[TT Hữu ích] Cuộc hành quân Lam Sơn 719 (tức Dewey Canyon 2) ở Hạ Lào năm 1971

Trạng thái
Thớt đang đóng

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Theo kế hoạch đã được vạch ra trên bản đồ, Phát đã được Thọ và cả Đống đồng ý phải chú ý tới dải đồi không tên ấy. Phải chiếm nó làm một tiền đồn - một bình phong - án ngữ đường tiến quân của đối phương vào 31. Bởi lẽ, theo phán đoán hướng ấy có nhiều điều kiện thuận tiện về địa hình để đối phương triển khai binh lực lớn.
Đồi không tên đây rồi! Nó xanh rì một màu cây non, mấy mỏm cao nổi rõ lên, chạy dọc theo con đường giữa vùng rừng núi ngút ngàn này. Đó là con đường tiếp vận thần thoại mà từ lâu bọn Thọ đã được nghe nói. Nhưng ở xa xa, lại hiện lên thêm một con đường tương tự. Đó là con đường nào? Con đường này chạy sâu mãi, xuống phía nam, sát đường 9 thì nối với một con đường khác
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Thọ không khỏi sửng sốt. Trong trí tưởng tượng của y từ trước tới nay, con đường tiếp tế của Cộng sản chỉ là một con đường mòn, phải, một con đường mòn cho hươu chạy nhưng nay, kìa, nó là một, không phải một nữa, mà là cả một chùm những con đường lớn, hình như có rải đá nữa thì phải. Cả một chùm những con đường, lạ lùng đến mức không thể hiểu nổi.
 

Ngoan nhé

Xe máy
Biển số
OF-709828
Ngày cấp bằng
9/12/19
Số km
81
Động cơ
88,730 Mã lực
Tuổi
36
Thuỷ quân lục chiến và lính dù luôn là lực lượng tinh nhuệ và trang bị hiện đại nhất của bất cứ quân đội nào trên TG
 

Lah

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-98893
Ngày cấp bằng
6/6/11
Số km
5,711
Động cơ
473,031 Mã lực
Trước nay cứ tưởng bàn bạc nhau mới làm quả Lam Sơn 719 hóa ra là Mỹ làm à? Kể ra việc khó như vậy mà không tham vấn các anh VNCH, đòi làm vành đai trắng cô lập chuyển hàng hóa thì cũng hơi phi thực tế.
 

Gcar

Xe lăn
Biển số
OF-38790
Ngày cấp bằng
21/6/09
Số km
11,534
Động cơ
572,214 Mã lực
Trước nay cứ tưởng bàn bạc nhau mới làm quả Lam Sơn 719 hóa ra là Mỹ làm à? Kể ra việc khó như vậy mà không tham vấn các anh VNCH, đòi làm vành đai trắng cô lập chuyển hàng hóa thì cũng hơi phi thực tế.
Còn khuya anh VNCH mới làm vành đai, người Mỹ không làm vành đai được thì sao bảo ảnh làm. Anh ấy chỉ định cố gắng đến Sê pôn tè 1 bãi rồi về!
 

XPQ

Xe cút kít
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
19,088
Động cơ
548,706 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Chuyện ít biết về người con trai can trường của nhà văn Nguyễn Công Hoan

Lược dịch từ bài “NGƯỜI ĐÀN ÔNG TRONG PHÒNG GIAM TUYẾT TRẮNG” của cựu sĩ quan CIA Merle L. Pribbenow về Nguyễn Tài - người tù đã đánh bại những biện pháp tra tấn tinh vi, tàn bạo bậc nhất của cả Mỹ lẫn Nguỵ (VNCH).

NGUYỄN TÀI

Nguyễn Tài là nhân vật cấp cao nhất trong những tù nhân Bắc Việt trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Nguyễn Tài đã điều hành các hoạt động tình báo, đặt bom, ám sát trong suốt 5 năm (1965 – 1970), giết chết hoặc làm bị thương hàng trăm kẻ địch. Cả Mỹ và VNCH đều cố gắng khai thác Nguyễn Tài với tất cả thủ đoạn tinh vi, nguy hiểm nhất. Sĩ quan CIA Frank Snepp là người cuối cùng thẩm vấn Nguyễn Tài, đã dành 1 chương trong hồi ký để viết về ông, người được Frank Snepp đặt biệt danh “Người đàn ông trong phòng giam tuyết trắng”. Snepp tin rằng VNCH đã giết Nguyễn Tài vào tháng 4 năm 1975, nhưng thực tế Nguyễn Tài vẫn sống sót. Ông đã xuất bản cuốn hồi ký “Đối mặt với CIA”, mô tả chi tiết những năm tháng bị thẩm vấn và cách Nguyễn Tài vượt qua những biện pháp tinh vi, tàn bạo nhất.

CHỦ NGHĨA DÂN TỘC

Nguyễn Tài là con trai nhà văn Nguyễn Công Hoan, tác gia nổi tiếng Việt Nam. Chú của ông là Lê Văn Lương, Ủy viên Trung ương Đảng, ********** Bộ Nội vụ. Vào năm 1947, khi mới 21 tuổi, Nguyễn Tài trở thành Giám đốc Công an Hà Nội, lúc đó đang bị pháp chiếm đóng. Nguyễn Tài thành lập các đội ám sát đặc biệt với tên gọi “Đội Thanh Việt” để tiêu diệt thực dân Pháp và ********* bán nước.

Sau khi miền Bắc giải phóng, Nguyễn Tài thăng tiến trong Bộ Cộng an, được bổ nhiệm làm ********** Cục Bảo vệ Chính trị 2 (mật danh KG2). Trên cương vị đó, Nguyễn Tài đã ngăn chặn thành công các cuộc đột nhập của biệt kích nhảy dù do Mỹ và VNCH cài vào miền Bắc.

VÀO NAM

Năm 1964, Nguyễn Tài được cử vào Nam và tới năm 1969 trở thành Trưởng ban An ninh Khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Với kinh nghiệm từ thời chống Pháp, Nguyễn Tài được Trung ương Cục miền Nam giao nhiệm vụ xây dựng lực lượng an ninh trong thành phố, tiêu diệt chỉ huy địch và những tên ác ôn, tăng cường tấn công chính trị nhằm gieo rắc nỗi sợ hãi trong hàng ngũ kẻ thù. Nguyễn Tài tuyển mộ nhiều thành viên, vận chuyển vũ khí và thực hiện một loạt các nhiệm vụ đánh bom, ám sát nhằm vào các quan chức, sĩ quan an ninh, tình báo Mỹ cũng như VNCH, tiêu diệt cả những phần tử phản bội.

BỊ BẮT

Sau cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968, nhiều cơ sở trong nội đô bị phá vỡ, Nguyễn Tài rút ra hoạt động tại Đồng bằng sông Cửu Long. Vào tháng 12 năm 1970, Nguyễn Tài bị an ninh VNCH bắt giữ khi đang trên đường tham dự một cuộc họp.

Ban đầu, Nguyễn Tài khai mình là một sĩ quan mới được miền Bắc cử vào. Sau đó Nguyễn Tài dẫn dắt câu chuyện sang diễn biến khác, rằng ông là điệp viên được cử vào Nam để xây dựng vỏ bọc pháp lý trước khi sang Pháp để thực hiện nhiệm vụ bí mật, chỉ được tiết lộ khi ông đã hoàn thiện thủ tục sang Pháp. Nguyễn Tài đã câu giờ đủ lâu để các đồng chí của mình trốn thoát.

Tuy nhiên, việc Nguyễn Tài là điệp viên đã thu hút sự chú ý của các lãnh đạo cấp cao. Nguyễn Tài bị giải về Sài Gòn, nơi các chuyên gia hàng đẩu tại Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia (NIC) và Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo (CIO) sẽ thẩm vấn ông.

CHIẾN LƯỢC HỎI CUNG

Nguyễn Tài khôn khéo giả vờ hợp tác, nhưng những thông tin ông khai ra, hoặc không quan trọng, hoặc đối phương đã biết hay không thể kiểm chứng. Nguyễn Tài che giấu hiểu biết về những tổ chức cộng sản ở miền Nam bằng cách khai mình mới từ ngoài Bắc xâm nhập bằng thuyền (chiến thuyền đã bị VNCH phát hiện và phá hủy vào tháng 11 năm 1970). Ông khai được cấp trên lựa chọn bởi trình độ tiếng Pháp, nhưng vì lý do an ninh nên chưa được biết nhiệm vụ. Lời khai của Nguyễn Tài về chương trình huấn luyện tình báo giống những gì các tù nhân trước đã khai, khiến đối phương không nghi ngờ. Những thông tin nhạy cảm Nguyễn Tài đã khai, một mặt khiến đối phương tin tưởng câu chuyện của ông, mặt khác chúng không hề gây thêm bất kỳ thiệt hại nào cho lực lượng của mình. Việc Nguyễn Tài tỏ ra kháng cự, và sau đó chỉ chịu khai khi bị các sĩ quan VNCH đánh đập càng làm tăng độ tin cậy của câu chuyện.

Lời khai của Nguyễn Tài bị lật tẩy vì một thành viên của Ban An ninh Khu ủy Sài Gòn – Gia Định bị bắt giữ khi đang cố dò la tung tích của Nguyễn Tài. CIO nghi ngờ vì một người thuộc cơ quan tình báo an ninh lại dò tìm một người thuộc cơ quan tình báo quân đội. Nguyễn Tài bị đưa trở lại phía VNCH.

LỜI THÚ NHẬN

VNCH tra tấn Nguyễn Tài bằng nhiều phương pháp tàn nhẫn. Chúng kích điện, đánh đập bằng gậy, đổ nước vào mũi trong khi bịt miệng, áp dụng “tra tấn kiểu giọt nước Trung Quốc” (nhỏ giọt từ từ lên sống mũi trong nhiều ngày), trói Nguyễn Tài trên ghế mà không cho ăn uống. Mặc dù vậy, Nguyễn Tài quyết không thay đổi lời khai.

Chúng chuyển sang đưa Nguyễn Tài ra để nhiều tù nhân nhận diện, qua đó VNCH biết chính xác ông là Trưởng ban An ninh Khu ủy Sài Gòn – Gia Định. Nguyễn Tài vẫn không chịu đổi lời khai, thậm chí lợi dụng danh tiếng của mình để đe dọa những kẻ dám tố cáo ông, tới mực một tên trong chúng đã tự vẫn.

VNCH chuyển sang kế hoạch khác. Chúng nói dối rằng sắp có một cuộc trao đổi tù binh cấp cao, và nếu Nguyễn Tài chịu khai ra thân phận sẽ được đưa vào diện trao đổi. Chúng cũng đưa các hình ảnh của ông trong buổi hộ tống Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm cấp Nhà nước ở Indonesia. Cuối cùng, Nguyễn Tài cũng chịu khai ra thân phận thật: “Tên thật là Nguyễn Tài, bí danh Tư Trọng, là đại tá của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (MTDTGPMNVN)”.

KHÔNG ĐẦU HÀNG

Cuộc chiến vẫn chưa kết thúc. VNCH buộc Nguyễn Tài phải cung cấp chi tiết về tiểu sử cá nhân. Ông từ chối và chúng tiếp tục tra tấn. Nguyễn Tài bị trói trên ghế suốt nhiều tuần liền, bị đánh đập, bỏ đói, không cho uống nước, bị treo hàng giờ liền. Sau hơn 6 tháng, thể chất và tinh thần của Nguyễn Tài bị suy giảm nghiêm trọng. Ông đã cố tự sát bằng cách cắt cổ tay, nhưng những kẻ thẩm vấn phát hiện và chữa trị kịp thời.

CĂN PHÒNG TRẮNG

Ngày 9 tháng 10 năm 1971, một sĩ quan Hoa Kỳ tên John Sexton được thả tự do tại Sài Gòn, mang theo lời nhắn của Bí thư Thành ủy Sài Gòn Trần Bạch Đằng đề nghị trao đổi Nguyễn Tài và một tù nhân khác là Lê Văn Hoài, đổi lấy một quan chức Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Douglas Ramsay, bị bắt vào năm 1966, được cho là một sĩ quan tình báo Hoa Kỳ. Mặc dù thỏa thuận đổ bể, mạng sống của Nguyễn Tài đã trở nên vô cùng giá trị.

Đầu năm 1972, Nguyễn Tài bị đưa tới giam giữ trong “phòng giam tuyết trắng”, một phòng giam được sơn trắng hoàn toàn, bật đèn suốt 24/24, bị làm lạnh bằng điều hòa công suất lớn (chúng biết ông sợ lạnh). Mục tiêu của phòng giam này là khiến Nguyễn Tài bị bối rối, mất phương hướng và khai ra sự thật một cách vô thức.

Sĩ quan CIA Peter Kapusta là người thẩm vấn Nguyễn Tài. Ông ta đảm bảo Nguyễn Tài không bị tra tấn bằng cách cung cấp sự chăm sóc y tế, thức ăn và quần áo mới. Nguyễn Tài từ chối vì không muốn ảnh hưởng tới “đạo đức cách mạng”. Nguyễn Tài đã thay đổi chiến thuật, cung cấp những lời khai hạn chế nhằm duy trì sự giam giữ của Hoa Kỳ, tránh việc bị đưa trở lại tay VNCH.

Sau vài tháng, Peter Kapusta được thay thế bởi Frank Snepp. Trước kia luôn có một thông dịch viên người Việt, thường là một phụ nữ trẻ tuổi. Frank Snepp thử nghiệm sử dụng thông dịch viên người Mỹ. Nguyễn Tài khiến Snepp tức điên lên khi vờ như mình không hiểu thông dịch viên người Mỹ này, mặc dù thực tế người đó nói tiếng Việt rất tốt. Sau này trong hồi ký, Nguyễn Tài làm vậy để Snepp đưa thông dịch viên người Việt trở lại. Ông sợ các đồng chí sẽ không thể xác định được diễn biến cuộc thẩm vấn và nghi ngờ ông.

Trong suốt thời gian bị giam giữ trong “phòng giam tuyết trắng”, Nguyễn Tài vẫn giữ được sự tỉnh táo. Ông luôn tự nhắc nhở lòng trung thành tuyệt đối với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân, với lý tưởng bản thân, với cả danh dự của gia đình nữa. Hàng ngày,ông thức dậy đúng giờ, chào cờ trước lá quốc kỳ được ông khắc lên tường và hát quốc ca. Ông tự sáng tác những bài thơ, bài hát trong đầu mình mà không cần giấy bút, những bài hát về Đảng và về gia đình.

HIỆP ĐỊNH PARIS

Ngày 27 tháng 1 năm 1973, Hiệp định Hòa bình Paris được ký kết, trong đó có điều khoản về trao đổi tù binh. Qua Frank Snepp, Nguyễn Tài đã nắm được thông tin. Mặc dù vẫn bị giam trong “phòng giam tuyết trắng”, Nguyễn Tài lợi dụng Hiệp định Paris để không bị hành hạ.

Trước khi Sài Gòn được giải phóng, một sĩ quan VNCH ra lệnh thủ tiêu Nguyễn Tài. Tuy nhiên lệnh đã đến quá trễ, CIO bận mải bỏ chạy. Những kẻ không chạy được sợ bị trả thù nên không dám ra tay. Nguyễn Tài được các đồng chí giải cứu sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, đoàn tụ với gia đình tại Hà Nội vào mùa thu năm đó. Ông tiếp tục giữ nhiều chức vụ trong chính quyền Việt Nam. Vào tháng 6 năm 2002, Nguyễn Tài được trao tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân”.

NGUỒN TÀI LIỆU

1. Frank Snepp, Decent Interval, (New York, NY: Random House, 1977). Although I was assigned to the CIA's Saigon station at the time of Tai's arrest and interrogation, I knew little of his case. The material below is based almost entirely on public-source documents.

2. Nguyen Tai, Doi Mat Voi CIA My [Face to Face with the CIA], (Hanoi: Writers Association Publishing House, 1999),

3. Bao Cong An Thanh Pho Ho Chi Minh [Ho Chi Minh City Public Security], newspaper, 13 June 2002, accessed on 15 June 2002 at: http:// www.cahcm.vnnews.com/1051/10510010.html Note: From the 1960s to the mid-1990s, the Ministry of Public Security was called the Ministry of the Interior, even though it was still referred to officially as the "Public Security Service," and its officers were called "public security officers." For simplicity, I have used the term "Ministry of Public Security" throughout.

4. Nguyen The Bao, Hanoi City Public Security Historical Research and Analysis Section, Cong An Thu Do: Nhung Chang Duong Lich Su (1945-1954) [Capital Public Security: A History (1945-1954)] (Hanoi, Vietnam: People's Public Security Publishing House, 1990), pp. 124-25, 132-33.

5. Snepp, p. 35.

6. Lt. Col. Hoang Mac and Maj. Nguyen Hung Linh, Ministry of Interior Political Security Department II, Luc Luong Chong Phan Dong: Lich Su Bien Nien (1954-1975); Luu Hanh Noi Bo [Anti-Reactionary Forces: Chronology of Events (1954-1975); Internal Distribution Only] (Hanoi: Public Security Publishing House, 1997), p. 183.

7. Nguyen Tai, p. 157; Phung Thien Tam, ed., Ky Niem Sau Sac Trong Doi Cong An [Profound Memories From the Lives of Public Security Officers] (Hanoi: People's Public Security Publishing House, Hanoi, 1995), p.71. For a detailed account of the successful North Vietnamese effort to capture these spy/commando teams and redirect them against US-South Vietnamese forces, see Sedgewick Tourison, Secret War, Secret Army: Washington's Tragic Spy Operation in North Vietnam (Annapolis, MD: Naval Institute Press, 1995), and Kenneth Conboy and Dale Andrade, Spies and Commandos: How America Lost the Secret War in North Vietnam (Lawrence, KS: University of Kansas Press, 2000).

8. The Hoang Minh Chinh Affair, still one of the Vietnamese communist party's darkest secrets, is referred to in: Public Security Science Institute, Cong An Nhan Dan Viet Nam, Tap II (Du Thao); Chi Luu Hanh Noi Bo [People's Public Security of Vietnam, Volume II (Draft); Internal Distribution Only] (Ho Chi Minh City, Vietnam: Ministry of Interior, 1978), p. 206; and in: Nguyen Tai, pp. 166-67. A fuller account of the Hoang Minh Chinh Affair can be found in: Bui Tin, Their True Face: The Political Memoirs of Bui Tin (Garden Grove, CA: Turpin Press, 1993), pp. 187-90, 370-87.

9. Ho Chi Minh City Public Security newspaper, 13 June 2002.

10. Hoang and Nguyen, Ministry of Interior Public Security Department II, p. 229.

11. Ho Chi Minh City Public Security newspaper, 13 June 2002. Note: According to the New York Times, 1 February 1969, the general involved, Maj. Gen. Nguyen Van Kiem of President Thieu's military staff, was wounded in this attack, but did not die.

12. Hoang and Nguyen, Ministry of Interior Public Security Department II, pp. 234-37; Ho Son Dai and Tran Phan Chan, War Recapitulation Section of the Ho Chi Minh City Party Committee, Lich Su Saigon-Cho Lon-Gia Dinh Khang Chien (1945-1975) [History of the Resistance War in Saigon-Cho Lon-Gia Dinh (1945-1975)], Ho Chi Minh City: Ho Chi Minh City Publishing House, 1994), pp. 575-76.

13. Nguyen Tai, pp. 27, 32.

14. Ibid., pp. 40-41.

15. Joseph J. Trento, The Secret History of the CIA (New York, NY: Prima Publishing, 2001). On p. 352, the author writes: "In 1971, Peter Kapusta was the CIA's top hostile interrogator of non-military North Vietnamese intelligence officers at the National Interrogation Center in Saigon. His colleague John Bodine handled military intelligence interrogations. One day, Bodine came to Kapusta with a plea for help. Something about a North Vietnamese captain he was interrogating did not ring true. Kapusta began to work on the case. It did not take him long to establish that the "captain" was in fact the North Vietnamese general in charge of counterintelligence. The general turned out to be one of the most important prisoners the United States ever captured in Vietnam."

16. Nguyen Tai, pp. 71-73.

17. A post-war communist account describes this woman as the daughter of a senior South Vietnamese police officer who had been seduced by one of Tai's Public Security assassins. Ibid., pp. 105-06; Phung Thien Tam, pp. 224-28.

18. Nguyen Tai, pp. 100-02; Snepp, p. 31.

19. Nguyen Tai, p. 95.

20. Ibid., p. 114.

21. Ibid., pp. 118-48. Tai says that when he was finally released in 1975 and told his story to his communist superiors, he was criticized for his suicide attempt, which some of the communist leaders viewed as a sign of weakness (p. 145).

22. Ibid., p. 88.

23. Ho Son Dai and Tran Phan Chan, pp. 575-77.

24. Nguyen Tai, p. 145; Snepp, pp. 32-33; New York Times, 9, 10, 12 October 1971.

25. Tai claims that North Vietnamese Minister of Interior Tran Quoc Hoan told him after the war was over that the leadership had realized that the chances for an actual prisoner exchange prior to a final peace agreement were poor, but their immediate objective was to "make it impossible for the Americans and their puppets to kill me" (Nguyen Tai, p. 145).

26. Only when released in April 1975 did Tai discover that he was back at the National Interrogation Center in Saigon, the same place where American officers "Fair" and "John" had interrogated him a year earlier. Nguyen Tai, pp. 149-51; Snepp, pp. 31, 35.

27. William Corson, Susan Trento, and Joseph J. Trento, Widows (London, UK: Futura Publications, 1990), pp. 98, 219, 260; David Wise, Molehunt (New York, NY: Random House, 1992), p. 219.

28. Nguyen Tai, pp. 155-56, 182; Snepp, pp. 35-36.

29. Nguyen Tai, pp. 161-62.

30. Ibid., p. 175.

31. Ibid., pp. 203-04.

32. Ibid., pp. 214-17; Snepp, pp. 36-37.

33. Nguyen Tai, pp. 70-71, 82.

34. Ibid., pp. 24, 71, 186, 210-11.

35. Snepp, p. 37.

36. Nguyen Tai, pp. 243-44.

- Đàm Quang Trường -
FB_IMG_1585109445477.jpg

Những bài đăng do trí thông minh nhân đậu thế này làm anh em kéo mỏi tay quá. Mở thớt riêng đi!
 

Lah

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-98893
Ngày cấp bằng
6/6/11
Số km
5,711
Động cơ
473,031 Mã lực
Còn khuya anh VNCH mới làm vành đai, người Mỹ không làm vành đai được thì sao bảo ảnh làm. Anh ấy chỉ định cố gắng đến Sê pôn tè 1 bãi rồi về!
Thế hóa ra cụ vẫn đánh giá cao chuyên gia Mỹ hơn lực lượng bản địa trong đánh giá thực trạng của tuyến vận chuyển cho GPMN à? Ít ra thì Mỹ chủ trì, cũng phải tham vấn sâu team Vùng 1 như bác Đống chứ hả :D Hay em đánh giá cao các anh vùng 1 quá nhỉ. 71 này là họ vừa triệt được đường vận chuyển biển tới bến tàu không số và Xihanucvin rồi, nên còn mỗi mặt Lào, cũng quyết tâm. Tuy nhiên rừng thì khoai hơn nhiều.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Lực lượng tham gia Lam Sơn 719
1) phía VNCH ban đầu có 17.000 quân sau tăng lên 21.000 quân, cùng với 10.000 quân hỗ trợ ở tuyến sau (pháo binh, liên lạc, vận tải...)
450 chiếc gồm xe tăng (chủ yếu M-41, pháo 76 mm), xe thiết giáp M-113
250 khẩu pháo
2) Mỹ: 10.000 quân, bao gồm tuần tra bảo vệ Khe Sanh, đường 9 (trên lãnh thổ Việt Nam, phi công trực thăng , tải thương, sửa chữa máy bay
800 trực thăng, 300 máy bay cường kích, 50 máy bay vận tải và 50 máy bay ném bom chiến lược B-52 (ném tổng cộng 52.000 tấn bom).
3) Quân Hoàng gia Lào: khoảng 4.000
Chỉ huy Lực lượng Mỹ và VNCH là Trung tướng Hoàng Xuân Lãm và Trung tướng James William Sutherland, chỉ huy Quân đoàn 24 Hoa Kỳ

Phía Bắc Việt Nam:: 50.000 quân, 88 xe tăng (T-54 và PT-76)
Chỉ huy là Thượng tướng Lê trọng Tấn. Chính trị viên Thiếu tướng Lê Quang Đạo và Đại tá Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh bộ đội Trường Sơn (559)
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Lam Son 719 (2_6).jpg

3-1971 – Đại tá Hồ Trung Hậu, Tư lệnh phó Sư đoàn nhảy Dù, được thăng Chuẩn tưởng khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 kết thúc

Lam Son 719 (2_7).jpg

Cố vấn Mỹ trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Lam Son 719 (3_14).jpg

2-1971 – đoàn xe của Lữ đoàn thiết giáp 1 Nam Việt Nam trên Quốc lộ 9 tiến đến căn cứ Alpha trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào

Lam Son 719 (3_15).jpg

2-1971 – đoàn xe của Lữ đoàn thiết giáp 1 Nam Việt Nam trên Quốc lộ 9 tiến đến căn cứ Alpha trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào

Lam Son 719 (3_16).jpg

2-1971 – đoàn xe của Lữ đoàn thiết giáp 1 Nam Việt Nam trên Quốc lộ 9 tiến đến căn cứ Alpha trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào
 

Gcar

Xe lăn
Biển số
OF-38790
Ngày cấp bằng
21/6/09
Số km
11,534
Động cơ
572,214 Mã lực
Thế hóa ra cụ vẫn đánh giá cao chuyên gia Mỹ hơn lực lượng bản địa trong đánh giá thực trạng của tuyến vận chuyển cho GPMN à? Ít ra thì Mỹ chủ trì, cũng phải tham vấn sâu team Vùng 1 như bác Đống chứ hả :D Hay em đánh giá cao các anh vùng 1 quá nhỉ. 71 này là họ vừa triệt được đường vận chuyển biển tới bến tàu không số và Xihanucvin rồi, nên còn mỗi mặt Lào, cũng quyết tâm. Tuy nhiên rừng thì khoai hơn nhiều.
Vùng 1 năm 72 chạy té khói rồi, trước đó vùng 1 đoạn biên giới do Mỹ đóng quân gánh hết nên VNCH cũng chưa có kinh nghiệm mấy.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Lam Son 719 (3_19).jpg

8-2-1971 – binh sĩ Nam Việt Nam trên xe tăng M41 Walker Bulldog, di chuyển trên Quốc lộ 9 tiến vào lãnh thổ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ảnh: Christopher Jensen
Lam Son 719 (3_20).jpg

8-2-1971 – binh sĩ Nam Việt Nam trên xe tăng M41 Walker Bulldog, di chuyển trên Quốc lộ 9 tiến vào lãnh thổ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ảnh: Christopher Jensen

Lam Son 719 (3_21).jpg

8-2-1971 – binh sĩ Nam Việt Nam trên xe tăng M41 Walker Bulldog, di chuyển trên Quốc lộ 9 tiến vào lãnh thổ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ảnh: Christopher Jensen
 

4banhxequay

Xe điện
Biển số
OF-66588
Ngày cấp bằng
18/6/10
Số km
4,525
Động cơ
471,163 Mã lực
Tại sao lại cuộc hành quân mang tên Lam Sơn 719
Kế hoạch tấn công Bắc Việt Nam ở Sê pôn hoàn toàn xuất phát từ ý tưởng của người Mỹ từ cấp cao nhất ở Nhà trắng là Nixon và Kissinger, dưới hơn là Trung tướng Williams Sutherland, Tư lệnh Quân đoàn 24 ở Vùng 1 Chiến thuật. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ được thông báo (mật) và thi hành. Tất cả lực lượng hành quân vào Hạ Lào đều không được biết, và chỉ được biết vài ngày trước khi khởi sự, vì người Mỹ lo hết từ đầu đến cuối. Hơn 500 trực thăng hoàn toàn do người Mỹ lái, 200 máy bay chiến đấu, ( không một phi công VNCH nào được sử dụng trong cuộc hành quân này). Trang bị hậu cần, lương thực, đạn dược cũng người Mỹ chuẩn bị trước. Khẩu phần C, vốn trước đây dành cho lính Mỹ, quân đội Nam Việt Nam ăn ké nếu hành quân hỗn hợp chung với Mỹ, thì trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào, binh sĩ VNCH được xài vô tư, cộng với gạo sấy khô chuyển tư Mỹ sang.
Theo em biết thì sở dĩ gọi là 719 vì ghép từ tên năm 1971 và tại Đường 9
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Lam Son 719 (3_23).jpg

8-2-1971 – binh sĩ Nam Việt Nam trên xe tăng M41 Walker Bulldog, di chuyển trên Quốc lộ 9 tiến vào lãnh thổ Lào trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ảnh: Christopher Jensen

Lam Son 719 (3_24).jpg

Ngày 7-2-1971, gần Khe Sanh, binh sĩ Việt và Mỹ di chuyển trên xe trong chiến dịch Dewey Canyon II, theo kế hoạch của cuộc hành quân Lam Sơn 719, nhằm mở lối và nắm giữ Ðường 9 và tái chiếm đóng căn cứ Khe Sanh làm căn cứ tiếp vận tiền phương (căn cứ Hàm Nghi)

Lam Son 719 (3_25).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Lam Son 719 (3_27).jpg

Ngày 7-2-1971, gần Khe Sanh, binh sĩ Việt và Mỹ di chuyển trên xe trong chiến dịch Dewey Canyon II, theo kế hoạch của cuộc hành quân Lam Sơn 719, nhằm mở lối và nắm giữ Ðường 9 và tái chiếm đóng căn cứ Khe Sanh làm căn cứ tiếp vận tiền phương (căn cứ Hàm Nghi)

Lam Son 719 (4_1).jpg
 

Bastion.P

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-579316
Ngày cấp bằng
15/7/18
Số km
7,980
Động cơ
384,616 Mã lực
Thớt hay, cảm ơn cụ chủ :)

Đúng ngày này 49 năm trước đây, kết thúc cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào
Sáu hôm sau, hôm 31-3-1971, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tới Đông Hà trao huân chương cho binh sĩ VNCH tham gia Chiến dịch Lam Sơn 719

Lam Son 719 (4_169).jpg


Trước đó một tháng hôm 25/2/1971, chiếc xe tăng lội nước PT-76 đã nghiến xích sắt trên nóc Căn cứ hoả lực 31, cũng là Sở chỉ huy của Lữ đoàn 3, Binh chủng Dù VNCH, bắt sống toàn bộ Ban chỉ huy Lữ đoàn này do Đại tá Nguyễn Văn Thọ chỉ huy.
Đây là bài viết tổng hợp, không phải là luận văn khoa học, mong các cụ đừng tổ lái và vật nhau
Tin tức bay về tận Nhà Trắng khiến Tổng thống Nixon nổi cơn thịnh nộ khi được báo cáo những hư hỏng từ phía Hoa Kỳ trong cuộc hành quân. Nixon đã gọi Chuẩn tướng Alexander Haig vào phòng, không giải thích gì, ra lệnh cho ông:
“Về nhà chuẩn bị hành lý rồi lên chuyến bay sớm nhất qua Sài gòn,” để thay Abrams làm Tư lệnh MACV.
Thật là hài hước: Alexander Haig lúc đó chỉ là một Chuẩn tướng (một sao), Phụ tá an ninh quốc gia cho Henry Kissinger, nhưng rất được lòng của Nixon, còn Abrams lúc đó là Đại tướng 4 sao (!)
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
56,312
Động cơ
1,136,636 Mã lực
Lam Son 719 (4_2).jpg

2-1971 – binh sĩ VNCH ưu tư trước khi tham dự cuộc hành quân Lam Sơn 719 ở Hạ Lào. Ảnh: Kent Potter

Lam Son 719 (4_3).jpg

2-1971 – binh sĩ VNCH chụp hình kỷ niệm trước xác xe tăng lội nước PT-76 của Bắc Việt Nam ở Nam Lào
 

Roman

Xe điện
Biển số
OF-68849
Ngày cấp bằng
21/7/10
Số km
3,389
Động cơ
1,351,679 Mã lực
Nơi ở
Đâu đó Hà Nội phố.
Cám ơn cụ Ngao. Mời cụ 1 ly.
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải
Top