[Funland] Dịch sách cổ: Tường trình một chuyến du hành đến xứ Nam Hà [1778]

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Xin trân trọng giới thiệu đến các cụ bản dịch mới của em, cuốn Narrative of A Voyage to Cochinchina, 1778 của tác giả Charles Chapman, một công chức Anh tại Ấn Độ [thuộc Anh] khi ấy.
Mảng sách cổ khi có thời gian em vẫn dịch, phục vụ nhiều cụ đam-mê tìm hiểu, như em đã nói, em chỉ dịch những cuốn chưa có ai dịch.
Một cuốn sách ngắn, gần như một bản tường trình về công ty Đông Ấn Anh và chính quyền Anh ở Ấn Độ về triển vọng buôn bán với Đàng Trong, tình hình chính trị-xã hội Đàng Trong hay còn gọi là Nam Hà khi ấy.
Đen đủi cho phái đoàn Anh, họ đến đúng lúc nước ta đang nội chiến triền miên, sự khủng hoảng đến cao độ của các tập đoàn phong kiến Trịnh-Nguyễn, sự nổi dậy của Tây Sơn đứng đầu là Nguyễn Nhạc....
Điều thú vị là, tác giả đã gặp trực tiếp Nguyễn Ánh, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Phạm Ngô Cầu....dưới ngòi bút của ông, các nhân vật hiện lên khá nét, Nguyễn Nhạc rất đẹp, rồi vai trò Nguyễn Huệ khi đó khá nhạt bên cạnh anh mình.
-------------------------
Tác giả trình bày bằng một văn phong tiếng Anh cổ thế kỷ 16-18, nên khá khác so với tiếng Anh hiện đại, nên dù cố gắng, nhưng do trình-độ cực kỳ ngu dốt, hiểu biết nông cạn,năng lực kém cỏi, cũng xin gửi đến các cụ bản dịch này. Chắc-chắn bản dịch còn nhiều sai sót, xin được lượng thứ.
Cụ nào thích đọc sách giấy scan, em xin gửi link down.


Screenshot (103).png

Screenshot (104).png
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
LỜI NGƯỜI DỊCH

Cuối thế kỷ 18, các tập đoàn phong kiến Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài và Nguyễn ở Đàng Trong lâm vào cuộc suy tàn toàn diện, đại diện cho tầng lớp đó chính là những: Trịnh Sâm-Nguyễn Phúc Khoát-Nguyễn Phúc Thuần.

Cuộc nổi dậy của phong trào Tây Sơn, đứng đầu là Nguyễn Nhạc nổ ra, đã khiến tình hình đất nước thêm rối ren, Tây Sơn đã đánh bật triều đình chúa Nguyễn, tàn quân Nguyễn tụ tập tại Gia Định-Đồng Nai, từ đây, Nguyễn Ánh sai người đi khắp nơi cầu viện. Trước đó, quân Trịnh vượt sông Gianh, tấn công và làm chủ Thuận Hóa, chiếm Kinh đô Phú Xuân. Nguyễn Nhạc tạm hòa với quân Trịnh và làm chủ vài tỉnh.

Tháng 2 năm 1778, có hai người Việt cập bến Calcutta [Bengal, Ấn Độ]. Họ là cựu thần của chúa Nguyễn, đi nhờ tàu buôn phương Tây từ Đà Nẵng chạy vào Gia Định, nhưng vì gặp gió mạnh nên tàu bị chệch khỏi lộ trình ấy và buộc phải đi thẳng sang Ấn. Nhận thấy tiềm năng thương mại từ việc này, chính quyền thuộc địa Anh tại Bengal cử Charles Chapman đưa 2 viên quan này về nước, đồng thời thăm dò tình hình Đàng Trong hoặc gọi là Nam Hà. Tàu của họ đến đảo Hòn Khoai, ghé Gia Định-Đồng Nai rồi đến Quy Nhơn tháng 7 năm ấy, nơi Chapman gặp gỡ với vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc.

Cuộc sống nhân dân vốn đã khốn khổ, nay còn khổ gấp bội, ta thấy những người dân Việt Nam bị Mã Lai bắt làm nô lệ, đến khi được giải thoát họ “ngập ngừng không muốn tự do”; Hội An vốn là thương cảng sầm uất bao nhiêu, nay quân Tây Sơn cho phá tan tành.

Quân Bắc Hà [quân Lê-Trịnh] đóng ở Huế cũng không tử tế gì, cũng tham lam, dốt nát, hiếu chiến và có thói “nói một đằng làm một nẻo”

Dưới ngòi bút của tác giả, các nhân vật lịch sử hiện ra rõ hơn, do ông có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với họ, những Nguyễn Nhạc “dung mạo rất đẹp” rồi Trương Văn Đa, thái thử Nguyễn Bảo, viên tướng Phạm Ngô Cầu của quân Trịnh “một ông già 60 tuổi khoan thai” rồi viên quan thái giám của Trịnh Sâm “con quái vật ghê tởm”

Phái đoàn thương mại Anh đến Đàng Trong đúng lúc tình hình rối ren, nên không thu hoạch được gì nhiều, thậm chí xung đột với quân Trịnh tại Huế và phải bỏ chạy. Tuy nhiên, những ghi chép của Charles Chapman, với những điều mắt thất tai nghe, rất đáng để chúng ta đọc và suy ngẫ
m.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tác gi

Charles Chapman, sinh tại Bathwick, Somerset ngày 23 tháng 11 năm 1752 — Mất ngày 19 tháng 3 năm 1809. Công chức [servant] Anh tại Ấn Độ.

Ông là con trai của Charles Chapman, một sĩ quan đã nghỉ hưu của quân đội Công ty Đông Ấn (E.I.C.). Được giáo dục tại Học viện Hoxton.
Sự nghiệp tại Ấn Độ:
Từ năm 1773: Thư ký của E.I.C. tại Bombay.
Năm 1775: Chuyển đến Calcutta. Gần gũi với Warren Hastings [toàn quyền Anh tại Ấn Độ]
Năm 1778-79: Phái đoàn ngoại giao đến Nam Hà
Năm 1781-83: Phái đoàn đến Nagpur (Berar).
Năm 1794-1801: Quản lý một khu vực sản xuất muối.
Sự nghiệp chính trị:
Năm 1802-05: Nghị sĩ Quốc hội đại diện cho Newton, Isle of Wight.
Đời tư: Nghiện cờ bạc và mất hầu hết tài sản kiếm được ở Ấn Độ. Kết hôn năm 1784 với Mary Williams, có con.
Quan tâm đến văn hóa Ấn Độ: Nghiên cứu với Pandit Mahesha.
Hoạt động xã hội: Thành viên sáng lập của Hội Á châu (Asiatic Society).
Các tác phẩm:
Narrative of a Voyage to Cochin China in 1778, by Charles Chapman, with a Plan of His Route by Lieutenant J.S. Ewart. Also, Captain Michael Symes’s Narrative of His Emabssy to Ava in 1795.
[Tường thuật về một chuyến đi đến Nam Hà năm 1778, với Bản đồ Hành trình của ông bởi Trung úy J.S. Ewart. Cũng có Tường thuật về Phái bộ của Thuyền trưởng Michael Symes đến Ava năm 1795.) Được xuất bản năm 2007 (từ các giấy tờ của Warren Hastings].
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
LỜI GIỚI THIỆU CỦA ÔNG WARREN HASTINGS-TOÀN QUYỀN ẤN ĐỘ

Vào năm 1777-1778, thuyền trưởng của con tàu Rumbold, vốn thực hiện một chuyến hải hành đến Nam Hà đã báo cáo tích cực về vùng đất này như một thị trường tiềm năng cho hàng hóa châu Âu. Ông đã mang theo hai vị quan người Đàng Trong có địa vị cao, những người bị ngăn cản không thể trở về quê hương do thời tiết khắc nghiệt, và họ đã được người Anh ở Calcutta đối đãi một cách trọng thị. Do đó, ngài Hastings, khi đó là Toàn quyền Ấn Độ, đã cử ông Chapman đến Nam Hà nhằm mở ra một mối quan hệ thương mại với đất nước này. Ông Chapman trở về Bengal vào năm 1779, sau khi thất bại trong mục tiêu của sứ mệnh và thực tế đã bị buộc phải rời khỏi đất nước, phải thoát ra ngoài với nhiều khó khăn. Tuy nhiên, ông đã trình bày trước chính quyền Bengal một bản tường thuật chi tiết về các hoạt động của mình, kèm theo các ghi chép địa lý và lịch sử có giá trị.
Một bản tường thuật chi tiết về sứ mệnh của ông Chapman sẽ được tìm thấy trong các tài liệu sau đây. Biên bản sau đây của Toàn quyền Hastings giải thích lý do ông đề xuất sứ mệnh này:
"Một sự tình cờ đã đưa hai vị quan người Nam Hà đến vùng đất này, một người là thân thích gần gũi của vị Chúa [Nguyễn] đang trị vì [tức là Nguyễn Phúc Thuần], người còn lại là một quan chức cấp cao. Cả lòng nhân đạo lẫn chính sách ngoại giao đã thúc đẩy hội đồng dành cho họ mọi sự hỗ trợ cần thiết và đối đãi họ với sự tôn trọng nhằm để lại ấn tượng tốt đẹp về người dân mà họ đã gặp gỡ, đồng thời xoa dịu nỗi lo âu khi phải xa quê hương và gia đình. Mùa thích hợp để họ trở về quê nhà nay đã đến, và họ vô cùng nóng lòng muốn khởi hành. Vì vậy, tôi hoàn toàn không nghi ngờ rằng hội đồng sẽ đồng thuận với tôi về tính cấp thiết của việc cung cấp cho họ phương tiện trở về. Thật vậy, những quý ông trên con tàu đã đưa họ đến đây đã chuẩn bị một con tàu nhỏ và đề nghị đưa họ về nước. Đây là trách nhiệm của họ, và sẽ không cần làm gì thêm nếu họ không phải là những người có địa vị cao quý như vậy; nhưng tôi cho rằng cần phải dành sự quan tâm đặc biệt hơn cho thân thích của một vị chúa quan trọng như chúa Đàng Trong. Do đó, tôi đề xuất rằng con tàu Amazon Snow nên được chuẩn bị sẵn sàng để đón họ. Tôi có nhiều lý do để đưa ra đề xuất này — Thứ nhất, con tàu hiện đang không được sử dụng và có thể hoàn thành nhiệm vụ này trước tháng 12 — con tàu có thể đáp ứng nhu cầu của các vị quan — nó cũng có thể thực hiện một nhiệm vụ nhân đạo, đó là tìm kiếm một phần thủy thủ đoàn của tàu Earl of Temple, gồm 13 người mà tôi được biết vẫn đang bị mắc kẹt trên quần đảo Hoàng Sa [Paracel] đối diện với Nam Hà — con tàu cũng có thể thực hiện các cuộc khảo sát hoặc đảm nhiệm bất kỳ nhiệm vụ nào khác mà hội đồng cho là cần thiết. Quan chức người Pháp ở Chandernagore [một thị xã của quận Hugli thuộc bang Tây Bengal, Ấn Độ], nhận thức rõ tầm quan trọng của những người này, được cho là đã đề nghị cung cấp cho họ một con tàu để hồi hương..."
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Những lý do nêu trên, mặc dù tôi cho là đã đủ, nhưng không phải là những động cơ duy nhất khiến tôi đề xuất việc cử tàu Amazon. Chủ sở hữu con tàu đã đưa các vị quan Đàng Trong tới đây đã thông báo với tôi rằng họ được biết, từ chính các vị quan này cũng như từ nhiều nguồn khác, rằng có thể thu được những lợi ích to lớn từ việc thiết lập quan hệ thương mại với Nam Hà. Mong muốn tận dụng cơ hội thuận lợi này để xây dựng mối quan hệ thương mại với quốc gia đó, họ đề xuất gửi một con tàu cùng với hàng hóa, và khẩn thiết yêu cầu cử một đại diện chính thức từ chính quyền này cùng với các vị quan, nhằm đảm bảo an toàn cho tài sản của họ và tìm kiếm sự bảo trợ từ chính quyền Nam Hà đối với các hoạt động trong tương lai của họ.

Những lợi ích được mô tả bao gồm: mở rộng thị trường tiêu thụ cho các mặt hàng châu Âu như sắt, chì, đồng, dao kéo, đồ thủy tinh và vải dạ, cùng với nhiều sản phẩm thủ công từ Bengal, không chỉ tới người Đàng Trong mà đặc biệt là tới các thương thuyền Trung Hoa [junks]. Đồng thời, việc thiết lập quan hệ này cũng giúp thu về các mặt hàng quý giá như vàng, bạc, hạt tiêu, quế, nhục quế, ngà voi, trầm hương và nhiều loại hàng hóa giá trị khác, mang lại lợi ích to lớn cho vùng đất này. Trong tương lai, những lợi ích này cũng có thể hỗ trợ đáng kể cho việc đầu tư hàng hóa xuất khẩu sang châu Âu.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Công ty luôn chú trọng khuyến khích việc giao thương với các thương thuyền Trung Hoa. Đây cũng chính là mục tiêu của ông Dalrymple khi ông đề xuất việc thiết lập khu định cư tại Balambangan [đảo Balambangan là một hòn đảo ở Kudat Division, Sabah, Malaysia. Nó nằm ngoài khơi cực bắc của đảo Borneo và chỉ cách đảo Banggi khoảng 3 km về phía tây. Hiện nó là một phần của Công viên Hàng hải Tun Mustapha] và chính mục tiêu này đã thu hút Công ty chấp nhận khoản chi phí đáng kể mà họ đã đầu tư vào đó. Giờ đây, không có ý định nào buộc họ phải gánh thêm bất kỳ khoản chi phí nào khác, ngoại trừ một khoản nhỏ để duy trì một đại diện thường trú tại Nam Hà, một biện pháp mà chúng ta hy vọng có thể mang lại nhiều lợi ích giống như những gì đã kỳ vọng từ kế hoạch đáng tiếc trước đây.

Tôi được biết rằng có khoảng 70 đến 80 thương thuyền Trung Hoa thường xuyên lui tới cảng Đà Nẵng chỉ trong một mùa, và hoạt động thương mại này là nguồn hỗ trợ chính cho thành phố Macao. Việc quốc gia này sản xuất ra nhiều mặt hàng quý giá đã được đề cập ở trên là điều hiển nhiên, không chỉ dựa vào các tài liệu in ấn từ những du khách đã từng đến thăm vùng đất này, hay lời chứng thực của những nhân chứng sống đang có mặt tại Calcutta, mà còn từ những mẫu hàng hóa thực tế đang nằm trong tay của một số quý ông, những người sẵn sàng mạo hiểm tài sản của mình cho kế hoạch này.

Nam Hà sở hữu một vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi cho thương mại. Với một đường bờ biển trải dài, quốc gia này chỉ cách Quảng Châu năm ngày đường biển; đối diện là quần đảo Philippines; về phía đông nam là hòn đảo rộng lớn Borneo, quần đảo Molucca và Banda; còn về phía tây là Xiêm và Malacca. Nhiều cảng biển tuyệt vời của vùng đất này có thể trở thành nơi trú ẩn an toàn cho các tàu buôn Indiamen [tàu buôn Anh xuất xứ Ấn Độ] của chúng ta khi không may gặp bất trắc trong hành trình đến hoặc rời khỏi Trung Quốc, thay vì phải đối mặt với những vùng biển đầy bão tố, gây nguy hiểm lớn cho cả tàu lẫn hàng hóa.

Từ những chi tiết đã trình bày ở trên, tôi hoàn toàn tin tưởng rằng việc thiết lập mối quan hệ thân thiết với Đàng Trong sẽ mang lại lợi ích to lớn không chỉ cho vùng đất này mà còn cho cả quốc gia Anh. Việc thử nghiệm mối quan hệ này chỉ đòi hỏi một chi phí rất nhỏ, và có thể sẽ không bao giờ có một cơ hội nào thuận lợi hơn hiện tại. Sự xuất hiện của các vị quan Đàng Trong đã thu hút sự tò mò từ các quốc gia khác, và điều này dường như đã được minh chứng qua lời đề nghị từ viên chức người Pháp muốn đưa họ trở về nước.

Vì những lý do đó, tôi cho rằng đây là một hành động khôn ngoan và cần thiết để nắm bắt cơ hội hiện tại, và cố gắng xây dựng một liên minh thương mại với chính quyền Đàng Trong, nhằm đảm bảo cho người Anh những đặc quyền thương mại vượt trội hơn người Pháp và các quốc gia khác.

Với mục đích này, tôi đề xuất cử một đại diện chính thức đi cùng với các vị quan Nam Hà, nhằm điều tra tình hình thực tế của đất nước này, đánh giá các nguồn lực thương mại, và khám phá những mối liên kết có lợi cho Bengal. Ngoài ra, đại diện này cũng nên được trao quyền hạn đặc biệt, để trong trường hợp tình hình thực tế đáp ứng được những kỳ vọng đã được đặt ra và phù hợp với những báo cáo mà chúng ta đã nhận được, có thể ký kết một hiệp ước thương mại giữa chính quyền Bengal và chính quyền Nam Hà”.

(Ký tên) WARREN HASTINGS
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
70792841.jpg

Thư và mực, dấu ấn niêm phong của công ty Đông Ấn Anh​
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
LỜI GIỚI THIỆU CỦA TÁC GIẢ CHARLES CHAPMAN

Trước khi trình bày chi tiết về chuyến hải trình này, có lẽ sẽ không thừa khi đề cập đến những hoàn cảnh dẫn dắt tôi thực hiện nhiệm vụ này, những lý do được đưa ra để thúc đẩy nó, và những lợi ích được kỳ vọng từ sứ mệnh này. Sau khi nêu rõ những điểm chính, tôi sẽ tiếp tục với một bản tường thuật ngắn gọn và trung thực về những sự kiện mà tôi đã trải qua, từ khi đặt chân đến bờ biển Nam Hà cho đến khi rời khỏi nơi này, xen kẽ với một vài quan sát về đất nước, con người và sản vật của vùng đất này.

Vào tháng 2 năm 1778, hai vị quan Đàng Trong đã được đưa đến Calcutta trên một con tàu tư nhân mang tên Rumbold. Sự kiện độc đáo này đã làm dấy lên sự tò mò lớn trong toàn bộ cộng đồng ở đây. Việc này đã được báo cáo lên Toàn quyền bởi các ông Crofles và Killican. Những quý ông này, theo như tôi biết, hoặc là chủ sở hữu toàn bộ con tàu, hoặc có cổ phần trong đó, cũng thông báo rằng việc họ ghé thăm Bengal là một sự tình cờ, và sự tình này diễn ra như sau:

“Tàu Rumbold vốn có kế hoạch thực hiện một chuyến hành trình đến Trung Quốc, nhưng do những thông tin tích cực về Nam Hà, các chủ tàu đã chỉ thị cho thuyền trưởng ghé qua vùng bờ biển này trên đường về. Ông ta đã đến vịnh Đà Nẵng, và trong thời gian lưu lại đây, một vị tu sĩ Dòng Tên tên là Senhor Lorico đã đề nghị với ông một chuyến đi đến Bengal cho bản thân mình và hai vị quan Đàng Trong có địa vị cao, là thân thích với hoàng gia.

[tức là các chúa Nguyễn, Nam Hà bấy giờ dưới quyền cai trị của Nguyễn Phúc Thuần (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay Nguyễn Duệ Tông, Định Vương còn có tên khác là Nguyễn Phúc Hân, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Sau cái chết của phụ vương, Nguyễn Phúc Thuần được quyền thần Trương Phúc Loan lập làm Vương khi chỉ mới 12 tuổi, và người này sau đó thâu tóm hết chính quyền ở Nam Hà, và làm nhiều việc khiến triều đình Phú Xuân ngày càng lụn bại, suy yếu. Từ năm 1771, anh em Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa ở Tây Sơn, quân Nhà Nguyễn liên tục bị thua trận. Đến năm 1774, Chúa Trịnh ở miền Bắc nhân Nam Hà có loạn, xuất quân nam hạ, Chúa Nguyễn phải bỏ Phú Xuân, chạy về Gia Định. Sau khi quân Trịnh chiếm được Phú Xuân và rút đi, thì Nhà Nguyễn vẫn phải đối phó với quân Tây Sơn thế lực ngày càng phát triển, cộng thêm sự tranh chấp trong nội bộ giữa các tướng Nguyễn, khiến tình hình càng thêm nguy khốn. Cuối năm 1776, Nguyễn Phúc Thuần dưới sức ép của tướng mạnh là Lý Tài, phải nhường ngôi cho cháu là Đông cung Nguyễn Phúc Dương, bản thân tự xưng là Thái Thượng vương, nhưng vẫn còn nắm binh quyền trong tay, ngầm tranh chấp với phe Phúc Dương, hình thành cục diện 2 vương. Nửa cuối năm 1777, quân Tây Sơn truy kích vào nơi ở của các Chúa Nguyễn, hai vương Nhà Nguyễn đều bị bắt và xử tử]

Họ mong muốn được đổ bộ tại Đồng Nai, tỉnh cực nam của Đàng Trong, nơi mà nhà vua đã lui về trú ngụ do cuộc xâm lược của người Bắc Hà và các cuộc nổi loạn bùng phát ở nhiều tỉnh miền trung.

[Năm 1774, lợi dụng những biến cố ở Nam Hà, chúa Trịnh Sâm lại gọi Hoàng Ngũ Phúc ra cầm quân. Lúc đó ông đã 62 tuổi. Ba anh em Tây Sơn nổi dậy khởi nghĩa nhân lúc chính quyền họ Nguyễn lục đục rơi vào tay quyền thần Trương Phúc Loan. Khi thủ lĩnh Tây Sơn là Nguyễn Nhạc làm chủ được Nam Trung Bộ thì chúa Trịnh nhận thấy thời cơ tiêu diệt họ Nguyễn đã đến. Tháng 9 âm lịch năm 1774, Tĩnh Đô vương Trịnh Sâm cử Hoàng Ngũ Phúc làm Bình nam thượng tướng quân, Bùi Thế Đạt làm phó tướng, thống lĩnh tướng sĩ 33 doanh cùng quân thủy, quân bộ các đạo Thanh, Nghệ, vùng đông nam, tổng số quân gồm ba vạn. Quân Trịnh lấy danh nghĩa giúp Nguyễn đánh Tây Sơn để tiến quân.

Quân Trịnh tiến tới địa giới Bắc Bố Chính, tướng Nguyễn là Trần Giai chạy sang đầu hàng, làm hướng đạo cho quân Trịnh. Hoàng Ngũ Phúc mang quân vượt sông Gianh
]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thuyền trưởng, khi nghe nói rằng Senhor Lorico rất được người dân địa phương kính trọng và đã đối xử nhân đạo với các sĩ quan và thủy thủ của tàu Admiral Pocock khi con tàu này bị đẩy vào vịnh Đà Nẵng do thời tiết khắc nghiệt vào năm 1764, đã đồng ý với yêu cầu này.

Sau đó, con tàu nhanh chóng nhổ neo, với ý định đưa các vị quan đổ bộ tại Đồng Nai. Tuy nhiên, một dòng hải lưu mạnh kết hợp với những cơn gió dữ dội đã đẩy con tàu trôi xa về phía nam ngoài ý muốn, khiến họ không thể tiếp cận được địa điểm dự định. Cuối cùng, thuyền trưởng buộc phải đưa tất cả hành khách đến Bengal.

Sáng hôm sau, các vị quan Đàng Trong và tu sĩ Senhor Lorico được giới thiệu với Toàn quyền, người đã tiếp đón họ với sự ân cần và nhân ái, đồng thời trấn an họ bằng những lời bày tỏ thiện chí, giúp họ cảm thấy an tâm và tin tưởng vào những người mà họ đang tiếp xúc. Họ được cấp một ngôi nhà, người hầu, và mọi thứ cần thiết; họ được dẫn đi tham quan những địa điểm đáng chú ý nhất trong khu định cư, và được đối đãi một cách trọng thị, khiến quãng thời gian họ lưu lại đây trở thành một trải nghiệm vô cùng dễ chịu. Các vị quan Đàng Trong lưu lại Bengal đến giữa tháng Tư. Trong thời gian đó, các ông Croftes và Killican đã chuẩn bị một con tàu nhỏ có trọng tải khoảng 70 đến 80 tấn để đưa họ trở về nước.

Vài ngày trước khi đến thời điểm khởi hành, ông Croftes đã đề nghị tôi gợi ý với Toàn quyền rằng một món quà nhỏ từ phía ông ấy sẽ rất được các vị quan hoan nghênh. Tôi đã tận dụng cơ hội thuận tiện đầu tiên để làm điều này; và Toàn quyền không chỉ đồng ý với đề xuất đó, mà còn bày tỏ ý định gửi một món quà giá trị đến nhà vua của họ. Ông ấy cũng đề nghị tôi tham khảo ý kiến của ông Croftes và ông Killican về những món quà thích hợp, và lập một danh sách chi tiết trình lên ông ấy.

Trong lúc chúng tôi đang thảo luận về vấn đề này, cuộc trò chuyện của chúng tôi tự nhiên chuyển hướng sang Đàng Trong. Trong quá trình trao đổi, những quý ông này đã nhấn mạnh những lợi ích có thể mang lại cho Bengal và Công ty, nếu một mối quan hệ thương mại được thiết lập với quốc gia này. Họ liệt kê những mặt hàng quý giá mà Đàng Trong sản xuất, và bày tỏ hy vọng rằng cơ hội thuận lợi này không nên bị bỏ lỡ để xây dựng một mối liên kết với chính quyền Đàng Trong.

Với hy vọng có thể tự khẳng định mình, tôi đã bày tỏ rằng mình sẵn sàng đảm nhận chuyến đi này, nếu Hội đồng Tối cao cho rằng việc cử tôi đi với tư cách đại diện chính thức là phù hợp. Một số cuộc trò chuyện sau đó của tôi với những quý ông này, cùng với các tài liệu về quốc gia này mà họ chia sẻ với tôi, những thông tin do thuyền trưởng tàu Rumbold cung cấp, và sự đảm bảo từ các vị quan, đã củng cố quyết tâm của tôi trong việc nhận lãnh sứ mệnh này. Tôi đã trình bày đề xuất của mình với Toàn quyền và đề nghị ông ấy trao đổi thêm với các ông Croftes và Killican về vấn đề này. Những lời kiến nghị của họ với Toàn quyền và các thành viên khác trong Hội đồng Tối cao đã dẫn đến sự phê chuẩn của họ đối với kế hoạch này.

Tàu Amazon, một con tàu nhỏ thuộc sở hữu của Công ty, được lệnh chuẩn bị sẵn sàng để đón tiếp các vị quan Nam Hà. Những người đồng hành trong chuyến đi của tôi bao gồm:

1. Ông Bayard, một quý ông thuộc biên chế của Công ty,
2. Ông Totty, một bác sĩ phẫu thuật,

3. Thuyền trưởng Maclennan, chỉ huy tàu Amazon,

4. Thuyền trưởng Hutton, chỉ huy tàu Jenny.

Mục tiêu của việc tôi được bổ nhiệm là thiết lập một mối quan hệ thương mại giữa các khu định cư của Công ty tại Ấn Độ và Đàng Trong, đồng thời đạt được những đặc quyền và lợi ích cho tàu thuyền của chúng ta khi cập bến quốc gia này, tùy theo thiện chí của chính quyền sở tại. Những lợi ích kỳ vọng từ mối quan hệ này bao gồm:

1. Mở rộng việc xuất khẩu hàng hóa từ châu Âu và Ấn Độ sang Nam Hà.

2. Nhập khẩu các sản vật quý giá từ quốc gia này về.

Sau khi đã giải thích những động cơ thúc đẩy chuyến hải trình này, tôi sẽ tiếp tục với bản tường thuật chi tiết về các sự kiện xảy ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
PHẦN I. CHUYẾN ĐI ĐẾN NAM HÀ-GẶP GỠ VUA NAM HÀ [NGUYỄN ÁNH]-ĐẾN QUY NHƠN-GẶP GỠ VUA NGUYỄN NHẠC-RA HUẾ-XUNG ĐỘT VÀ PHẢI VỀ.

Tàu Amazon đã di chuyển xuống Budge-Budge [một thành phố và khu đô thị của quận South Twentyfour Parganas thuộc bang Tây Bengal, Ấn Độ], và tôi lên tàu vào ngày 16 tháng 4, cùng với vị quan lớn hơn và năm hoặc sáu tùy tùng của ông ấy. Vị quan còn lại, theo yêu cầu của ông ấy, đã lên con tàu nhỏ ban đầu được chuẩn bị cho cả hai người. Con tàu này khởi hành vài ngày trước chúng tôi và dự kiến sẽ gặp lại chúng tôi tại eo biển Malacca, từ đó sẽ đồng hành cùng chúng tôi trong phần còn lại của chuyến hành trình. Chúng tôi mang theo trên tàu một số mẫu hàng hóa từ châu Âu và Ấn Độ, để có thể đánh giá nhu cầu thực tế của thị trường mà chúng tôi đang hướng tới. Thời tiết xấu và sự thiếu hụt một chiếc thuyền phụ khiến chúng tôi không thể tiễn hoa tiêu của mình về sớm hơn; mãi đến ngày 29, chúng tôi mới có thể đưa ông ấy vào bờ tại Ballasore [còn gọi là Baleshwar, một thành phố và khu đô thị của quận Baleshwar thuộc bang Orissa, Ấn Độ]

Chính xác một tháng sau đó, chúng tôi thả neo tại Malacca và khởi hành từ đây vào ngày 2 tháng 6 để đến Tringano, một cảng của người Mã Lai ở phía bên kia bán đảo. Chúng tôi đến đó vào ngày 12 cùng tháng.

Tại đây, ông Hutton báo tin cho tôi về cái chết của vị quan Đàng Trong, hành khách trên tàu của ông ấy, người qua đời chỉ vài ngày sau khi rời Malacca. Sự kiện này khiến tôi vô cùng đau buồn, vì ông ấy là một người sáng suốt, điềm tĩnh, và cư xử rất chuẩn mực. Tôi đã đặt nhiều kỳ vọng vào sự hỗ trợ của ông ấy khi làm việc với những người đồng hương của ông. Tại Tringano, chúng tôi gặp 30 đến 40 người Đàng Trong, những người đã bị bão đẩy tàu của họ khỏi bờ biển quê hương và mắc cạn gần Tringano. Theo chính sách của người Mã Lai, họ đã trở thành nô lệ, và tài sản của họ bị tiểu vương chiếm giữ. Những người này cung cấp cho vị quan còn lại của chúng tôi một số thông tin về tình hình quê hương của ông ấy sau khi ông rời đi, nhưng rất mơ hồ và không làm ông hài lòng. Tôi đã cố gắng thương lượng để giải phóng một số người trong số họ, nhưng tôi khá ngạc nhiên trước sự lưỡng lự của họ khi chấp nhận tự do. Trong thời gian lưu lại đây, em trai của Quốc vương Tringano (vì Quốc vương đang vắng mặt) đã nói chuyện với tôi về việc Công ty thiết lập một thương điếm tại Tringano. Tôi nghe nói rằng đã có một lá thư được gửi tới Hội đồng Tối cao với đề xuất này. Thiện chí này phần lớn bắt nguồn từ nỗi lo sợ của Quốc vương trước một cuộc tấn công từ Quốc vương Rhio, cũng như mong muốn mở rộng lãnh thổ với sự hỗ trợ từ Công ty. Tuy nhiên, theo ý kiến của tôi, nếu cân nhắc việc thiết lập một thương điếm trên bán đảo Mã Lai, có thể tìm được một vị trí thích hợp hơn Tringano. Một số tháng trong năm, vùng này trở thành một bờ biển nguy hiểm và khó tiếp cận đối với tàu thuyền. Tôi không cho rằng việc thiết lập một thương điếm ở đây có thể mang lại lợi ích lâu dài cho chúng ta. Tại Tringano, mỗi năm họ mua khoảng 200 rương thuốc phiện, một số lượng nhỏ vải trắng, sắt, đồng, và một vài mặt hàng nhỏ khác. Đổi lại, họ cung cấp hạt tiêu, vàng và thiếc. Lưu ý rằng thiếc không phải là sản phẩm địa phương, mà được vận chuyển đến đây bằng thuyền buôn của người Mã Lai và Bugis [tức là Singapore ngày nay].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chúng tôi lưu lại Tringano lâu hơn một hoặc hai ngày để có thể tự trang bị một lượng lớn lương thực, vì chúng tôi dự kiến nguồn cung ở Đàng Trong sẽ khá khan hiếm. Vì vậy, mãi đến ngày 17 chúng tôi mới nhổ neo. Ngày 20, chúng tôi trông thấy đảo Pulo Ubi [quần đảo Hòn Khoai là tên một cụm đảo thuộc tỉnh Cà Mau, trong đó đảo chính là Hòn Khoai]. Hôm sau, chúng tôi thả neo gần hòn đảo này, và vào ngày kế tiếp, chúng tôi nhận thấy mình đang ở vĩ độ 8° 35' Bắc, gần bằng vĩ độ của mũi đất Campuchia, vì khi đó nó nằm về phía Tây của chúng tôi. Theo các nhà địa lý và hàng hải học của chúng tôi, mũi đất này được xác định cách xa hơn khoảng 10 hoặc 15 dặm về phía Bắc. Pulo Ubi là một hòn đảo nhỏ, có thể nhìn thấy từ khoảng cách rất xa, nằm chính xác ở cực đông của vịnh Xiêm La.

Mục đích của tôi khi chọn tuyến đường này là để chúng tôi có cơ hội khám phá bờ biển phía Nam của Campuchia, một vùng đất ít người biết đến; tiến vào nhánh phía Tây của con sông lớn phân chia đất nước này với Đàng Trong, nơi tôi hy vọng sẽ thu thập được những thông tin chắc chắn về tình hình đất nước đó; và có được một cuộc gặp gỡ với nhà vua [có lẽ là Nguyễn Ánh], người được cho là đang ở Đồng Nai, tỉnh cực Nam.

Chúng tôi chỉ mất hơn hai ngày một chút để đi từ Pulo Ubi đến sông Mekong. Mũi đất Campuchia, cũng như toàn bộ bờ biển từ đó đến cửa nhánh phía Tây của con sông, đều được bao phủ bởi cây cỏ thấp và cực kỳ bằng phẳng. Nước ở đây rất nông, đến nỗi cách bờ khoảng năm hoặc sáu dặm, chúng tôi hiếm khi đo được độ sâu quá 4 sải [nguyên văn là fathoms, đơn vị chiều dài bằng sáu feet (1,8 mét), chủ yếu được sử dụng để chỉ độ sâu của nước]. Dù thuyền trưởng của con tàu nhỏ đi cùng chúng tôi đã nhiều lần cố gắng, ông ta vẫn không thể đến gần bờ hơn hai hoặc ba dặm. Rất ít cư dân xuất hiện, và chỉ có hai chiếc thuyền gần cửa sông. Chúng tôi cử thuyền của mình đến nói chuyện với họ, nhưng vì họ là những ngư dân Trung Quốc nghèo khổ nên không thể hiểu được người phiên dịch tiếng Đàng Trong của chúng tôi.

Ngày 24 tháng 6, chúng tôi thả neo trong tầm nhìn của cửa kênh phía Tây sông Mekong, vào khoảng ba hoặc bốn giờ chiều, ở vùng nước chỉ sâu khoảng 3 sải, trong lúc thủy triều đang rút mạnh. Buổi tối hôm trước, thủy triều dâng đã được quan sát thấy cao tới hai sải rưỡi; do đó, chúng tôi chắc chắn phải cảnh giác với khả năng nước sẽ rút sâu tương tự. Viên sĩ quan đã báo cáo điều này với thuyền trưởng, nhưng ông ấy xem nhẹ cảnh báo. Đến 6 giờ tối, con tàu mắc cạn khi thủy triều rút hết, nhưng may mắn thay, tàu nằm trên bùn mềm nên tình hình không quá nguy hiểm.

Thuyền trưởng giương buồm ngay khi con tàu nổi lên trong đêm tối, không chắc chắn dòng nước mạnh sẽ đẩy tàu đi đâu. Tàu lại bị mắc cạn lần thứ hai; khi thủy triều dâng lên, con tàu được giải thoát, nhưng sau đó lại mắc cạn lần thứ ba. Ở đây, hoặc ở một nơi nào đó dọc bờ biển, tôi đã nghĩ rằng chúng tôi sẽ phải bỏ lại con tàu. Mũi tàu chỉ nằm trong vùng nước sâu một sải rưỡi, trong khi đuôi tàu đập mạnh xuống một bãi cát cứng như đá.

Chiếc thuyền với viên sĩ quan chỉ huy và hầu hết các thủy thủ châu Âu được cử đi dò nước. Trong thời gian họ vắng mặt, mực nước dâng lên hai sải một phần tư; tàu Amazon có mớn nước sâu 12 feet. Thủy triều đã dâng lên hết mức. Lo lắng cho chiếc thuyền của mình, chúng tôi phát tín hiệu liên tục yêu cầu họ quay lại. Khi họ trở về, báo cáo của viên sĩ quan thật không mấy khả quan: xung quanh toàn là bãi cạn.

Khi ấy, có dấu hiệu của một cơn giông mạnh sắp ập đến; người lính đo nước cảnh báo rằng mực nước chỉ nhỉnh hơn mớn nước con tàu vài inch. Và vì đây là đỉnh của một đợt triều cường, chúng tôi không còn hy vọng nào về việc nước sẽ dâng cao thêm nữa. May mắn thay, chúng tôi dần dần đi vào vùng nước sâu hơn, và cơn giông ập đến đã đẩy chúng tôi vào vùng nước sâu 5 sải, nơi chúng tôi nhanh chóng thả neo.

Sau sự mệt mỏi và lo lắng mà chúng tôi phải chịu đựng trong đêm trước, chúng tôi rất vui mừng khi dành ngày hôm sau, ngày 25, để nghỉ ngơi. Đến ngày 26, tôi lên tàu Jenny, con tàu đang neo cách xa tàu của chúng tôi, gần cửa sông. Thuyền trưởng thông báo rằng ông đã cử thuyền nhỏ vào sông để thu thập tin tức và đề nghị tôi cùng đi sâu vào trong để gặp nó. Không có ý kiến phản đối nào, chúng tôi nhổ neo.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngay khi rẽ vào khúc sông đầu tiên, chúng tôi nhìn thấy một con tàu đang neo đậu và một chiếc thuyền đang tiến về phía chúng tôi. Chúng tôi tiếp tục di chuyển trong luồng nước tốt, sâu từ ba đến bốn sải, cho đến khi thủy triều không cho phép tiến xa hơn. Qua viên sĩ quan đã đi trên chiếc thuyền đó, chúng tôi biết được rằng con tàu trong tầm mắt là một tàu Snow của Bồ Đào Nha đến từ Macao; có một con tàu khác ở thượng nguồn, tại một ngôi làng có tên là Bathai [Ba Thắc?]; và một con tàu nữa đã rời khỏi dòng sông khoảng bảy hoặc tám ngày trước.

Ông Moniz (một quý ông người Bồ Đào Nha, mà trước đó tôi đã đề cập là người đã tháp tùng viên quan đến Bengal) khi lên tàu Bồ Đào Nha đã thông báo cho tôi rằng ông nghe thuyền trưởng kể lại:

1. Phiến quân Ignaack [Nguyễn Nhạc, tức Tây Sơn] đã giành thắng lợi hoàn toàn ở Nam Hà.

2.Nhà vua [Nguyễn Phúc Thuần] đã chạy trốn đến đảo Pulo Condore [Côn Đảo], nhưng bị bắt và bị hành quyết tại đó.

3. Em trai [có lẽ là Nguyễn Phúc Dương] của nhà vua cũng rơi vào tay kẻ soán ngôi [Nguyễn Nhạc] và bị ép kết hôn với con gái của hắn.

Sau này, tôi phát hiện ra rằng người em trai đó là con trai cả của nhà vua quá cố. Tuy nhiên, Quick Foe [Trương Phúc Loan], vị Tể tướng, người nắm quyền lực tuyệt đối trong những năm cuối triều đại, đã gả con gái mình cho hoàng tử thứ hai và dàn xếp, sau khi vua cha qua đời, để đưa con rể của mình lên ngai vàng. Chính sách không được lòng dân của vị Tể tướng này, đặc biệt là việc áp đặt thuế thân lên tất cả người dân bản địa, bất kể tuổi tác, giới tính hay địa vị, là nguyên nhân dẫn đến những bất ổn bùng phát trong các tỉnh nội địa. Điều này đã tạo cái cớ cho người Bắc Hà xâm lược đất nước. Khi quân đội Đàng Ngoài tiến vào các tỉnh phía Bắc, họ tuyên bố rằng mục tiêu duy nhất của họ là loại bỏ vị Tể tướng, người đã đẩy đất nước vào một cuộc nội chiến. Họ hứa rằng, nếu ông ta bị giao nộp, họ sẽ hỗ trợ nhà vua dẹp tan mọi kẻ thù khác.

Nhà vua trẻ tuổi, bị kích động bởi những kẻ thù của Tể tướng, đã mù quáng sa vào cái bẫy này, và hành động của ông chẳng khác nào bầy cừu nộp chó săn của mình cho lũ sói. Mặc dù là một kẻ xấu xa, nhưng Trương Phúc Loan được công nhận là một người tài giỏi, và với những người hiểu biết, ông ta được xem là người duy nhất có khả năng chống lại những hiểm nguy đang đe dọa nhà vua từ mọi phía. Nhận ra điều này, ngay khi chiếm được ông ta, người Đàng Ngoài đã đối xử với ông với sự tôn trọng tối đa và tận dụng kiến thức của ông để chiếm lấy đất nước. Họ lập tức bao vây Huế, kinh đô, và chiếm được thành phố này. Nhà vua bỏ trốn đến Đồng Nai, rồi từ đó đến đảo Pulo Condore, nơi ông bị bắt và bị xử tử. Tể tướng bị đưa về Đàng Ngoài, nơi ông được cho hưởng một cuộc sống an nhàn danh dự. [thực tế thì Phúc Loan đã chết trên đường giải ra Thăng Long]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ngày hôm sau, tôi trở lại tàu Amazon để chuẩn bị một số vật dụng cần thiết cho chuyến đi lên Ba Thắc trên tàu Jenny, và yêu cầu Thuyền trưởng Hutton đợi tôi ở nơi ông ấy đang đứng. Sáng sớm hôm sau, tôi xuất phát, có sự đồng hành của ông Bayard và ông Totty: khi đến gần sông, tôi nhận thấy tàu Jenny đang rời đi cùng với tàu Bồ Đào Nha Snow. Bày tỏ sự ngạc nhiên của mình về việc này, tôi được biết rằng Thuyền trưởng Hutton đã nhận được tin tức rằng một số người ông ấy đã để lại ở Đà Nẵng vào năm trước đã bị Ignaack [quân Tây Sơn] xử án tử, và rằng 20 hoặc 30 chiếc thuyền chiến của ông ta đang tuần tra ở một nhánh sông, cách Ba Thắc hai ngày đi tàu. Không biết rõ lực lượng của các thuyền chiến này, và có lý do chính đáng để nghi ngờ thái độ thù địch của chúng đối với chúng ta, đặc biệt nếu chúng biết rằng trên tàu có một người họ hàng của Vua mới qua đời, và tàu Amazon bị cho là quá nặng và thiết kế quá sắc nhọn để có thể vào sông, tôi nghĩ rằng việc từ bỏ kế hoạch đi đến Ba Thắc là quyết định sáng suốt nhất. Tuy nhiên, khi biết rằng vẫn còn một nhóm người của Vua đang chống lại Tây Sơn ở Đồng Nai, chúng tôi quyết định tiến về đó để đặt vị quan và người của ông ấy vào tay những người bạn của họ. Thuyền trưởng Hutton, sau khi nhận được những chỉ dẫn mà người Bồ Đào Nha có thể cung cấp về tuyến đường (vì không có người lái tàu), sẽ dẫn đầu, và chúng tôi sẽ theo sau. Sau khi các điểm này được điều chỉnh, tôi quay lại tàu của mình, và sáng hôm sau, chúng tôi lên đường.

Ngày mùng một tháng Bảy, chúng tôi thả neo dưới một mũi đất, được cho là mũi St. James [tức là Vũng Tàu], cách cửa sông phía Tây của sông Mekong khoảng một độ rưỡi. Đây là vùng đất cao đầu tiên trên lục địa mà chúng tôi gặp. Tại đây, chúng tôi lại rơi vào thế bí, không ai có thể chỉ ra con đường đến Đồng Nai: vị quan và người của ông ta, chưa từng đến đó, không thể cung cấp cho chúng tôi bất kỳ thông tin nào. Bực bội vì sự thất vọng này, tôi quyết định tự mình lên bờ bằng thuyền nhỏ của chúng tôi, và cố gắng tìm hiểu thông tin. Ông Bayard và sĩ quan thứ hai đi cùng tôi: Tôi mang theo hai người hầu của vị quan làm phiên dịch. Khi chúng tôi đến bãi biển, tôi cử người phiên dịch lên bờ, giữ tất cả những người còn lại ở trên thuyền; một lúc sau họ quay lại, dẫn theo hai hoặc ba người trông hết sức thảm hại mà tôi từng thấy, gần như sắp chết vì đói và bệnh tật. Người phiên dịch nói với chúng tôi rằng chúng tôi có thể lên bờ an toàn, và chúng tôi đã làm vậy. Những người khốn khổ này cho tôi biết rằng họ thuộc về một ngôi làng gần đó, nơi còn khoảng 50 người nữa, trong tình trạng tương tự như họ; rằng một hạm đội của Tây Sơn trên đường đến Đồng Nai, nơi mà nó đang phong tỏa, đã ghé thăm họ hai tháng trước, và cướp bóc những gì ít ỏi còn sót lại sau một nạn đói kinh hoàng, được cho là đã cướp đi hơn một nửa tổng số cư dân của Đàng Trong vào năm trước; và rằng họ không có gì để ăn ngoài một loại củ bị sóng biển đánh dạt vào bờ, khiến cơ thể họ nổi mẩn khắp người; nó có hình dạng hơi giống khoai lang, nhưng dài hơn. Giờ đây tôi không còn khó hiểu về sự thờ ơ mà những kẻ khốn khổ tôi thấy ở Tringano (Terengganu) thể hiện đối với lời đề nghị giúp họ được tự do của tôi; họ không có đủ lòng yêu nước để thích tự do với một chế độ ăn kham khổ như vậy ở quê nhà, hơn là cảnh nô lệ với một cái bụng no ở xứ người. Ở Đàng Trong không có chế độ nô lệ. Khi nhận thấy cửa của hai hoặc ba con sông ở phía Tây Bắc và hỏi tên của chúng, họ nói với tôi một trong số chúng dẫn đến Đồng Nai. Vài người khốn khổ nữa đang tụ tập quanh tôi: đau khổ trước cảnh tượng khốn cùng này mà tôi không thể giúp đỡ, tôi vội vàng trở lại thuyền, và mang theo một ông già, người có vẻ thông minh nhất, để thông báo cho vị quan của chúng tôi tất cả những gì ông ta biết, và để chúng tôi có thể quyết định những việc cần làm tiếp theo.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sau một bữa ăn thịnh soạn đã làm phấn chấn tinh thần ông lão, ông ta đã có một cuộc trò chuyện dài với người đồng hương của mình; kết quả là, một ngôi làng tên là Huttien [Hà Tiên], cách nơi chúng tôi đang ở vài giờ đi thuyền, đã chống lại các cuộc tấn công của hạm đội Tây Sơn, vị quan mong muốn đến đó, hy vọng có được một số thông tin thỏa đáng về bạn bè của mình: chúng tôi hướng đến đó, ông lão đóng vai trò là hoa tiêu; sáng hôm sau, chúng tôi thả neo đối diện với nó. Một số thuyền đánh cá lảng vảng quanh tàu, nhưng giữ khoảng cách cho đến khi hai người hầu của vị quan được cử đến chỗ họ bằng một chiếc thuyền nhỏ; sau đó họ đến, khoảng 14 hoặc 15 chiếc. Vị quan của chúng tôi gửi một tin nhắn đến tộc trưởng của ngôi làng thông qua họ. Những người trên những chiếc thuyền này là những người đàn ông vạm vỡ, và không có vẻ gì là thiếu thốn. Mỗi chiếc thuyền đều được trang bị đầy đủ cung tên, kiếm và giáo. Vào buổi chiều, vị quan của ngôi làng gửi lời hỏi thăm đến vị quan của chúng tôi, cùng với một món quà là trầu cau và xin lỗi vì không đích thân đến thăm, vì ông đang bị bệnh nặng. Vị quan của chúng tôi rất hài lòng, đến nỗi ông quyết định lên bờ vào sáng hôm sau, tôi và những quý ông khác hứa sẽ đi cùng ông. Sau khi báo cho vị quan của ngôi làng biết ý định của chúng tôi, sáng sớm một số thuyền từ bờ đã đến để đưa chúng tôi đến chỗ đổ bộ. Những người hầu của vị quan, những người đã lên bờ vào tối hôm trước và ở lại cả đêm, đi cùng họ và kể cho chủ nhân của họ nghe những điều tốt đẹp về cư dân. Họ cũng mang theo một người từng phục vụ như một người lính dưới quyền chỉ huy của vị quan. Anh ta dường như rất vui mừng khi nhận ra chủ cũ của mình. Sau bữa sáng, chúng tôi lên đường, người lính ngồi dưới chân vị quan; và trong suốt hành trình của chúng tôi về phía bờ, anh ta kể cho chủ nhân của mình nghe chi tiết về những thành công của quân Tây Sơn, cái chết của nhà vua, và cách người dân của khu vực này đã đẩy lùi hạm đội nổi dậy. Anh ta cho ông biết, em trai của nhà vua [Nguyễn Phúc Dương], người mà họ gọi là Antoine, không hài lòng với vợ mình và sự kiềm chế mà ông ta phải chịu, đã tìm cách trốn thoát khỏi Tây Sơn, và đã cầm vũ khí với một lực lượng đáng kể tiến vào Benthoan [Biên Hòa]. Tuy nhiên, trước khi thuyền đến bờ, vị quan của chúng tôi đã bị một cơn hoảng loạn, mà tôi không bao giờ có thể biết được nguyên nhân thực sự, và yêu cầu tôi quay đầu và trở lại tàu. Không thể hiểu được động cơ của ông ta, những người hầu của chính ông ta đảm bảo với tôi rằng không có gì phải lo lắng, chúng tôi tiếp tục hành trình cho đến khi thuyền nhỏ đến vùng nước nông và không thể đi tiếp được nữa. Tại đây, chúng tôi đang chuẩn bị lên một chiếc thuyền địa phương, thì vị quan nắm lấy quần áo của tôi, tha thiết cầu xin tôi dừng lại, kêu lên:

- Tyson! Tyson! [Tây Sơn! Tây Sơn!]

Đó là tên mà những người ủng hộ Tây Sơn sử dụng trong vùng. Ông Moniz nhìn thấy điều này, đề nghị lên bờ để tìm hiểu xem những người đó thực sự là ai; ông Bayard đi cùng ông. Họ nhanh chóng quay lại, cùng với vị quan chính của ngôi làng. Ông ta lên thuyền của chúng tôi và mời chúng tôi lên bờ; người lính đề nghị ở lại làm con tin, và chịu mất đầu nếu có bất kỳ điều gì xấu xảy ra với ông ta. Tất cả đều không đủ để xua tan nỗi sợ hãi của ông; ông vẫn kêu lên, lớn hơn bao giờ hết, để quay trở lại. Nhận thấy sự nhút nhát của ông không thể khắc phục được, tôi yêu cầu vị quan của ngôi làng đi cùng chúng tôi đến xem tàu của chúng tôi; ông ta không ngần ngại. Sau khi ở trên tàu một thời gian ngắn, ông ta phàn nàn rằng mình rất mệt; vì vậy tôi đã cho ông ta về, trước tiên là tặng ông ta một món quà nhỏ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sau đó, chúng tôi rời làng Huttien, và tiếp tục hành trình dọc bờ biển trong sáu hoặc bảy ngày, và thả neo tại một làng chài gần Pulo Cambir de Terre [một làng chài vùng duyên hải Sông Cầu gần đảo Cù lao Xanh], để tìm nước và các nhu yếu phẩm khác; nhưng vì nước rất lợ, một trong những ngư dân của chúng tôi đề nghị dẫn đường cho chúng tôi đến Quinion [Quy Nhơn], nơi có thể kiếm được nhiều nước ngọt và lương thực tươi sống, và chúng tôi đã tiến về đó. Ngay khi vị quan của chúng tôi biết rằng chúng tôi định ghé vào Quy Nhơn, ông ta lao ra khỏi cabin một cách hết sức hoảng loạn; và quỳ xuống dưới chân tôi, khi ông ta thông báo cho tôi rằng Quy Nhơn là tỉnh mà Tây Sơn đóng đô, và rằng bến cảng của nó, nơi chúng tôi đang đến, là điểm tập kết của hạm đội của ông ta. Tuy nhiên, điều đó không ngăn cản tôi tiếp tục, vì tôi biết rằng phần lớn lực lượng của Tây Sơn ở phía nam. Chúng tôi tiếp tục hành trình, và ngày 13 tháng 7, chúng tôi thả neo trong Vịnh. Bờ biển, ở nhiều nơi được canh tác rất kỹ lưỡng, giờ đây có một vẻ ngoài vô cùng đẹp mắt; vùng đất thấp được trồng lúa, và những ngọn đồi được trồng tiêu lên đến tận đỉnh. Tại đây, chúng tôi tìm thấy 2 chiếc tàu Snow của Bồ Đào Nha; và thuyền trưởng của một trong số chúng lên tàu một chút trước khi chúng tôi thả neo, tôi được biết từ ông ta rằng chúng tôi không có gì phải sợ; ngược lại, chính Tây Sơn đã vô cùng lo lắng trước sự xuất hiện của chúng tôi, và sẽ rất hài lòng khi biết rằng chúng tôi không có ý định thù địch chống lại ông ta, điều mà ông ta đang lo sợ, từ những gì đã xảy ra vào năm ngoái tại Đà Nẵng. Tranh chấp này phát sinh từ việc quân nổi dậy tấn công và chiếm giữ một chiếc thuyền, chở đồ quân sự từ một tàu Anh đến phe hoàng gia [phe chúa Nguyễn]. Phe nhà vua đã nhận một thất bại nặng nề trong khi con tàu neo đậu trong bến cảng, các quan lại đã trốn lên tàu để được bảo vệ, và thuyết phục thuyền trưởng đảm nhận việc chở họ đến Đồng Nai, bằng cách hứa sẽ bồi thường cho ông ta về thiệt hại khi đến đó. Việc họ đã thất vọng và bị đưa đến Bengal như thế nào, tôi đã kể trước đây. Ngay sau khi chúng tôi thả neo, tôi đã cử một chàng trai trẻ, người phục vụ tôi như một người viết thư, lên bờ, với lời hỏi thăm của tôi đến vị quan phụ trách pháo đài, để thông báo cho ông ta rằng con tàu thuộc về chính phủ Anh ở Bengal, và công việc của chúng tôi ở Nam Hà là thiết lập một mối quan hệ hữu nghị và thương mại giữa hai nước. Vào buổi tối, anh ta trở về với một câu trả lời rất lịch sự từ vị quan, nói rằng ông ta sẽ ngay lập tức gửi thông báo về sự xuất hiện của chúng tôi cho Nhà vua (Nguyễn Nhạc), và trong thời gian chờ đợi, chúng tôi được chào đón để tự cung cấp nước và tất cả các nhu yếu phẩm khác mà nơi này cung cấp. Ngày hôm sau, chính vị quan đã lên tàu, và mang cho tôi một món quà là một con lợn. Kể từ đó, ông ta đến thăm tôi hàng ngày trong suốt thời gian chúng tôi ở lại. Ông ta là một người vui vẻ, khoảng 50 đến 60 tuổi. Theo yêu cầu của ông ta, tôi đã cử người viết thư của tôi lên bờ để đi cùng ông ta đến chỗ em trai của Nhà vua [Nguyễn Huệ], người sống gần đó, người mà tôi đã gửi một món quà là một mảnh vải muslin [một loại vải mỏng, nhẹ và thoáng khí, thường được làm từ sợi bông tự nhiên, chủ yếu là từ bông cotton], hai mảnh vải chintz [vải Chintz là loại vải cotton hoặc vải có nguồn gốc từ cotton, thường được phủ một lớp hoàn thiện bóng (glazed finish) để tạo vẻ ngoài sáng bóng, mịn màng. Vải chintz thường có hoa văn in họa tiết màu sắc rực rỡ như hoa lá, chim chóc hoặc họa tiết cổ điển] và một vài chai rượu. Khi trở về, anh ta cho tôi biết rằng anh ta đã được tiếp đón ân cần, và đảm bảo với tôi rằng nhà vua vô cùng thiện cảm với người Anh, và sẽ không quên đối đãi với tôi bằng sự tôn trọng cao nhất; và rằng con rể của nhà vua, người là Tể tướng [có lẽ là Trương Văn Đa], sẽ xuống gặp tôi trong vài ngày.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ông ta đến vào ngày 16, và sáng hôm sau, sau khi nhận được lời mời, tôi đã lên bờ để đến thăm ông ta. Chúng tôi được vị quan của cảng đón trên bãi biển, người đã dẫn chúng tôi đến một túp lều tranh lớn, mà ông ta nói với tôi là nhà của ông ta, nơi Thái tử [Thái tử Nguyễn Bảo, con trai vua Thái Đức Nguyễn Nhạc] đang đợi để tiếp chúng tôi. Ở mỗi bên lối vào là 12 lính canh của ông ta, mặc đồ lanh màu xanh lam, và một loại mũ trụ trên đầu, được làm bằng da hoặc giấy, sơn mài, và được trang trí bằng hoa văn và họa tiết bằng thiếc, như là chuôi và vỏ kiếm của họ, vì vậy họ tạo nên một vẻ ngoài chỉnh tề nếu không phải là oai nghiêm. Khi chúng tôi bước vào, chúng tôi thấy một chàng trai trẻ với vẻ ngoài dễ chịu, ngồi khoanh chân trên một chiếc bàn thấp. Anh ta đứng dậy khi chúng tôi đến gần, và chỉ vào một vài chiếc ghế được đặt ở hai bên cạnh anh ta để chúng tôi ngồi. Sau một vài câu hỏi thông thường từ phía anh ta, như: - Chúng tôi từ đâu đến? - Điều gì đã đưa chúng tôi đến Đàng Trong? - Chúng tôi đã đi bao lâu? v.v.,

Tôi đã nói với anh ta rằng tôi là người phục vụ của Chính phủ Anh ở Bengal, nơi mà con tàu tôi đến thuộc về; rằng công việc của tôi ở Nam Hà là thiết lập một mối quan hệ hữu nghị và thương mại giữa hai nước, điều mà tôi tin chắc sẽ mang lại lợi ích cho cả hai. Sau đó, tôi muốn biết, liệu anh ta có được ủy quyền để thông báo cho tôi về những điều kiện mà việc buôn bán đó có thể được thực hiện đến các cảng thuộc quyền sở hữu của họ hay không? Thay vì trả lời tôi, anh ta muốn biết tôi đã mang theo những món quà gì cho Nhà vua, và liệu tôi có ý định đến triều kiến hay không? Tôi nói với anh ta, tôi sẽ đi, nếu Nhà vua gửi cho tôi một lời mời, và mang theo những món quà mà tôi hy vọng sẽ được chấp nhận. Tôi đã tặng anh ta một cặp súng lục gọn gàng, và một vài mảnh vải, v.v. Giờ đây tôi không thể khiến anh ta nói về bất cứ điều gì ngoài quà tặng. Trước khi chúng tôi chia tay, tôi đã xin anh ta cho sử dụng một túp lều tranh gần chỗ lấy nước; anh ta nói với tôi rằng anh ta không được ủy quyền để cho phép điều đó. Sau đó, anh ta thông báo cho tôi rằng anh ta sẽ trở về triều đình vào ngày hôm sau, và mời tôi đi cùng anh ta. Tôi xin phép được từ chối, vì tôi muốn, trước khi tôi lên đường, nhận được một lời mời từ Nhà vua. Anh ta có vẻ hơi buồn vì điều này, sợ rằng tôi nghi ngờ anh ta không có thẩm quyền mời tôi. Tôi nhận xét rằng việc anh ta từ chối một thứ tầm thường như một túp lều để ở, mà tôi đã đề nghị trả tiền, gần như đủ để nghi ngờ điều đó. Ngay sau đó tôi cáo từ, khi anh ta đảm bảo với tôi rằng anh ta sẽ yêu cầu cha mình gửi cho tôi một lời mời ngay lập tức; và về một ngôi nhà, tôi có thể chọn bất kỳ ngôi nhà nào tôi thích ở nơi đó. Ba ngày sau, tôi nhận được một lời mời chính thức bằng văn bản và giấy thông hành từ vua Nguyễn Nhạc; nó được mang đến tàu với nghi lễ long trọng bởi một số quan lại. Họ yêu cầu phải kéo cờ lên nhân dịp này, giương ô để mở nó ra, và tôi phải đứng dậy để nhận nó; tất cả những yêu cầu này đều được tuân theo, nó đã được mở ra, đọc, và trao cho tôi. Các quan lại đã không quên ám chỉ với tôi rằng những người mang dấu hiệu đặc biệt này của ân huệ hoàng gia sẽ vô cùng hạnh phúc khi nhận được một dấu hiệu cảm ơn cho sự vất vả của họ. Sau khi chiêu đãi họ bằng món tráng miệng gồm rượu và bánh kẹo, tôi đã cho họ về hài lòng, trước tiên là thu xếp với vị quan cảng để ở trên bờ vào tối hôm sau, ngủ tại nhà ông ta, và khởi hành vào sáng hôm sau đến nơi ở của hoàng gia. Ông ta đã thuê một chiếc kiệu cho tôi, ngựa cho hai quý ông và người viết thư của tôi, những người sẽ tham gia cùng đoàn, và phu khuân vác để mang quà của Nhà vua và những vật dụng cần thiết của chúng tôi.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Khi lời mời của ông được xướng lên cho tôi, tôi rất ngạc nhiên khi thấy rằng Bệ hạ [Nguyễn Nhạc] lại cho rằng mình có nghĩa vụ phải giải thích cho tôi về việc ông ta đã nắm giữ các tước vị hiện tại như thế nào. Nó bắt đầu bằng cách trình bày:

“Rằng vị vua quá cố của Đàng Trong và các quan đại thần của ông ta, do sự áp bức của họ, đã khiến người dân chết đói, Trời đã hài lòng biến ông [Nguyễn Nhạc] thành công cụ giải thoát họ, và đưa ông lên ngai vàng,” v.v.

Vị quan [của chúa Nguyễn] đáng thương bất hạnh của chúng tôi, người hiện đang ở trên tàu bí mật, và để che giấu thân phận tốt hơn, đã phải mặc trang phục kiểu Anh, cạo râu, làm sạch răng, và điều khiến ông đau khổ nhất là móng tay bị cắt ngắn ba hoặc bốn inch, muốn xem tờ giấy, đã nói với tôi, với nước mắt ròng ròng, rằng con dấu được đóng là con dấu cổ của các vị vua của Nam Hà, mà kẻ chiếm đoạt gian ác đã đánh cắp; rằng những lý do ông ta [Nguyễn Nhạc] đưa ra để chiếm đoạt triều đình là sai sự thật; và rằng chính một mình ông ta là tác giả duy nhất của những tai họa mà đất nước ông ta đã và vẫn đang trải qua. Ông cầu xin tôi đừng phó mặc bản thân cho quyền lực của ông ta [Nguyễn Nhạc], vì tôi sẽ không bao giờ trở lại.

Theo thỏa thuận của tôi với vị quan, chúng tôi đã lên bờ vào tối ngày 22 tháng 7. Ông ta, cùng với một số người khác, đã đón chúng tôi trên bãi biển, và dẫn chúng tôi đến nhà ông ta. Khi trời tối, chúng tôi được chiêu đãi bởi một nhóm phụ nữ nhảy múa: Những quý cô này không khác nhiều về màn trình diễn so với những người ở Hindustan [Ấn Độ]. Âm nhạc bao gồm một loại sáo và trống nhỏ, thanh la, và một sự bắt chước sơ sài của đàn violin. Khoảng 10 giờ, chúng tôi trở về dùng bữa tối với đồ ăn của riêng mình. Chiếu và giường xếp được chuẩn bị cho chúng tôi nghỉ ngơi. Khoảng 8 giờ sáng, chúng tôi bắt đầu cuộc “hành quân”, những người bạn đồng hành của tôi đi ngựa và tôi thì ngồi trong một chiếc võng bằng lụa, được căng ở mỗi đầu bằng một mảnh ngà voi dài khoảng 20 inch, qua một vài lỗ nhỏ, nơi các sợi chỉ được dệt qua, được tập hợp lại với nhau, tạo thành một vòng, nhờ đó nó được treo vào một chiếc cột theo hình dạng của một chiếc võng; phía trên cột là một chiếc lọng bằng chiếu tốt được phủ bằng giấy vẽ; nó chỉ cần 2 người khiêng, với số lượng đó tôi đã được chở 15 dặm trong một ngày mà không cần thay người. Con đường của chúng tôi ban đầu đi dọc theo bờ của một con sông khá lớn, cho đến khi chúng tôi tiến vào một thung lũng được canh tác tốt, dường như được bao quanh bởi những ngọn núi cao ở tất cả các phía. Trong thung lũng này, chúng tôi đã đi qua ba hoặc bốn ngôi làng xinh xắn nằm ở vị trí dễ chịu, trong đó, cũng như trên các phần khác của con đường, có những quán trọ công cộng, nơi trà, trái cây và các thức ăn khác được bán cho khách bộ hành. Vào buổi trưa, chúng tôi dừng chân tại một trong số chúng, và dùng bữa trưa, bao gồm gà được cắt thành từng miếng nhỏ, chế biến với một chút rau xanh và muối, một ít cá, v.v. Chúng tôi rời làng vào khoảng bốn giờ chiều, và vào lúc chạng vạng tối, chúng tôi đến một ngôi làng khác, cách nơi ở của nhà vua một giờ đi ngựa; chúng tôi ở lại đây qua đêm.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sáng sớm, chúng tôi tiếp tục hành trình qua những cánh đồng lúa, và vào lúc 8 giờ, chúng tôi nhìn thấy thành nơi nhà vua cư ngụ [tức là thành Hoàng Đế, được xây dụng trên nền móng thành Đồ Bàn của người Chăm-pa]. Mặt tiền phía đông, với một cổng mà chúng tôi đi vào, kéo dài khoảng ba phần tư dặm, và chỉ là một bức tường đá thẳng, ở nhiều nơi bị hư hỏng nặng, không có súng, lỗ châu mai, tháp canh, hoặc bất kỳ thứ gì khác cần thiết để biến nó thành một nơi kiên cố. Tuy nhiên, nó đủ cho mục đích của chủ nhân của nó. Tôi được thông báo rằng nó là một hình vuông, và các mặt còn lại tương ứng với mặt mà chúng tôi đã đi vào. Khi chúng tôi đến cổng, chúng tôi đã đợi nửa giờ trong một túp lều; cổng và tường hoàn toàn không có lính canh, và mặt đất bên trong được bố trí thành những cánh đồng lúa. Sau đó, chúng tôi tiếp tục khoảng nửa dặm, khi chúng tôi xuống ngựa tại nhà của con rể nhà vua, nơi chúng tôi ở lại khoảng nửa giờ, và dùng một chút đồ ăn nhẹ. Sau đó, ông dẫn chúng tôi đến một ngôi nhà gần nhà ông ta, mà ông nói là được chỉ định làm nơi ở của chúng tôi. Ông yêu cầu xem những gì chúng tôi đã mang đến cho nhà vua, mà chúng tôi đã cho ông xem. Nhà vua, ông nói, sẽ cho chúng tôi yết kiến vào sáng hôm sau; sau đó ông cáo từ.


1735121681662.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Đến sáu giờ sáng hôm sau, một tin nhắn được mang đến cho chúng tôi, rằng Bệ hạ đã sẵn sàng tiếp kiến chúng tôi. Sau đó, chúng tôi đi theo người dẫn đường của mình gần một dặm, cho đến khi chúng tôi nhìn thấy cung điện từ một ngọn đồi; tại đây, chúng tôi được yêu cầu giải tán tất cả những người hầu của mình, và để lại kiếm, vì không ai được phép vào yết kiến với vũ khí. Sau khi những thủ tục sơ bộ này được hoàn tất, chúng tôi tiến về phía cung điện; Ở phía trước là hai hàng người, mỗi hàng gồm 100 người, với giáo, kích, búa chiến, v.v. với nhiều kiểu dáng khác nhau, với một số biểu ngữ bay phấp phới, và từ bên trong xuất hiện họng của hai khẩu đại bác bằng đồng dài. Ở giữa một sân sỏi, phía trước cung điện, là nơi đặt những món quà tôi mang theo. Ngay khi chúng tôi bước lên sân này, vị quan và người dẫn đường bảo chúng tôi cúi chào theo cách mà ông ta đã làm, bao gồm việc phủ phục ba lần với trán chạm đất. Tuy nhiên, cách chào này có vẻ hơi quá đáng đối với chúng tôi, chúng tôi hài lòng với việc cúi chào vài lần, theo kiểu Anh. Chúng tôi bước lên nửa tá bậc thang đến căn phòng nơi Bệ hạ và triều đình của ông tập trung. Nó được mở ở phía trước và hai bên, mái lợp ngói và được xây dựng theo kiểu Nam Hà, được chống đỡ bởi những cột gỗ tốt, phía sau được ốp gỗ; dựa vào đây là ngai vàng, cao hơn sàn phòng hai hoặc ba bậc; và trên chỗ cao đặt một chiếc ghế bành, sơn màu đỏ, và được trang trí bằng đầu rồng, nơi nhà vua ngồi, trước mặt ông là một chiếc bàn nhỏ được phủ một tấm đệm lụa đỏ, được thêu hoa vàng, để ông dựa vào. Ở mỗi bên ngai vàng được đặt một chiếc ghế; một chiếc là nơi em trai [Nguyễn Huệ] ông ngồi, chiếc còn lại trống, và, như tôi hiểu, thuộc về một người em trai khác, người đang ở Đồng Nai [Nguyễn Lữ]. Một vài hàng ghế được đặt phía sau những chiếc ghế này, và trên đó là các quan lại, theo thứ bậc của họ. Nhà vua mặc một chiếc áo choàng bằng lụa màu vàng đậm, trên đó rồng và các hình tượng khác được thêu bằng vàng; trên đầu ông đội một loại mũ kín được lật lên phía sau, mặt trước được trang trí bằng một số đồ trang sức, và trên đỉnh của nó là một viên đá đỏ lớn, xuyên qua đó là một sợi dây, nâng nó lên vài inch, rung rinh và lấp lánh khi ông di chuyển. Các quan lại, nhiều người trong số họ, mặc áo choàng bằng lụa với nhiều màu sắc khác nhau, được trang trí bằng rồng, và mũ của họ được trang trí bằng hoa bằng vàng hoặc mạ vàng. Quanh eo họ đeo thắt lưng, một số trong số đó được phủ bằng vải đỏ tươi, được buộc bằng khóa bằng vàng, và được trang trí bằng đá carnelian [đá carnelian (hay còn gọi là đá hổ phách đỏ) là một loại đá quý thuộc nhóm chalcedony, một dạng của thạch anh. Nó có màu sắc từ cam đến đỏ, và đôi khi có thể có các vết vằn hoặc pha trộn màu sắc khác nhau, thường là do sự hiện diện của các tạp chất sắt. Màu sắc của carnelian có thể thay đổi từ màu cam nhạt đến đỏ đậm, đôi khi còn có các sắc tố nâu hoặc nâu vàng. Carnelian được ưa chuộng trong trang sức và đồ thủ công mỹ nghệ nhờ vào độ bóng mịn và vẻ đẹp tự nhiên của nó. Trong lịch sử, carnelian đã được sử dụng làm con dấu, đồ trang sức và vật phẩm tôn giáo. Người ta cũng cho rằng carnelian có tác dụng bảo vệ và mang lại may mắn, sức khỏe, và năng lượng tích cực. Với độ cứng tương đối cao (mức độ 6,5-7 trên thang Mohs), carnelian có thể được gia công thành nhiều loại trang sức như nhẫn, vòng cổ, dây chuyền, và mặt dây chuyền], được đặt trong cùng một kim loại. Nhìn chung, dung mạo ông rất đẹp; và mặc dù cảnh tượng thiếu nhiều yếu tố cấu thành sự hùng vĩ và tráng lệ giữa các vương hầu phương Đông khác, như sự phong phú của đồ trang sức, thảm, người hầu, v.v., sự trật tự và trang nghiêm được tuân thủ ở đây, đã mang đến cho người ta một số ý niệm đầy đủ về một vị quốc vương hùng mạnh được bao quanh bởi triều đình của mình. Ở phía trước được đặt một chiếc ghế dài cho tôi và những người bạn đồng hành của tôi, nơi chúng tôi được ngồi cạnh con rể của nhà vua.

Sau đó, thông qua người phiên dịch, tôi đã nói với Nhà vua, nói với ông rằng:

- Tôi là người phục vụ của Chính phủ Anh ở Bengal, từ nơi tôi đã được cử đến để thiết lập giao thương với cư dân của Đàng Trong.

Ông nói:

- Danh tiếng của người Anh trên biển đã đến tai ông, và ông nghe nói họ vượt trội hơn tất cả các quốc gia khác về số lượng tàu của họ, và vượt trội trong việc quản lý chúng; nhưng họ đã sử dụng lợi thế đó một cách tồi tệ; vì ông cũng đã được thông báo, rằng họ tấn công và cướp bóc bừa bãi bất kỳ tàu nào họ gặp: Rằng ông rất sẵn lòng cho phép người Anh buôn bán đến các cảng của mình, và hy vọng rằng đổi lại họ sẽ không quấy rối các thuyền chiến, thuyền bè hoặc các tàu khác của ông.

Tôi trả lời rằng phần đầu thông tin của ông, liên quan đến sức mạnh của người Anh trên biển, là hoàn toàn đúng; nhưng phần sau là hoàn toàn sai sự thật, và hẳn đã bị những người ghen tị với sự thịnh vượng của chúng tôi, và muốn cho ông một ý kiến bất lợi và bất công về chúng tôi, ám chỉ. Rằng người Anh hiện đang hòa bình với tất cả các quốc gia nước ngoài; và rằng tàu của họ lui tới hầu hết tất cả các khu vực trên thế giới được biết đến, nơi các thương gia của họ nổi tiếng về sự chính trực và sự công bằng trong các giao dịch của họ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,239
Động cơ
699,048 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Sau đó, ông cho tôi biết, người Anh có thể buôn bán đến các cảng của ông; và sau một số giải thích, cuối cùng đã được quyết định, rằng đối với các tàu ba cột buồm phải trả 7.000 Quan (họ tính cho chúng tôi 5 Quan cho 1 đô la Tây Ban Nha), đối với các tàu 2 cột buồm là 4.000, và các tàu nhỏ hơn là 2.000 Quan mỗi chiếc. Bệ hạ ngay sau đó đã rút về nhà riêng của mình, nơi chúng tôi ngay sau đó được mời đến, cởi bỏ áo choàng và mũ triều phục, và mặc một chiếc áo khoác lụa trơn, cài bằng những viên kim cương nhỏ, và một mảnh lụa đỏ quấn quanh đầu theo hình dạng khăn xếp; tại đây cuộc trò chuyện của chúng tôi diễn ra chung chung. Ông bắt đầu bằng cách nhắc lại những ý định tốt đẹp của mình đối với người Anh, và ông mong muốn được kết giao với chúng tôi như thế nào - rằng mặc dù, để giữ thể diện trước hội đồng của mình, ông đã đề cập đến một khoản tiền mà các tàu của chúng tôi phải trả cho việc được tự do buôn bán, nhưng để có được tình hữu nghị của quốc gia Anh, ông sẽ không bao giờ đòi hỏi nó từ họ, mà sẽ cho họ thấy mọi sự khoan dung trong khả năng của mình. Ông liệt kê các mặt hàng được sản xuất ở nước ông, như tiêu, bạch đậu khấu, quế, gỗ trầm hương, ngà voi, thiếc và nhiều loại khác, mà ông nói rằng sự thiếu hiểu biết của người dân ông đã ngăn cản họ tận dụng tối đa; và vì lý do này, cũng như để hướng dẫn người dân của mình về nghệ thuật chiến tranh, ông tha thiết mong muốn Thống đốc Bengal cử cho ông một người có năng lực.

Sau đó, ông tiết lộ một số dự định tương lai của mình cho tôi; chúng không gì khác hơn là chinh phục vương quốc Chân Lạp, với toàn bộ Bán đảo [Đông Dương], cho đến tận Xiêm La, và các tỉnh thuộc về Đàng Trong [nằm dưới quyền Nguyễn Ánh], ở phía bắc, hiện đang nằm trong tay người Bắc Hà. Để thực hiện những điều này, ông mong muốn sự hỗ trợ của một số tàu Anh; để đền đáp điều đó, ông sẽ cấp cho họ những vùng đất để định cư mà họ cho là phù hợp. Tôi đã hứa với ông một cách trung thực sẽ báo cáo những gì ông đã nói với Toàn quyền ở Bengal. Ông đặc biệt yêu cầu, trong số những thứ khác, rằng tôi sẽ tìm mua một con ngựa gửi cho ông, bất kể giá nào, bằng con tàu đầu tiên đến Nam Hà, màu lông ngựa là màu nâu đỏ. Sau khi được chiêu đãi trà và trầu cau, chúng tôi cáo từ. Vào buổi tối, ông gửi cho tôi ba tờ giấy; một tờ, được niêm phong bằng quốc ấn của vương quốc, quy định các điều kiện mà theo đó các tàu Anh được phép buôn bán đến lãnh thổ của ông; hai tờ còn lại được niêm phong bằng một con dấu nhỏ hơn; một tờ mô tả con ngựa, v.v.; tờ còn lại chứa giấy phép của ông cho việc ghé thăm bất kỳ cảng nào của ông. Sáng hôm sau, chúng tôi bắt đầu trở về tàu.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top