Ngày 20 [ngày 5 tháng 4 năm 1836] quan Tuần phủ biết tôi buồn bã tịch liêu, bèn biên thư bảo rằng:
“Lạng Sơn là nơi biên giới, sau cơn binh hỏa (ba năm trước dân bản xứ làm loạn tại Lạng Sơn, Cao Bằng, mới bình định được từ năm ngoái) [chỉ cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân tại 3 tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Thái Nguyên từ năm 1833 đến năm1835] thành ấp hoang phế, chỉ mới sửa chữa một cách tạm bợ; núi sông, nhân vật không đáng đi thăm. Duy có một vài hang động có thể du ngoạn, ông nên thử đi xem.”
Bèn sai viên thư lại là Bát phẩm Đoàn Văn Trung 段文忠 (có thể nói tiếng Tuyền Châu 泉州) cùng các Phố trưởng Quảng Châu, Triều Châu, dẫn tôi đi du ngoạn. Từ phía đông thành, qua khe suối, thấy núi đá nhô lên sừng sững phía đông bắc gọi là núi Phi Lai 飛來山. Tương truyền khi Mã Viện 馬援 đến, định xây thành tại nơi này; chỗ xây đã định, thì đêm hôm đó một trái núi bỗng nhô lên. Mã tướng quân bèn cho dời thành sang phía nam khe, rồi bắn một mũi tên vào núi, nay trên núi vẫn còn vết hổng phảng phất mây bay qua. Cách khe khoảng 2 dặm, thấy một dãy núi đá, 4 ngọn liên tiếp tuần hoàn, đi tiếp 3,4 dặm thấy chất đá gắn kết nhuần nhuyễn. Trước núi có một động, tên gọi là Nhị Thanh 二青洞 (năm Kỷ Hợi Cảnh Hưng 景興 thứ 41 [1780] Trấn thủ Lạng Sơn Ngô Thời Nhiệm? 吳時任 [năm Cảnh Hưng 41 là năm Canh Tý chứ không phải là Kỷ Hợi, bấy giờ Ngô Thì Sĩ làm Đốc đồng Lạng Sơn, chứ không phải người con là Ngô Thì Nhậm] bắt đầu khai phá; trước đó có nét hằn trên đá giống 3 chữ “Nhị Na Thanh 二那青”, nhân đó đặt tên động là Nhị Thanh. Cửa động xây bằng gạch, có 3 cánh rộng, đi thêm hơn 20 bước thấy mái điện thiên nhiên, hình vuông khoảng 1 mẫu, bốn bề lỗ chỗ lấp lánh, sắc trơn như mỡ dê; bên trong đột xuất tòa đá nhô lên từ dưới nước như tòa sen mới nở, trên tòa đắp tượng Khổng Tử; hai bên vào giữa vách đột xuất tòa đá nhỏ, bên trái tạc tượng Thích Ca 釋迦, bên phải tạc tượng [Thái Thượng] Lão Quân 老君; gọi là Tam Giáo Đường 三教堂 (do Lê Hữu Dung 黎有容 soạn bài ký) [Lê Hữu Dung là quan nhà Lê, ông từng làm Sứ thần sang nhà Thanh vào năm Nhâm Tuất,1784]. Trên trần thạch nhũ rủ xuống tua tủa, hoặc giống hệt như chuông, hoặc như khánh, hoặc như tiểu tăng chấp tay tụng niệm. Động phía sau có tượng đức Thế Tôn 世尊, qua một con đường khấp khúc, đến một cái hang tối đen không thấy đường, sau cùng sang động Tam Thanh tại phía bắc núi.
Ra khỏi động đi một số bước, qua 1 cầu gỗ lớn, cầu nhỏ; lại gặp một động khác. Động phía dưới rộng, phía trên dáng cong như chuông, nền bằng 2 phiến đá lớn, có thể chứa vài chục người. Nước xung quanh trần nhỏ xuống lách tách; tỏa khí mát, cho dù khách đến vào tháng sáu cũng không cảm thấy nóng. Nhẩn nha ngắm cảnh, theo đường phía trước núi đi khoảng 2 dặm đến động Tam Thanh 三青洞 (khai tịch năm Cảnh Hưng 41 [1780]). Động lớn hơn Nhị Thanh gấp bội, nhưng kém phần u nhã; trong có tượng Chư Thiên Bồ Tát 諸天菩薩, ánh sáng từ chuỗi hạt ngọc trên cổ tỏa ra bốn phía. Thỉnh thoảng nước nhỏ giọt vào thạch nhũ, ngưng đọng tạo màu sắc kỳ lạ. Trước động đối diện là một ngọn núi cao đơn độc, gọi là hòn Vọng Phu 望夫山; tục truyền đây là nơi xưa Tô Nhược Lan 蘇若蘭 chờ Đậu Thao 竇滔, chuyện thực hoang đường! Bấy giờ trời gần trưa, chúng tôi theo đường cũ trở về. [Tôn Nhược Lan sinh vào khoảng Tần Mục Đế thứ nhất [357], văn hay, lấy chồng là Đậu Thao. Tương truyền Đậu Thao đi đánh giặc, Nhược Lan chờ chồng. Người TQ gán ghép vào truyện Hòn Vọng Phu, nên tác giả cho là hoang đường].
Sau giờ Ngọ đi qua phía tây thành, lại du lịch động Đại Thanh 大青洞 (không biết khai tịch từ thời nào, không có bia để khảo); đường núi dốc, phải vin vào cành lá, mỏm đá, quanh co mấy vòng mới leo tới bên trên. Khi gần nữa triền núi, cửa động rộng mở, đá lớn nhô lên như muốn rơi, trên vách đá khắc 4 chữ lớn “thạch Phật cổ tích” 石佛古跡 [dấu tích cũ Phật bằng đá]; thẳng người đi vào, cảnh trí rộng mở. Trong có một pho tượng bậc đại sĩ, quí tướng trang nghiêm, mặt mũi tay chân giống như thật, ngưng thần hướng thẳng, xem cõi trần như không, nội tâm hướng về cõi tĩnh tịch. Sau pho tượng mấy bước có hang thông lên đỉnh núi, hiểm trở chật hẹp khó đi. Trước pho tượng phía bên phải, có một hang tròn, đi khoảng hơn 10 bước, nhìn ngang thấy ánh sáng mặt trời. Người dẫn đường bảo rằng qua nơi này còn một động khác tối hơn; nhưng tiếc rằng mặt trời đã xuống thấp, chân cũng đã quá mỏi; nên đại khái chiêm ngưỡng kỳ quan dừng tại đây; quả thật là nơi tiên cảnh tại hải ngoại.