập và hàng hóa lưu thông. Nếu không, họ sẽ trở nên nghèo túng và không có việc làm.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Nông dân ở An Nam không bón phân cho ruộng đồng (nếu rau củ bị dính phân thì họ không dám ăn). Họ cũng không có guồng nước [nguyên văn: kết cao桔槔], thùng [gỗ hình tròn] [nguyên tác là mộc dũng木桶, thùng gỗ hình tròn này ít phổ biến ở nước ta] để lấy nước sinh hoạt, mà dùng chum gốm để lấy nước. Khi trời hạn, họ mặc kệ lúa chết. Lúa không phân biệt lúa mùa và lúa chiêm, thu hoạch xong thì gieo tiếp. [dịch thoát ý, nguyên văn là: đạo bất phân tảo vãn稻不分早晚, đạo nghĩa là Lúa gié, một thứ lúa ưa cấy ruộng có nước, một năm chín hai mùa. Nguyễn Du 阮攸: Sổ huề thuật đạo kê đồn ngoại 數畦秫稻雞豚外 (Nhiếp Khẩu đạo trung 灄口道中) Vài thửa lúa gié còn thêm gà lợn. Từ tảo vãn 早晚 có nghĩa là: sớm-muộn] Vùng cao trồng lúa nếp không dính [nguyên văn là Thử Tắc黍稷], lạc落花生 (có tên khác là thổ đậu土豆), ít trồng khoai lang地瓜, không trồng cao lương高粱, đậu豆, lúa mạch麥.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sản phẩm địa phương gồm vàng, ngọc trai, đồi mồi, san hô, kỳ nam, trầm hương, hương bó, quế, gỗ mun, gỗ Tô Mộc, hồ tiêu, dầu Tô Hợp, sừng Linh Dương, ngà voi, sừng tê giác, tê tê, đười ươi, khỉ đột, công, trĩ trắng, chim trả, trăn, cánh kiến, mít, đường mía, dầu dừa, dầu lạc, củ nâu, trầu cau, bông vải, vải thổ cẩm, gấm, lụa, tơ tằm, ốc xà cừ, v.v.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
An Nam phân thành 32 tỉnh: Phú Xuân 富春 (kinh đô nhà vua hiện đóng ở đó), Quảng Nam廣南, Quảng Ngãi廣義, Bình Định平定, Phú Yên富安, Cao Miên高綿 [thời Minh Mạng, Campuchia vẫn là thuộc sự cai trị của Vn], Khánh Hòa慶和, Bình Thuận平順, Biên Hòa邊和, Gia Định嘉定, Hà Tiên河仙, An Giang安江, Định Tường定祥, Vĩnh Long永隆, Quảng Trị廣治, Quảng Bình廣平, Nghệ An又安, Hà Tĩnh河靜, Thanh Hoa清華, Ninh Bình寧平, Nam Định南定, Hưng Yên興安, Hưng Hóa 興化, Sơn Tây山西, Tuyên Quang宣光, Hà Nội 河內, Hải Dương海陽, Thái Nguyên大原, Bắc Ninh北寧, Quảng Yên 廣安, Lạng Sơn 諒山, Cao Bằng高平. Đất nước trải dài hơn năm nghìn dặm từ bắc xuống nam, bề rộng không quá bốn mươi dặm, đều nằm dọc theo ven biển. Chỉ có hai tỉnh Hà Nội và Gia Định có diện tích rộng lớn, sản vật phong phú. Hà Nội giàu có về châu báu, đồ dùng quý giá, Gia Định dồi dào lúa gạo, ngũ cốc, đường, mật. Nếu không có hai tỉnh này, thì sản vật của Việt Nam cũng chỉ ngang bằng một tỉnh của Trung Quốc mà thôi. Vào sâu bên trong dãy núi ở phía tây nam, toàn là núi cao, rừng rậm, nối liền nhau hàng nghìn dặm, con người không thể đặt chân đến, e rằng cả Chương Hợi章亥 cũng không thể thám hiểm hết được [Chương Hợi là một nhân vật huyền thoại Trung Quốc, có tài đi rất nhanh].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Do gặp phải tai nạn bão tố, Đình Lan tôi trôi dạt đến vùng đất xa lạ. Tuy vốn tiếng nước Việt còn hạn chế, may mắn thay tôi gặp được nhiều đồng hương lưu vong nơi đây, nhờ đó có thể đi khắp nơi thu thập thông tin. Nhờ vậy, tôi càng thêm hiểu rõ sự ảnh hưởng sâu rộng của triều đình [nhà Nguyễn], khiến cho những vùng núi non hoang vu, biển đảo xa xôi cũng hướng về văn hiến, tạo nên cảnh tượng "trong ngoài một nhà". Nhờ ơn vua sáng [Minh Mạng], tôi được ban thưởng và có thể trở về quê hương. Quả là minh chứng cho sự bao dung và rộng lượng của bậc thánh hiền! Nay xin ghi chép lại những gì tôi được biết một cách tóm tắt.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hẹn các cụ vào buổi chiều nay, còn một vài lời thêm vào của tác giả...
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,309 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cụ dịch nốt đoạn về từ bên trung , hoặc cụ có link text tiếng trung không ạ
Đoạn về bên TQ em không dịch, vì nó ko liên quan đến Việt Nam. Chiều em.đưa link text.
 

poohsieunhan

Xe buýt
Biển số
OF-377474
Ngày cấp bằng
13/8/15
Số km
555
Động cơ
250,319 Mã lực
Nơi ở
Bạch Mai, Hà Nội
cụ có bản pdf em down về đọc cho dễ với ạ, thể loại này đúng loại em rất thích
 

Leean

Xe điện
Biển số
OF-192431
Ngày cấp bằng
3/5/13
Số km
2,072
Động cơ
490,786 Mã lực
Nơi ở
Sài Gòn
Đoạn về bên TQ em không dịch, vì nó ko liên quan đến Việt Nam. Chiều em.đưa link text.
Cổ văn cụ post toàn tiếng Trung Phồn Thể, em đọc mà đau cả mắt, vốn dĩ Giản thể em cũng biết, nhưng không nhiều và chưa đến tầm dịch sách như cụ, thật ngưỡng mộ cụ, trước giờ em rất phục những người hiểu về văn hoá TQ, nhất là về văn tự phồn thể, học giản thể cũng như học abc để viết đực ra chữ, nhớ các bộ thủ và các quy tắc biến thể, nhưng phồn thể thì còn cần kiến thức về cổ tự, chiết tự, văn hoá, điển tích nữa, vậy em mới hâm mộ những người am hiểu về Phồn Thể.
 

Garrard_1967

Xe buýt
Biển số
OF-844852
Ngày cấp bằng
11/12/23
Số km
541
Động cơ
33,811 Mã lực
Cụ đốc cho e mạn phép ngắt giữa chừng:
- Cụ có tài liệu (sách) này ở dạng pdf (online) không?
- Cụ hay cụ nào khác, có thể giải nghĩa giúp e, vì sao các cụ tiền nhân rất hay dùng (hoặc buộc phải dùng) “hiệu”. Vậy “hiệu” được hiểu như thế nào?
- Thời phong kiến, chúng ta chịu sự tác động mạnh mẽ của TQ, gần như cả chữ viết cũng theo TQ. Dần dần qua nhiều thế kỷ, trở thành gien sắp sẵn của người Việt. Nhưng từ khi chữ viết Việt Nam ra đời cho tới nay, cũng chỉ khoảng hơn 200 năm, mà đứa trẻ nào khi ra đời cũng mặc nhiên có gien hiểu tiếng Việt. ADN chỉ trong vòng 2-3 thế kỷ đã thay đổi lớn như vậy? Cụ có tài liệu khoa học nào liên quan về vấn đề này không, thưa cụ?
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top