[Funland] Chuyện tử tế

30A528.68

Xe hơi
Biển số
OF-362000
Ngày cấp bằng
8/4/15
Số km
100
Động cơ
259,503 Mã lực
E cũng vào hóng. Thỉnh thoảng đọc thấy vui vui vì cs còn nhiều người tử tế!
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
Chuyện Những Người Lính - Phần 2

30-3-2019
Tho Nguyen
(Lược bỏ 1 số đoạn)

Phạm Hùng Phong sinh 1953, nhưng may mắn hơn Bình là tại Hà Nội. 17 tuổi Phong cũng đi nghĩa vụ quân sự như Bình, nhưng may mắn là đi giày vải và đội mũ cối. Chiến tranh đã đẩy cả hai anh đến Quảng Trị để bắn giết nhau.

Trich hồi ký của Vinh Nguyen ở Dortmund (Đức), đồng đội của Phong:

„.. Phong bị trúng 2 mảnh đạn, một mảnh vào đầu, một mảnh xuyên thái dương vào sau mắt phải, ngất đi. Do nằm cạnh cửa hầm, sau đó anh còn bị 2 phát đạn AR15 bắn thẳng vào cẳng chân.

Khi tỉnh dậy, anh thấy mình đang nằm trong một chiếc lều bạt của Thủy quân lục chiến (TQLC). Mấy người lính nói giọng miền Nam và giọng Huế đang lao xao quanh anh. Một người lính đeo túi cứu thương cắm phập mũi kim vào vai anh, tiêm 1 liều chống uốn ván, rồi tiến hành băng bó các vết thương. Họ nói trong khi lục soát trận địa, thấy anh còn thoi thóp thở, họ đã khiêng anh về đây. Chắc quân ta tưởng anh đã chết nên khi rút đã bỏ lại. Sau này gia đình anh còn nhận được Giấy báo tử là anh đã hy sinh ở mặt trận phía Nam. Sau khi bị thẩm vấn qua loa, anh khai là Binh nhì thuộc Trung đoàn 48, F320B, họ đưa anh lên xe tải cùng 1 số tù binh khác và chở về Huế. Trong số tù binh đó anh nhìn thấy khoảng 10 đồng đội cùng C1 E48, có cả Đại đội trưởng Mai người Hải phòng, Trung đội trưởng Đông, và cậu Sơn cùng đơn vị huấn luyện.... Nhưng tất cả đều khai là lính mới, mới được bổ sung vào Thành đêm qua, và không ai biết ai cả.

TQLC chở anh vào nằm ở Bệnh viện Nguyễn Tri Phương 2 ngày, thấy vết thương khá nặng, họ lại đưa anh ra sân bay Phú Bài tải thương về Đà nẵng. Trên chiếc máy bay C130, ghế ngồi đã được tháo hết, khoang máy bay được cải tạo thành những giá để băng ca, có 5 tầng giá như vậy. Băng ca với thương binh được đẩy vào theo đường ray, rồi xếp lên các giá như xếp sách trong thư viện. Hạ cánh xuống sân bay Đà nẵng, trong khi chờ xe tải ra chở đi, anh tò mò ngắm nhìn cảnh vật xung quanh. Đúng là 1 thế giới khác hẳn, ồn ào ầm ĩ, đầy ngập vật chất và kỹ thuật hiện đại. Anh lạ lẫm nhìn mấy cô gái ăn mặc hở hang, không hiểu là điếm hay nhân viên sân bay, đang ưỡn ẹo cạnh mấy người lính Mỹ. Những người lính Mỹ này vừa hết hạn phục vụ và đang chờ máy bay để về nước.

Xe tải nhà binh chở anh về Tổng y viện Duy tân điều trị. Đó là 1 Quân y viện rất lớn, chủ yếu điều trị thương binh VNCH, nhưng cũng có một khu dành riêng để điều trị thương binh tù binh CS. Khu vực này có Quân cảnh canh gác, còn lại thì không có gì khác biệt trong cách đối xử. Các anh được hưởng quy chế Tù binh của Liên Hợp Quôc, 1 USD/ ngày, còn các chế độ bệnh viện, thuốc men, ăn uống...thì cũng như Thương binh VNCH vậy

Chân anh Phong bị gẫy nên phải bó bột, người ta còn khoét 1 lỗ để thay băng cho vết thương phần mềm ở cẳng chân. Một lần thay băng thấy có dòi, viên Bác sỹ Quân y đã thẳng tay tát người Y tá vì tội không sát trùng kỹ vết thương. Bác sỹ Quân y này tên Khánh, vốn là người Bắc di cư, quê ở phố hàng Đào Hà nội. Thấy anh Phong nói mình cũng là người Hà Nội ở Phố Phan Bội Châu, ông tỏ ra có cảm tình với anh. Ông đã làm tất cả để anh không bị cưa chân và khoét mắt. Sau này, vào năm 2010, có dịp sang Mỹ, anh đã tìm đến Quận Cam dò tìm Bác sỹ Khánh để tri ân. Nhưng tiếc thay, đáy biển mò kim, không thể nào tìm được.“ [1]

(Hết trích)


Anh Phong mong muốn nhờ bạn bè FB tìm hộ bác sỹ Khánh, nghe nói đang định cư bên Mỹ. Tất cả chúng ta ở đây, ai cũng mong cuộc hội ngộ này xảy ra.

Sau khi đọc bài về anh Bình thương binh TQLC, Phong gọi điện cho tôi, kể về những trải nghiệm của anh trong thời gian điều trị ở Tổng y viện Duy Tân (Đà Nẵng). Ở đó, các thương bệnh binh Bắc Việt được điều trị trong một khu riêng có hàng rào thép gai, do quân cảnh canh gác. Nhưng chiều chiều, các thương binh VNCH vẫn kéo đến bên hàng rào bắt chuyện với các tù binh Việt Cộng và họ hay mang thuốc lá cho các anh. Phong và nhiều anh em tù binh khá ngỡ ngàng trước sự thân thiện của những người đồng bào từ phía bên kia.

Trích hồi ký

…“Phong bị thương, bị bắt ngày 15.9.1972 và may mắn chỉ nằm trong tay đổi phương có 6 tháng. Tháng 3 năm 1973, sau khi Hiệp định Paris ký kết, Phong cùng đồng đội được máy bay chở ra trao trả ở bờ sông Thạch hãn. Khỏi phải nói gia đình anh mừng rỡ đến mức nào, vì trước đó nhận được Giấy báo tử, họ đã lập bàn thờ làm lễ truy điệu cho anh. Mẹ anh đã khóc hết nước mắt, tinh thần lẫn thân thể suy sụp trầm trọng, thì nay lại thấy anh từ cõi chết trở về. Tất cả bạn bè và người thân ai cũng mừng rỡ cho anh.

Xuất ngũ về với đời thường, anh phải lăn lộn làm đủ nghề để sống. Bán nước ở hè phố, làm thuê, vay tiền đi buôn chuyến Hà nội-Sài gòn, rồi bị lừa trắng tay, ôn thi và đỗ Đại học, xin vào làm cơ quan nhà nước...cái gì anh cũng trải qua. Nhiều lần vết thương cũ tái phát, có lần phải vào Viện 108 mổ dùng nam châm điện để hút mảnh đạn từ sau mắt ra...[2]

(Hết trích)


Để tránh những cơn đau hành hạ các vết thương khi trái gió trở trời ở miền Bắc, Phong phải vào Nam làm ăn và cuối cùng đậu lại ở Mũi Né, nơi anh gây dựng được một cơ sở nghỉ mát nhỏ cho khách du lịch.

Một lần, hai vợ chồng Phong ngồi uống cà phê ở Sài Gòn, bỗng gặp một người bán vé số lết đi từng bàn để mời khách. Đó là Bình. Chiếc mũ lưỡi trai rằn ri của TQLC trên đầu người bán vé số bỗng gợi lại cho Phong những ký ức cũ. Trong suốt bao năm qua, anh không bao giơ quên ơn cứu mạng của những người lính quần áo rằn ri đó. Hai vợ chồng Phong liền mua mấy vé số của Bình để bắt chuyện và hai người linh bỗng kể lại cho nhau những kỷ niệm về trận đánh đó. Cả hai đều nhận ra là mình đang nói chuyện với người mà hồi đó có thế đã xả súng bắn sang phía mình, vì hai câu chuyện khớp với nhau kinh ngac về thời gian và địa hình.

1602001618128.png


Gặp lại Bình ( lính Thủy quân lục chiến mùa hè đỏ lửa Qtrị 1972 ) sau 1 năm . Rất mừng khi thấy bạn tôi khỏe mạnh . Mong rằng 1 ngày kg xa bạn tôi cũng có “ trợ cấp thương tật “ hàng tháng . “ Bầu ơi thương lấy Bí cùng ...”. 28-9-2019. Phong Phạm Hùng

Phong nói với Bình: “Không có lính TQLC cứu tôi, đưa về viện Nguyễn Tri Phương gần đồn Mang cá ở Huế , rồi nặng quá phải dùng máy bay đưa vào Tổng y viện Duy tân ở Đà Nẵng nằm 2 tháng ...thì tôi đã chết rồi”. Cùng bị thương vào chân, nhưng các bác sỹ VNCH chỉ cứu được đôi chân của anh tù binh Việt cộng. Nhìn đôi chân cụt của Bình, nghĩ đến vận may của mình, Phong ngậm ngùi xót xa.

Hai anh đã gắn kết với nhau từ cuộc gặp đó.

Nguồn:
.

[1] Phần 1 hồi ký của anh Vinh https://www.facebook.com/notes/vinh-nguyen/c%C3%A2u-chuy%E1%BB%87n-c%E1%BB%A7a-ph%E1%BA%A1m-h%C3%B9ng-phong-nguy%C3%AAn-chi%E1%BA%BFn-s%E1%BB%B9-thu%E1%BB%99c-c1-d1-e48-f320b-qu%C3%AA-qu%C3%A1n-ph/826117854074126/

[2] Phần 2 hồi ký của anh Vinh https://www.facebook.com/notes/vinh-nguyen/c%C3%A2u-chuy%E1%BB%87n-c%E1%BB%A7a-ph%E1%BA%A1m-h%C3%B9ng-phong-nguy%C3%AAn-chi%E1%BA%BFn-s%E1%BB%B9-thu%E1%BB%99c-c1-d1-e48-f320b-qu%C3%AA-qu%C3%A1n-ph/827298113956100/
 

Hà Sơn Bình

Xe hơi
Biển số
OF-456972
Ngày cấp bằng
28/9/16
Số km
126
Động cơ
205,878 Mã lực
Tuổi
22
Này e đọc mấy lần rồi. Còn chuỵen tư tế e vừa gặp là e rơi mất ví, trong ví co cac giấy tờ quan trọng và cũng nhiều nhiều tiền. Thế mà e lại dc trả lại, k mất một xu, người tử tế vẫn còn mà cụ
Mợ mà gặp em thì lại yêu đời hơn. Em tử tế lắm 😄
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
Bốn Câu Chuyện Xe Ôm

Chuyện Xe Ôm Thứ Ba


Đàm Hà Phú

Nghề xe ôm hả, đâu có ai chọn cái nghề hạ bạc này, nắng mưa cực khổ lắm, ngày tết ngày lễ còn khá chớ ngày thường kiếm trăm ngàn bạc là vui rồi. Ờ, vậy mà có đứa còn đi cướp của xe ôm chớ, thiệt thất đức quá xá, chắc tụi xì ke xì cọt tới cữ làm liều, chớ ai đâu mà cướp của xe ôm, cướp nó cũng có thằng này thằng khác.

Mà lạ nghe chú, tui chạy xe nào giờ chớ chưa ai xù tiền xe, có người hồi xưa đi mối, thiếu có một cuốc xe mà lúc qua Mỹ gửi tiền về trả đàng hoàng. Nghĩ cũng vui, người ta nhớ mình, ngoài chuyện cơm áo cũng có chút tình nghĩa, phải hôn chú?

Mà nói vậy chớ hông phải vậy nghe chú, tối hôm bữa tui chở một thằng đi Bình Dương, mặt nó lấm lét tay cầm cái túi đen, tui thấy hơi gian mà lỡ đi rồi biết sao. Trên đường tui cũng nói chuyện này chuyện kia, chuyện cha mẹ, chuyện quả báo này nọ. Mình cũng không phải hay nhưng mà mình già rồi, chuyện sống ở đời sao cho phải thì tui cũng nói được, mới đầu tui nghe nó ậm ừ, một hồi nọ bắt đầu dạ dạ, một hồi nữa thì nó biểu tui quay về.

Tui chở nó về Thanh Đa, nó biểu tui chờ nó vô nhà người quen trong chung cư, rồi nó xin số điện thoại nói có gì lát gọi. Nó đi vô một hồi rồi nó nhắn tin, cái tin nhắn tui còn lưu trong máy nè chú. Nó nhắn nói hồi nãy tính cướp xe chú, mà nghe chú nói chuyện nên đổi ý, nó xin lỗi, hứa bữa nào có tiền quay lại trả tiền cuốc xe. Lát tui lấy tin cho chú coi, mình nói phải thì thằng ăn cướp cũng nghe. Nhiều người biểu tui báo công an, tui nghĩ thôi, nó nghĩ lại rồi mình làm vậy coi hông được.

Nguồn: https://vietpress2012.wordpress.com/2013/01/02/sai-gon-chuyen-ke-xe-om/
 

quynhanh03

Xe điện
Biển số
OF-100675
Ngày cấp bằng
16/6/11
Số km
2,016
Động cơ
6,024 Mã lực
Nơi ở
Rừng mơ
Này e đọc mấy lần rồi. Còn chuỵen tư tế e vừa gặp là e rơi mất ví, trong ví co cac giấy tờ quan trọng và cũng nhiều nhiều tiền. Thế mà e lại dc trả lại, k mất một xu, người tử tế vẫn còn mà cụ
Em cũng y như cụ mợ luôn và chính người chiến sỹ còn cầm sang trả cho em tận nhà luôn. Từ Long Biên sang bắc Từ Liêm! Cảm động thật sự luôn!
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
Bốn Câu Chuyện Xe Ôm

Chuyện Xe Ôm Thứ Tư


Đàm Hà Phú

Ông chạy xe ôm ở Quận 10 nhưng nhà ông thì ở tận ngã tư An Sương, vợ ông thì bán vé số nên ông thường đậu xe kế bên bà. Hai người mang cơm theo ăn buổi sáng và buổi trưa, buổi chiều thì trả vé về sớm rồi cùng ăn ở nhà.

Quê ông bà ở Cần Giuộc. Bữa nọ thấy có người trông dáng như ở quê lên, tới ghé cho ông bà hai con gà, một buồng chuối và một giỏ đệm đầy cá trê phi, con nào con nấy mập ú, vàng óng. Tôi tò mò hỏi: bà con dưới quê gửi lên hả chú? Ông cười, nói đúng ở quê gửi lên nhưng mà hông phải của bà con, thằng đó nó chiếm đất của tui đó chớ.

Nhà ông có nhiều anh em, cha ông có chia cho ông ba công ruộng ở quê. Ruộng đất phèn nên một năm chỉ trồng được một vụ mà lại có mùa trúng mùa thất nên ông bỏ đó lên Sài Gòn chạy xe ôm. Ruộng bỏ hoang lại nằm xa xóm nên không ai coi. Một lần ông về quê và phát hiện ruộng của mình có người chiếm mất. Đó là một gia đình nghèo, hai vợ chồng và bốn đứa con nheo nhóc, trước họ sống theo ghe nhưng cái ghe nát quá nên cả gia đình dắt nhau lên bờ kiếm đất hoang lập nghiệp, cũng bị đuổi cùng đường mới tới đây.

Mới đầu ông cũng làm căng, thưa lên xã rồi nhờ bà con tới đòi kịch liệt lắm, nhưng do đất nhà từ xưa không có giấy tờ, lúc chia cũng không lập di chúc nên khó nói lý. Rồi ông phát hiện bà vợ mình bị tiểu đường nặng nên thời gian của ông chủ yếu ở bên bà, ông không thiết đòi đất nữa. Một lần về quê đám giỗ ông đã ký giấy cho gia đình nghèo nọ ba công đất luôn.

Ông nói, mình cũng nghèo mà thấy tụi nó còn nghèo hơn. Mình già rồi, sống nay chết mai, thôi coi như làm phước cho tụi nó. Cũng được cái là vợ chồng nó cũng biết điều, nhận tía má luôn, đem lên cho đồ hoài, ăn hổng hết.

Tôi đã xin ông chụp tấm hình này năm ngoái.

107687121_2691910967804217_8374122674944050068_n.jpg
 
Chỉnh sửa cuối:

Loan Hưng

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-741749
Ngày cấp bằng
3/9/20
Số km
149
Động cơ
62,449 Mã lực
Tuổi
26
Đời nhiều người tử tế cũng nhiều người khốn nạn cụ ạ,
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
Cho Đi Là Còn Mãi

1602257798530.png
 

meomun346

Xe container
Biển số
OF-206409
Ngày cấp bằng
16/8/13
Số km
7,490
Động cơ
393,112 Mã lực
Nơi ở
Nhiều nơi
Cháu nghĩ mình cũng sống tốt và may mắn gặp người tử tế. Cháu bị rơi ĐT, gần khu nhà khách của Bộ CA ở Long Sơn - Phan Thiết, sau khi đốt lửa trại, hè 2016. Cháu được họ gọi ĐT vòng quanh và nhận lại luôn tối đó. Thanks người tử tế vô danh (anh ta trả ĐT và nhất định ko xưng tên).
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
Một Chuyện Tử Tế Không May

Khoảng 11h 30 phút ngày 20/9, chị D.T.T. (SN 1997, ở xã Cẩm Lý, Lục Nam, Bắc Giang) điều khiển xe máy đi vào làn đường giữa dành cho ô tô, không có lan can nên bị trượt chân rơi xuống sông.

1602314775756.png


Lúc này, anh G.V.T. (SN 1998 ở xã Tam Dị, Lục Nam, Bắc Giang), lái xe tải đến cầu Cẩm Lý thấy chị T. bị rơi xuống sông nên đã đỗ xe, nhảy xuống sông cứu chị T. Tuy nhiên, do dòng nước chảy xiết, cả người phụ nữ và tài xế cùng bị đuối nước thương tâm.

Sau nhiều giờ triển khai tìm kiếm, đến khoảng 15h, lực lượng chức năng tìm thấy thi thể chị T. và đến 15h35 phút cùng ngày, thi thể anh T. đã được tìm thấy.

Nguồn: Một Chuyện Tử Tế Không May

Cầu Cẩm Lý

1602314881159.png


 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
Giáo Viên Bản

Giáo viên trường Nậm Ngà - Mường Tè ngày tựu trường - Sao Mai

1602342175518.png


2 cô giáo “đưa con chữ” lên vùng cao: Khổ lắm nhưng em quen rồi. Một cô giáo vẫn có thể xòe bàn tay ra cười trước ống kính máy ảnh, một cô quay mặt đi để giấu những giọt nước mắt - Vftnews 9-2020

1602342517177.png


1602342547499.png
 

Thai bp

Xe tăng
Biển số
OF-202556
Ngày cấp bằng
17/7/13
Số km
1,873
Động cơ
341,235 Mã lực
Nơi ở
Sơn tây- hà nội
Nhà e bán xăng, thỉnh thoảng gặp khách xe mays quên tiền, nhân viên bảo hút ra nhưng e bảo cho nợ, lần sau ra trả cũng dc. Nhưng e thấy đa phần k trả. Chắc họ quên hoặc họ k đi qua đuòng ấy, hoặc ít quá nên họ k quay lại trả. Nói chung là vui vẻ, coi như ủng hộ.
 

Azeglio

Xì hơi lốp
Biển số
OF-204340
Ngày cấp bằng
31/7/13
Số km
3,443
Động cơ
606,373 Mã lực
Này e đọc mấy lần rồi. Còn chuỵen tư tế e vừa gặp là e rơi mất ví, trong ví co cac giấy tờ quan trọng và cũng nhiều nhiều tiền. Thế mà e lại dc trả lại, k mất một xu, người tử tế vẫn còn mà cụ
Em có lần đi hầu họp, tắc đường mà sát giờ họp rồi, nhảy xuống xe gọi bác grab bike đi láo vỉa hè cho nhanh. Vào họp tắt máy điện thoại, họp xong không thấy ví đâu. Mở điện thoại thấy mười mấy cuộc gọi nhỡ. Gọi lại hóa ra bác grap gọi trả ví đánh rơi, bảo vệ hỏi vào gặp ai thì bác ý chịu.

Nhận lại ví và giấy tờ đầy đủ.

Cảm ơn bác ý mấy đồng mà bác ý không chịu, mời đi bia cũng không chịu.

Ngồi trà đá thì bác ý có nói là cựu trinh sát.
 

Xuân Bách

Xe buýt
Biển số
OF-385426
Ngày cấp bằng
3/10/15
Số km
559
Động cơ
240,286 Mã lực
Khi đoạn đường Lào Cai - Lai Châu bị sạt chỗ Sapa. Xe bị mắc kẹt ở giữa. Được bộ đội mang lương khô và sữa cho ăn.
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
Cậu Tư

Tạp Bút - Phạm Lưu Vũ

(Lược 1 đoạn)

Tôi sẽ viết sau đây một câu chuyện thần thoại. Đất nước này trong những thời điểm vô vọng của tâm linh, trong những lúc kì cùng của kiếp sống thường sinh ra những kì nhân. Có thời đại nào, có ở đâu trên thế gian này lại dày đặc xương người, vương vãi nơi đồng không mông quạnh, vùi lấp giữa rừng thẳm suối sâu... như ở dải đất từng là bãi chiến trường vô nhân vô đạo lý khủng khiếp này? Bao oan hồn vất vưởng, dãi dầu nơi xứ lạ quê người, mấy mươi năm “thở than dưới đất ăn nằm trên sương” (Văn chiêu hồn - Nguyễn Du), lạnh lẽo không một tiếng khóc than, không một ai hương khói, mà đường về quê Mẹ thì xa xôi mù mịt, quỷ dữ luôn rình rập ở mọi chốn, mọi nơi...

Nếu con người ở xứ sở này không mắc chứng ích kỉ và vô cảm bẩm sinh, thì ở bất cứ chỗ nào, bất cứ lúc nào cũng có thể nghe tiếng gào thét của hàng nghìn, hàng vạn oan hồn. Cõi âm đã “động” đến thế thì cõi dương yên ổn làm sao được. Nỗi đau đớn không thể nào nguôi của những người thân, cùng với những tiếng thở than, gào thét xé lòng ấy đã bao năm ngùn ngụt thấu đến tận Trời. Và những kì nhân đã xuất hiện. Bằng khả năng ngoại cảm thiên tài của mình, họ đã ra tay. Hàng nghìn, hàng vạn hài cốt và cũng là hàng nghìn, hàng vạn oan hồn tưởng mãi mãi vùi lấp chốn lãng quên, mãi mãi ngậm hờn làm con ma vô chủ, nay đã được trở về với quê hương, trở về với những người thân để đợi ngày siêu thoát...

Những ai đó có thể nhắm mắt làm ngơ, có thể “lờ” đi vì sợ hãi, vì mặc cảm tội lỗi hay vì một mục đích tối tăm nào đó. Song không ai có thể nghi ngờ về sự song song tồn tại của cả một thế giới tâm linh cùng với nền “văn minh” hiện đại của loài người. Âu cũng là một nhẽ biện chứng của cuộc đời. Có điều ở đây, đó là một thế giới thảm thương. Thế giới mà thi hào Nguyễn Du đã miêu tả trong “Văn chiêu hồn”:

Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô da rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương.

Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi ẵm trẻ dắt già
...


Rất may, thế giới đó đã và đang có những kì nhân để đưa các vong hồn trở về với người thân, trở về nơi siêu thoát. Thế còn thế giới của những người nghèo, những “cô hồn” sống đang lâm vào cảnh kì cùng của kiếp người trên cõi dương gian này?

Thế kỉ 21 này vẫn chưa cho phép những kẻ nghèo hèn có quyền được sống tử tế nếu trót mang bệnh trong người. Từng bầy, từng bầy dân chúng nhàu nát, hôi hám, lôi thôi già trẻ chen chúc xếp hàng ngùn ngụt trước cửa những phòng khám, ngập ngụa những hành lang, la liệt trên những giường bệnh cũ kĩ có khi phải 2, thậm chí 3 “con bệnh” nằm giở đầu đuôi... Đơn giản thôi. Các bệnh viện đã quá tải trầm trọng. Có thẻ bảo hiểm y tế ư? Đó là thứ mà nhiều bác sĩ ăn lương nhà nước thời nay ghét cay ghét đắng. Mức độ nhiệt tình, thái độ đối xử... của họ tỉ lệ nghịch với tấm thẻ đáng thương ấy. Thật tội nghiệp, thẻ bảo hiểm chỉ đem lại lợi ích cho những ai đó, cho những cấp “quản lý” ở tận đâu đâu... chứ không mang lợi trực tiếp đến cho họ. Xứ sở này chỉ hâm mộ “tiền tươi” mà thôi. Đó là những đồng tiền được nhìn thấy, sờ thấy liền trước mắt, những đồng tiền sẵn sàng chui ngay vào trong túi của mình. Thế là “con bệnh” không có thẻ có khi còn đỡ, có thẻ vẫn phải đóng tiền. Con người vốn thông minh nên dễ dàng nghĩ ra những khoản nằm “ngoài thẻ bảo hiểm”: tiền cho những thứ thuốc gọi là “đặc trị”, tiền mua thuốc ngoại, tiền cho những mũi tiêm rất đáng nghi mà “con bệnh” không có quyền thắc mắc... Đặc biệt, khoản này thì bất kể có thẻ hay không. Đó là phải chuẩn bị sẵn những món tiền “bồi dưỡng”, để sẵn sàng nhét vào túi cái áo blu trắng tinh và cao quý của những vị “từ mẫu lương y” ấy. Thăm bệnh: nhét, chích thuốc: nhét, truyền dịch: nhét, thậm chí nếu “con bệnh” đang hấp hối, thì người nhà càng phải nhét thật nhanh tay, v.v... “Luật” ấy, than ôi dẫu “bất thành văn”, song từ lâu đã “bất di bất dịch”.

Ai đã lần đầu tiên dùng từ “con bệnh”? “Thuật ngữ” ấy mới chính xác làm sao, cay đắng làm sao. Xin lỗi những vị y, bác sĩ chân chính, các vị hãy tin rằng người viết luôn có sẵn ý định trừ các vị ra. Song là những người “nằm trong chăn”, các vị chắc chắn thừa biết rằng hằng hà sa số những “con bệnh” kia chính là nguồn sống, nguồn kiếm tiền, nguồn làm giàu vô tận của nhiều, rất nhiều những người mặc blu trắng, những gã cò mồi, những kẻ buôn thuốc, những cấp “quản lý”... Tóm lại là những người dính dáng đến nghề y, hệt như những con bò, con heo, hay con gà, con vịt... nuôi trong chuồng nhà họ vậy. Thế những người nghèo không có tiền mua thuốc (xin lưu ý: giá thuốc đang ngày càng tăng phi mã, tăng tự do, vô tội vạ), những người nghèo không có tiền nằm viện, không có tiền “bồi dưỡng”... thì sao? Nhất là họ không may mắc phải những chứng bệnh nan y? Thì... họ không có quyền được chữa trị, thậm chí không có quyền được sống nữa chăng?

Chắc sẽ thế thôi. Họ sẽ không có cơ hội được sống, như một cách “chọn lọc tự nhiên” ghê rợn, để dành chỗ trong cuộc đời cho những kẻ khoẻ mạnh! Cứ gì thế kỉ 21 ấm no hạnh phúc này, thế kỉ nào chắc cũng phải vậy thôi. Những kiếp giẻ rách ấy sẽ phải chết, nếu nơi đây không xuất hiện những kì nhân...

Ai đã tin rằng có những “kì nhân” của các vong hồn, tưởng cũng nên tin rằng có “kì nhân” của những kiếp người “kì cùng” ấy.

Một trong những “kì nhân” ấy là Cậu Tư.

Đó là một vùng quê hẻo lánh rất xa Thành phố. Con đường nhựa đủ cho khoảng 1,5 làn xe từ lộ chính chạy hun hút vào một ấp nhỏ. Nơi ấy có Cậu Tư đang “hành nghề”. Chẳng biết từ bao giờ, cái ấp nhỏ này đã trở nên sầm uất, sôi động với đủ các loại hàng quán bệ rạc, chợ búa tanh tưởi, nhà trọ tồi tàn mọc lên san sát. Nơi đây lúc nào cũng thường xuyên có khoảng bốn đến năm trăm người bệnh nằm la liệt, nhếch nhác trên những dãy giường tre, trong những căn nhà lá tùm hụp. Bất chấp cái nắng nóng rừng rực, nóng như nung người của miền Tây, bất chấp ruồi, muỗi như trấu, bất chấp dòng kinh đen sì lúc nào cũng bốc lên một thứ mùi hôi thối khủng khiếp. Những con bệnh nan y mà các bệnh viện đã thải về chờ chết, hoặc không có tiền viện phí, hoặc không tiền mua thuốc... hàng ngày từ khắp nơi ùn ùn về đây hy vọng kéo dài thêm cái kiếp sống khốn khổ của mình. Nghĩ cũng phải thôi. Đến con vật còn khát khao cuộc sống nữa là con người. Nghe nói Cậu Tư sinh năm Canh Tý, năm nay sang tuổi 48. Tối tối, bước qua chiếc cầu xi măng rộng chừng hơn mét, không lan can bắc qua dòng kinh đen, dòng người lần mò bước thấp bước cao trong một con hẻm nhỏ ngoắt ngoéo, chỗ sáng chỗ tối loang lổ, hai bên là liên tiếp những dãy phòng trọ mùng mền luộm thuộm ken dày đặc. Từ trong đó xộc ra một thứ mùi rất khó tả. Đó là mùi người trộn lẫn với mùi hôi thối của nước dòng kinh. Nhà Cậu Tư cất sát một con rạch khác nước cũng đen không kém. Một “phòng khám” rộng chừng 9m2 cất bằng cây sơ sài, không cửa nẻo, trong đó kê một chiếc bàn và 2 chiếc ghế băng. Một căn điện thờ toạ lạc chính giữa sân. Phía sau là một nhà chứa thuốc kiêm phát thuốc rộng rãi. Tất cả đều làm bằng gỗ, lợp lá, tồi tàn như hầu hết các căn nhà khác trong ấp. Một khoảnh sân trước “phòng khám” đủ rộng cho vài trăm con người. Tối nào Cậu Tư cũng ngồi nói chuyện khoảng hơn 1 giờ đồng hồ với các bệnh nhân hoặc người nhà của họ.

Đám đông rầu rĩ, nhợt nhạt dưới ánh đèn nê ông hắt ra từ “phòng khám”, nơi Cậu Tư đang ngồi. Già trẻ, lớn bé ước chừng hơn trăm con người ngồi bệt dưới đất hoặc đứng lố nhố vòng trong vòng ngoài. Tất cả cùng im lặng nghe Cậu Tư nói chuyện. Cậu Tư mặc quần tây sẫm màu, áo sơ mi trắng, người cao ráo, ốm nhom, hai bàn tay xương xẩu, ngón dài gấp rưỡi người thường. Đôi mắt Cậu sáng quắc. Cậu ngồi vắt chân đường hoàng, đốt thuốc lá liên tục, vừa rít vừa trả lời những câu hỏi đủ các loại trên giời dưới bể của đám đông. Thỉnh thoảng lại một giọng rụt rè cất lên...

“... Tôi ăn không tiêu, bác sĩ kê toa cho uống thuốc song chỉ được vài hôm. Giờ không đủ tiền mua thuốc, cái bụng cứng ngắc lại rồi, đau không chịu nổi. Bác sĩ bảo ung thư dạ dày, phải xạ trị, mỗi lần xạ trị 15 triệu đồng, trăm sự nhờ Cậu. Cậu Tư ơi...”

“Đứa nào bảo ung thư dạ dày? - Cậu Tư mắng - trước mày khó tiêu là tại cái gan đó. Gan không tiết đủ dịch nên không tiêu hóa được thức ăn, lại cứ đổ tại dạ dày. Uống thuốc tiêu hoá thì nước mẹ gì. Nay cái u trong gan mày đã to tướng lên rồi, chắc không dưới 27 cm. Sáng mai vô tao xem thế nào...”

Một giọng đàn ông khác thiểu não:

“... bịnh viện nói gan tôi hư, phải ghép. Chi phí ghép gan 1 tỷ rưỡi. Cậu Tư ơi! Tôi một trăm ngàn cũng không có, lấy đâu ra tỷ rưỡi bây giờ?...”

“Mày 48 đúng bằng tuổi tao, chết cũng được rồi đó. - Cậu Tư pha trò - Xuống dưới ấy mua lấy vài mẫu đất, phân lô sẵn đợi tụi tao xuống rồi bán, chắc chẳng mấy chốc có đủ tỷ rưỡi (đám đông bật cười rào rào). Bây giờ đâu đâu người ta cũng làm như thế hà rầm à. Có đúng không bà con? (nhiều tiếng vỗ tay từ đám đông). Nếu muốn ở lại cõi dương này thì đưa đây hai trăm triệu, đảm bảo tao chữa khỏi cái gan cho mày. Không khỏi tao trả lại tiền, chứ bịnh viện thì đừng hòng người ta trả lại. Chịu không?”

Im lặng...

“Thế nào? Hai trăm thôi, rẻ hơn bịnh viện những 1 tỷ ba. Nói thế chứ gan mày đâu đã đến nỗi hư. Chỉ là bị lủng một ống huyết đó thôi. Từ đó máu chảy ra đổ vào dạ dày, vì thế ỉa ra máu. Lại đổ vào bể thận, vì thế đái cũng ra máu. Chịu hai trăm đi rồi tao cho thuốc, đảm bảo 2 tiếng sau ngưng ra máu liền...”

Im lặng...

“Chịu đi, chịu đi...” – nhiều tiếng xì xào giục khẽ từ phía đám đông.

Im lặng...

“Tao chữa bệnh cho bà con gần 18 năm nay, chưa hề lấy một đồng tiền thuốc nào. Vậy mà có lúc vẫn bị nghi là lừa đảo để ăn tiền của dân. Đã vậy tao phải “mần” cho ra tấm, ra món đàng hoàng, không thèm “mần” lặt vặt. Vì thế vụ này phải kêu hẳn hai trăm. Đúng không bà con?” – đám đông lại bật cười rào rào.

Người đàn ông khốn khổ kia vẫn cúi đầu im lặng. Từ trong hai hốc mắt đen ngòm của anh ta, vừa lăn ra hai giọt nước mắt long lanh...

“Bà con thấy chưa. Thằng này hai trăm còn tiếc, huống hồ là tỷ rưỡi. Chẳng trách bịnh viện người ta đuổi về là phải. Thôi, nói chơi vậy nghen. Tao mà lấy của ai một đồng thì người ta cho tao vào tù lâu rồi. Còn đâu mà ngồi đây chữa bệnh cho mày... Có đúng không bà con?”

“Đúng thế. Đúng thế...” – đám đông hưởng ứng.

Rồi Cậu Tư tiếp tục:

“Bà con mình chỉ những lúc bịnh mới thấy quý mạng sống. Có biết đâu rằng bịnh nó xâm nhập vào mình từ mọi lúc, mọi nơi. Cơ thể hàng ngày sản sinh ra biết bao nhiêu tế bào. Trong số những tế bào mới sinh ra đó, tất phải có những cái phế phẩm. Số lượng phế phẩm nhiều ít liên quan đến ăn uống, hít thở, tiếp xúc với độc hại, ô nhiễm... Bình thường thì cơ thể thu những “phế phẩm” ấy vào một chỗ rồi “khoá” lại, gọi là cái u lành. Đến một lúc nào đó, cái “khoá” bỗng bị hư. Thế là những tế bào phế phẩm ấy được dịp tung ra, tự nhân đôi vô tội vạ, một thành hai, hai thành bốn, v.v... Cứ thế, chẳng mấy chốc cái u phình to ra, chèn ép các cơ quan khác, lại phát tán đi khắp nơi... Thế là thành u ác. Nó là cái thứ rất độc. Nếu biết sớm mà “dọn” đi, thì sau này dẫu “khoá” có bị hư, cũng không hề hấn gì...”

...

“Bà con tới đây toàn là những người bịnh viện đã thải về, nếu không thì cũng tự thải do không có tiền nằm viện hoặc không tiền mua thuốc. Thuốc của Cậu Tư chỉ gồm 3 thứ: nam, bắc và núi. Nhẹ dùng thuốc nam, nặng dùng thuốc bắc, kết hợp với lá cây hái ở trên núi. Đã nghe Cậu Tư này chữa bịnh thì phải biết ăn kiêng. Không kiêng khem thì có khi lại nuôi cho cái u nó ngày càng lớn lên, thuốc nào trục ra cho xuể...”

...

“Chữa bệnh nan y có khi phải lấy độc trị độc. Nghĩa là phải làm sao cho tự những chất độc trong cơ thể nó thủ thế diệt nhau, mạng ta ở giữa hưởng lợi. Song đừng để cho những chất độc ấy rơi vào thế mất cân bằng. Nếu mất cân bằng thì mạng tiêu luôn. Vì thế càng phải ăn uống theo đúng chỉ định. Cái thằng bác sĩ ở bịnh viện (...) trên Thành phố ấy. Ung thư di căn giai đoạn cuối, bịnh viện bó tay rồi, xuống đây tao bảo còn nước còn tát. Uống thuốc tao 6 tháng khoẻ mạnh trở lại. Về nhà siêu âm thấy không còn khối u. Con cháu, bạn bè mừng quá mở tiệc ăn mừng. Giời xui đất khiến thế nào mà trong tiệc lại có món lươn là món tao cấm. Thằng ấy lú lẫn nhất thời không nhớ ra bèn ăn vào. Chết liền hai giờ đồng hồ sau đó...”

...

“Kể chuyện ấy ra đây không phải để hù bà con. Cậu Tư này muốn nói rằng có thể chữa được bịnh, song không thể chữa được “đức”. Một khi “đức” đã cạn thì “mạng” ắt phải tiêu. Dẫu chữa được bịnh này thì cũng chết vì bịnh khác, thậm chí không bịnh cũng phải chết. Cái nhẽ sinh tử nó như vậy mà. Chẳng nhẽ cứ chữa được hết mọi bịnh thì con người ta sẽ sống mãi hay sao? Cậu Tư nói không thể chữa được “đức”, cũng tức là không thể đổi được “thiên cơ”. Con người ta sống ở đời, ngoài việc cần phải có cơm ăn, nước uống, cần đến một cơ thể không bịnh tật... còn cần phải có “đức” nữa. Tại sao như thế? Bởi “đức” là “tài sản”, “của cải” đảm bảo cho cái “mạng” của mình. Cũng như nhà nước in tiền ra phải có vàng ở trong kho đảm bảo vậy. Vàng trong kho mà cạn, thì tiền chỉ còn là giấy lộn mà thôi. Vàng trong kho càng nhiều thì tiền càng có giá. Cũng như “đức” càng dày thì “mạng” càng lớn, có khi đạn bắn trúng tim cũng không chết, kẻ ác tìm mọi cách cũng không hại nổi... huống hồ chỉ là vài căn bệnh cỏn con. Song nếu “đức” đã cạn thì Phật Tổ cũng bó tay. Lúc đó mạng người hay là giẻ rách thì cũng chẳng khác gì nhau. “Đức” cần đối với mạng sống của con người cũng ví như cái cây sống cần phải có nước vậy. Nước đã cạn rồi thì dẫu có bắt sạch hết mọi loại sâu bọ đang đục trong thân đi, cái cây vẫn phải chết... Ông bác sĩ kia chính là ứng vào trường hợp như thế đó. Chẳng phải tại Cậu Tư không dặn kĩ đâu...”

Kết thúc buổi nói chuyện hằng đêm, con hẻm ngoắt ngoéo, tối tăm lại đưa đám đông rời nhà Cậu Tư. Những bóng đen dắt díu nhau dò dẫm lần mò trên bờ rạch, len lỏi giữa những căn phòng trọ lúc này chỉ còn tù mù những ngọn đèn ngủ đỏ quạch. Con hẻm tối tăm, khấp khểnh, khó đi như muốn thử thách ý chí của những con người cố níu lại sự tồn tại của mình ở chốn dương gian. Nếu không có những tiếng rì rầm trò chuyện, có lẽ ai đó sẽ tưởng nhầm đây là những bóng ma đang lần bước dưới địa ngục. Chợt “rào” một cái. Một bà cụ nào đó vừa trượt chân té xuống con rạch. Mấy người đi gần cụ hoảng hốt, nhốn nháo. Hàng người dừng lại, chôn chân tại chỗ nghe ngóng trong đêm đen mà chẳng giúp gì được. “Giá có một cây đèn cao áp...” – tôi bật lên tiếng nói. Người phụ nữ đi sau tôi nhanh nhảu: “Dào ôi! mười tám năm nay rồi chứ có phải mới một vài ngày, một vài tháng đâu...” – “Thế chính quyền địa phương không quan tâm gì à?” – tôi hỏi – “Dân nghèo chưa muốn xuống âm phủ ngay thì tự dắt díu nhau mà đi tìm lấy cơ hội sống. Chính quyền nào thèm quan tâm”. – “Chẳng lẽ chữa bệnh ì xèo như thế này mà họ không biết hay sao?” – “Họ biết chớ. Bao nhiêu đoàn thanh tra, kiểm tra đã tới đây rồi đó. Họ điều tra xem Cậu Tư có lừa đảo, có làm tiền bất chính hay không. Song Cậu Tư khám, chữa bệnh cho dân mà tịnh không lấy của ai một đồng nào. Họ không có cớ gì mới để yên cho đấy...”

Cậu Tư không hề lấy của ai một đồng nào, cả tiền khám lẫn tiền thuốc. Đó là một sự thật, còn hơn thế nữa kia, tôi đang nghĩ. Vậy cậu lấy đâu ra tiền để sinh sống, để mua thuốc. Mỗi ngày phát không cho bà con hàng nghìn thang thuốc. Cả một căn nhà lớn chứa đầy thuốc. Lại còn những người giúp việc...? Chị phụ nữ bảo: “Cậu có nguồn tài trợ, có các nhà chùa quanh vùng trồng thuốc cung cấp...” – “Ai tài trợ?” – “Thì những người được Cậu Tư chữa khỏi bệnh ấy. Nhiều lắm, có cả Việt kiều, có cả người nước ngoài... Song tất cả chỉ là đồn đoán vậy thôi. Cậu Tư bí ẩn như người giời, không ai có thể giải thích nổi. Có điều con đường nhựa từ lộ vào ấp này, cả chiếc cầu xi măng bắc qua con kinh thì đúng là do người ta tài trợ đấy, có biển ghi tên họ hẳn hoi. Sao không ai nghĩ ra một ngọn đèn cao áp nhỉ?...” – “Vậy tôi muốn biếu Cậu một ít tiền có được không?” – “Đố anh làm được chuyện ấy đấy. Kể cả những người giúp việc. Họ là những người cũng được Cậu chữa lành bệnh, nay tình nguyện ở lại làm công quả, người hai năm, người ba năm... Tất cả đều tuân thủ nguyên tắc không tiếp xúc riêng với bất kì bệnh nhân hay người nhà nào. Mọi người bệnh đều tuyệt đối bình đẳng, không hề có ưu tiên, trừ bệnh nặng...” – “Bệnh nặng thì sao?” – “Thì sẽ được khám và cho thuốc ngay. Còn không phải đăng kí trước hàng tháng theo từng “đoàn”, có danh sách hẳn hoi. Đông ùn ùn thế này, không đặt ra quy củ thế có mà loạn...”

Về đến phòng trọ, ông chủ nhà trọ hớt hải chạy đến đòi tôi giấy chứng minh nhân dân để đem lên trình công an xã. “Tôi tìm anh mãi. Không có giấy chứng minh, bố tôi cũng không dám cho anh ngủ trọ. Họ mà biết thì ngày mai tôi hết được cho thuê phòng luôn.” Ra thế. Đây là dấu hiệu duy nhất cho thấy sự tồn tại của chính quyền. Tôi móc giấy đưa cho ông ta rồi kéo chiếc ghế nhựa ra hè ngồi. Trời nóng kinh khủng. Muỗi bay ràn rạt làm tôi cứ phải luôn tay đập đen đét. Chắc chẳng bao giờ người ta phun thuốc trừ muỗi, mà có phun chắc cũng không xuể. Những phòng trọ rì rầm, nhốn nháo tiếng người. Thôi thì đủ các giọng Bắc, Trung, Nam... Chỉ cần ngoái đầu lại một cái là lập tức mùi người hầm hập, đặc quánh xộc thẳng vào mặt. Những căn phòng đen ngòm như những cái hang chuột khổng lồ. Mấy bóng đen lầm lũi ra vào, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc chổng mông sắc thuốc la liệt suốt dọc con đường đất tối thui. Mùi thuốc thơm bốc lên không át nổi mùi chua khẳn, hôi hám của con rạch đâm thẳng ngay trước mặt. Cái loa thùng ở một quán gần đấy cất lên một giọng ca vọng cổ não nề. Một cái loa khác lại ca tân nhạc, nghe mà phát ớn: “Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay, non nước mây trời lòng ta mê say...” Đàn muỗi xung quanh tôi đã thay đổi chiến thuật. Chúng chia làm nhiều mũi, tấn công tôi tứ phía, cả trên mặt lẫn dưới chân như bị rắc cát. Tôi phải đứng bật dậy, co chân chạy đi chạy lại, vừa chạy vừa quạt tay lia lịa như thể ra dấu hiệu xin hàng... Một đêm kinh khủng đây, tôi nghĩ...

Quả là nếu Cậu Tư không đặt ra quy củ thì không biết sẽ hỗn loạn ra sao. Sáng hôm sau tôi mới chứng kiến những người bệnh đông như thế nào. Từ khắp các nhà trọ bên này cầu, bên kia cầu, từng đám người lôi thôi bồng bế, dắt díu nhau ra. Thật chỉ khác với những cô hồn trong mô tả của cụ Nguyễn Du ở thời khắc. Tất cả lại rồng rắn theo con hẻm nhỏ rì rầm kéo vào nhà Cậu Tư. Khoảnh sân trước “phòng khám” của Cậu hầu như đã kín người, song ai cũng từ tốn, trật tự. Cậu Tư vẫn ngồi chỗ tối qua, ngay sau chiếc bàn kê giữa “phòng khám”. Tay Cậu cầm một chiếc khăn bông, phanh ngực lau mồ hôi túi bụi. Bên cạnh Cậu có một người đàn ông mặt đỏ au mặc áo ca rô, một tay cầm xấp giấy nhỏ, một tay cũng đang hối hả lau mồ hôi. Đó là Cậu Ba, viên “thư kí” ghi bệnh, đồng thời bốc thuốc, trợ thủ đắc lực của Cậu Tư. Hai chiếc ghế băng kê hai bên “phòng khám” đã kín người ngồi. Đó là những người bệnh may mắn đã đăng kí trước theo “đoàn”.

Tám giờ sáng, cuộc khám bắt đầu. Cậu Ba cầm từng mảnh giấy lên đọc tên. Lần lượt từng người trong “đoàn” rời khỏi ghế, tới ngồi trước mặt Cậu Tư. Cậu Tư một tay xem mạch, một tay trỏ vào chỗ nọ chỗ kia trên cơ thể người bệnh, nói rành rọt từng căn bệnh, triệu chứng... để Cậu Ba ghi vào “bệnh án”. Người bệnh ngồi trước mặt Cậu không hề phải kể, không hề nói bất kì câu gì. Cứ thế Cậu chỉ ra từng chỗ, từng chỗ... như thể Cậu nhìn thấu lục phủ ngũ tạng, nhìn thấu tận xương tuỷ của người bệnh vậy. Tất cả chỉ trong vòng một phút, đúng một phút không hơn không kém. Từ tim, gan, phèo, phổi... đến máu, thận, dạ dày, rồi ruột non, ruột già, từ bàng quang, tiền liệt tuyến đến cột sống, ống chân, v.v... đau ở đâu, u ở đâu, kích thước bao nhiêu, đã di căn chưa, di căn tới chỗ nào... Rồi thì nhức ở đâu, mỏi ở đâu, mất ngủ như thế nào, váng vất ra làm sao, cái gì gây nên bệnh, chỗ nào cần chữa ngay... Cả những chỉ số y học như áp huyết, lượng đường, cholestrol, chức năng gan... Cậu vanh vách chỉ ra chính xác đến từng dấu phẩy, như thể Cậu đang đọc một bản thông báo đặt ngay trước mặt vậy. Thật là những cuộc khám tổng quát kì diệu, có một không hai trên thế gian này. Sở dĩ nói như thế bởi tất cả chỉ diễn ra trong vòng 1 phút. Ai đã từng vô bệnh viện khám tổng quát? Nếu suôn sẻ, thì ít nhất cũng phải mất cả ngày trời với bao nhiêu xét nghiệm, rồi lấy máu, lấy nước tiểu, rồi X quang, siêu âm, rồi nội soi, điện tâm đồ... với những thiết bị tinh vi, những chuyên gia đầy bằng cấp... mà cũng phải đợi hàng tuần sau mới có đầy đủ kết quả, những kết quả y hệt như Cậu Tư vừa chỉ ra trong cái phút giây thần kì ấy.

Tôi đang chứng kiến một câu chuyện thần thoại diễn ra ngay trước mắt mình. Chẳng mấy chốc Cậu Tư đã khám xong cho số người đăng kí trước ở hai hàng ghế. Họ sẽ được Cậu Ba ghi toa và bốc thuốc phát ngay trong ngày hôm đó. Những ngày sau không cần khám lại nữa, người nhà chỉ việc đem toa vào lãnh thuốc. Bây giờ đến lượt những ca bệnh nặng, những người chưa kịp đăng kí đang ngồi la liệt dưới sân. “Thuật ngữ” ở đây gọi là “khám ngoài giờ” (lẽ ra phải là “ngoài luồng” mới đúng). Già trẻ lớn bé, bất kể thần thái ra sao, bất kể mập ốm thế nào, cứ bệnh nặng là Cậu nhìn ra, không trật một người nào. Sau khi lau mồ hôi, ngồi một lát định thần, Cậu trỏ tay gọi người này, người kia... Tất cả hầu như bệnh nan y. Một phụ nữ vừa tới được một lúc, trên tay bế đứa nhỏ khoảng bốn tuổi. Cô bé mặt mũi kháu khỉnh, ngây thơ, người ốm nhom như bị suy dinh dưỡng. Cậu Tư vừa nhìn thấy liền gọi ngay:

“Bịnh viện nhi đồng trả về phải không? Tội nghiệp, con bé trông thế kia mà bị ung thư máu nặng đấy. Thôi thì còn nước còn tát...”

Người phụ nữ đổ sụp xuống, òa lên nức nở. “Trời, đúng thế đấy Cậu Tư ơi. Xin Cậu cứu lấy con tui...”

Đến lượt người đàn ông tối qua. Khoanh ngón tay trỏ và ngón cái dí vào bụng người ấy làm động tác “nội soi”, Cậu bảo:

“Tối qua, tao đoán khối u này chừng 27 cm. Nay “nội soi” cho kết quả hai mươi chín phẩy hai xăng ti mét...”

Người khác:

“Giở áo lên coi vết mổ ở bụng xem nào. Cắt dạ dày phải không? Ẩu quá, phải chụp lại làm bằng chứng mới được, sau này nhỡ bịnh viện họ cãi phăng. Họ cắt có một phần ba phía bờ cong lớn, lại nói là cắt hai phần ba. Mày bị loét dạ dày nặng, đâu phải ung thư. Nay động dao kéo vào nó sinh ra di căn...”

...

Buổi khám bệnh kết thúc đúng vào lúc 10 giờ. Hai tiếng đồng hồ kịp yên lòng cho khoảng trên dưới 40 người may mắn. Những người khác tiếp tục chờ đến hôm sau, hôm sau, và hôm sau nữa, v.v... Cậu Tư và Cậu Ba phờ phạc đứng dậy, trật áo ra khỏi vai lau mồ hôi, một tay cầm chiếc quạt giấy quạt lấy quạt để. Đám đông vẫn từ tốn, trật tự kéo nhau rời khỏi mảnh sân. Không một tiếng năn nỉ, luật vậy rồi, năn nỉ cũng vô ích. Rất nhiều người chưa được khám, song không một gương mặt thất vọng. Tất cả rồi sẽ đến lượt. Chỉ một phút thôi. Nhưng để có được cái phút quý giá ấy, nhiều người đã phải ăn chực nằm chờ cả tháng trời...

Rồi cũng đến lúc tôi rời khỏi cái ấp nhỏ bé chật chội và ô nhiễm ấy. Chiếc cầu xi măng cong cong bắc qua con kinh vừa trải qua một ngày đêm đã trở nên thân thuộc. Trước đây nó chỉ là cái cầu khỉ, người lớn phải cõng trẻ con qua. Ngay đầu cầu gắn một tấm biển đề mấy câu “lục, bát” cực kì sái vần:

“Qua cầu chậm bước ngắm nhìn
Nhớ đời từ thiện ông bà Thọ, Thu”


Tôi được biết ông bà có tên Thọ và Thu ấy đã bỏ tiền xây chiếc cầu này. Nghe người ở đây bảo ông bà ấy là Việt kiều Canada. Ông được Cậu Tư chữa khỏi ung thư. Thỉnh thoảng về nước họ vẫn ghé thăm Cậu Tư. Dòng kinh đen ngòm vẫn lờ đờ trôi những rác rưởi, mảnh bao ni lông... Đứng trên cầu nhìn bốn phía, nhà trọ, quán hàng, quán cà phê, tạp hoá... cái thụt cái thò, chen vai thích cánh. Duy nhất có 1 dãy nhà trọ xây gồm 7 phòng, mái lợp tôn. Dân ở đây nhờ có Cậu Tư mà đã tự phát phát triển bao nhiêu dịch vụ. Hàng nghìn người bệnh rách rưới từ khắp nơi đổ về đây vì thế cũng có chỗ che mưa che nắng, có chỗ mua thức ăn, nước uống, mua than, mua củi sắc thuốc... Không thấy một dấu hiệu nào của cái chính quyền “của dân, do dân và vì dân” của địa phương này ở đâu, ngoại trừ việc trình giấy chứng minh nhân dân. Chợt nhớ chuyện thời nhà Chu bên Tàu. Cách đây hơn hai ngàn năm, các quan sở tại thời đó còn biết cất những nhà quán xá ở dọc đường để cho khách thập phương tam đạo có chỗ nghỉ phòng khi bị lỡ độ đường... Gần mười tám năm rồi, sao người dân nơi đây không “đầu tư” những phòng trọ cho tử tế một chút nhỉ? Câu trả lời tôi vừa nhận được từ một ông chủ nhà: “Đầu tư thì giá thuê mắc, người nghèo lấy đâu ra trả. Họ chỉ cần 1 chỗ nằm thôi. Vả lại, biết Cậu Tư còn được cái khả năng ấy đến lúc nào?” Tôi giật thót mình. Cậu Tư đến một lúc nào đó, có thể sẽ mất đi cái khả năng kì diệu ấy sao?

Con đường nhựa lại đưa tôi ra ngoài lộ. Nghe nói ngày trước nó chỉ là một con đường đất lầy lội. Ngay đầu đường cũng trồng một tấm bảng đúc bằng xi măng, trên đó có ghi mấy câu thơ:

Từ giã nơi đây cổ nghẹn ngào
Hết bệnh mạnh giỏi nghĩa ơn sâu
Thân con nay còn - Cậu Tư giúp
Ơn này mang nặng đến đời sau


Phía dưới ghi tên họ những người đã góp tiền làm nên con đường này. Chả cứ gì họ. Ngay cả tôi, chứng kiến những kiếp người khốn khổ đang trầy trụa, nhẫn nhục chịu đựng dưới cái nắng nóng khắc nghiệt, trong những ổ chuột khổng lồ kia để cố níu kéo lấy sự sống của mình, nghĩ đến những gì đã chứng kiến từ hôm qua đến giờ, chính tôi cũng cảm thấy cổ họng nghẹn ngào. Trong óc tôi chợt hiện lên mấy câu thơ mộc mạc treo ngay nơi phát thuốc trong nhà Cậu Tư. Nghe nói mấy câu này là của Cậu Tư dành tặng Cậu Ba:

Bàn tay phục dược uy linh
Trần thân xả hết sức mình cứu nguy
Phước này non biển đâu bì
Tấm lòng quảng đại từ bi tuyệt vời


Miền Tây, một ngày cuối tháng 4 năm 2007
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
KOTO

Công việc đầu tiên của chị là làm osin kiêm giữ em cho một gia đình ở Hà Nội.

Lúc đó 13 tuổi nhỏ như một viên kẹo, có 27kg và cao 1m30 lương được 150.000 một tháng, từ 6h sáng tới 12h đêm. Mình là một đứa trẻ mà phải đi nuôi một đứa trẻ khác thì còn dư dả thời gian gì để nghĩ cách đối nhân xử thế hay làm người này người kia hài lòng? Chị nhớ là làm được gần 4 năm, cứ đứa trẻ này lớn thì chị lại đổi nhà với một đứa trẻ mới. Tới một lúc quá chán cuộc sống tù đọng kiểu vậy rồi nên chị quyết... giả hồ sơ để được đi học bổ túc. Phải giả hồ sơ vì lúc đó không có hộ khẩu Hà Nội đố em xin được vào trường nào. Gia đình mà chị đang làm thuê không hài lòng với quyết định đó, dù chị đã dành phần lớn thời gian cuộc đời chị cho họ rồi.

Vậy là chị bị đuổi ra ngoài.

Nếu chị về quê, thì phải lấy chồng liền rồi đó. Ở tỉnh Vĩnh Phúc quê chị có cái văn hóa con gái trên 17 là gái ế nên tụi nó rủ nhau lập gia đình hết. Chị thì không biết gì nhiều hơn một đứa 17 tuổi lúc đó cần phải biết, nhưng chị biết là sự lựa chọn đó không dành cho mình. Chị nhìn mẹ của chị: là vợ sau của ba chỉ vì vợ trước của ông không đẻ cho ông được một đứa con trai nào cả, cho nên tới bây giờ chị vẫn chưa thấy mẹ chị sướng một ngày nào trong đời. Bà vừa là một hình ảnh truyền rất nhiều nghị lực, nhưng cùng lúc, chị không muốn trở thành bà.

Chị thuê được cái gầm cầu thang cỡ hai mét vuông để đủ nằm, sau đó là chuỗi ngày đi làm tất cả những thứ gì mà em có thể nghĩ ra: từ lau chùi toilet, bán xôi, bán bánh dạo ngoài đường, bưng bê phục vụ, bán hàng ở hội chợ... cho đến thợ sơn trong sở thú chị cũng làm nốt, miễn sao đảm bảo được chuyện chị đi học là được.

Chị nhớ một đêm mùa đông, chị và một người bạn cùng lớp đi học về, khoảng 11h khuya, chị ý bảo em thử đi đến xem chỗ này như thế nào, nó tên là KOTO, nhận đào tạo và nuôi nấng miễn phí các trường hợp như tụi mình và dạy cả anh văn nữa. Lúc đó nghe 2 chữ “anh văn” là mê tít thò lò. Ngày đầu tiên tới, chị suýt khóc ở cách người ta giao tiếp với nhau sao mà quá ấm áp, từ ngôn ngữ lẫn thái độ, họ không xem mình là trẻ em đường phố, mà họ xem mình như một tiềm năng mà mình sẽ trở thành.

1602493127575.png


Tối đó chị gọi cho mẹ, bảo rằng mẹ ơi cuối cùng cuộc đời con đã có thể thay đổi rồi. Hai mẹ con khóc rất nhiều, chị khóc vì vui sướng, mẹ chị khóc vì sợ chị bị bắt cóc đem bán sang Trung Quốc, haha.

Mà đúng 5 năm sau thì chị bị “bắt cóc” thật, nhưng là được công ty gởi sang Úc du học.

Và phần còn lại trở thành lịch sử.
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
TÔI ĐANG ĐI VÀO TRONG, MƯA GIÓ LẮM ....
15-10-2020

Trưa 15/10, tiếng máy xúc, tiếng người gọi nhau vang dậy cả một khoảng rừng gần lưu vực Rào Trăng (Thừa Thiên - Huế). Những cán bộ, chiến sĩ của Quân khu 4 đang chạy đua với thời gian, cùng các lực lượng không quân, công binh, thông tin dốc sức tìm những người đồng đội của mình đang bị vùi dưới hàng mét đất đá.

Ngày 15/10 cũng là ngày truyền thống lực lượng vũ trang Quân khu 4. Vào cái ngày lẽ ra tất cả những người lính của quân khu phải tề tựu, trung tướng Nguyễn Doãn Anh - Tư lệnh Quân khu 4 - đang tổng chỉ huy các lực lượng cứu hộ để tìm kiếm 13 người mất tích, trong đó có thiếu tướng Nguyễn Văn Man - Phó tư lệnh Quân khu 4.

Cuộc gọi trong đêm mưa

Khoảng 19h ngày 12/10, đại tá Hoàng Xuân Vĩnh - Chính ủy Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình - gọi điện cho tướng Man hỏi thăm tình hình. Bên kia đầu dây có tiếng mưa và gió. Giọng vị Phó tư lệnh bị ngắt quãng do sóng điện thoại yếu.

- "Tôi đang đi vào trong, mưa gió lắm nên khả năng không ra dự đại hội với tỉnh được".
- "Thế thì tiếc quá anh nhỉ?".
- "Vì nhiệm vụ nên phải vậy thôi".

Cuộc hội thoại diễn ra chóng vánh. Thiếu tướng Nguyễn Văn Man cúp máy rồi tiếp tục băng rừng cùng đoàn cứu hộ vào khu vực thủy điện Rào Trăng 3 để cứu các công nhân gặp nạn.

Đại tá Vĩnh đã quen với hình ảnh người đồng đội của mình xông pha vào điểm nóng, ngồi chênh vênh trên chiếc canô nhỏ tí ti đi qua hết cơn lũ này đến đợt bão khác của miền Trung.

Thiếu tướng Nguyễn Văn Man vừa là thủ trưởng cấp trên nhưng cũng là đồng đội gắn bó với đại tá Vĩnh. Hai người đã có gần 5 năm (2015-2019) song hành trên hai cương vị Chỉ huy trưởng và Chính ủy tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình.

"Tôi mới gặp anh Man hôm 11/10 tại TP Vinh khi đến dự buổi gặp mặt 75 năm ngày thành lập lực lượng vũ trang Quân khu 4", ông Vĩnh nhớ lại.
Trong cuộc gặp, đại tá Vĩnh nhắc về việc tỉnh Quảng Bình có mời thiếu tướng Man với tư cách nguyên Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình về dự đại hội thi đua yêu nước của tỉnh diễn ra vào sáng 13/10.

"Tướng Man nói anh ấy đi thực hiện nhiệm vụ trong đó (Thừa Thiên - Huế), nếu có điều kiện thì anh ấy sẽ ra dự đại hội với tỉnh", đại tá Vĩnh nhớ lại.
Ngay chiều hôm đó, thiếu tướng Man có mặt tại huyện Phong Điền, Thừa Thiên - Huế, để chỉ huy lực lượng cứu hộ cứu nạn. Tối 12/10, ông cùng 20 cán bộ chiến sĩ băng rừng vào khu vực sạt lở tại thủy điện Rào Trăng 3.

Khoảng 0h ngày 13/10, khi cả đoàn đang nghỉ tại căn nhà của Trạm kiểm lâm số 7 (tiểu khu 67) thì ngọn đồi phía sau bất ngờ sạt xuống. 8 người may mắn chạy thoát khỏi căn nhà. 13 người mất tích dưới lớp đất đá.

Trạm kiểm lâm tiểu khu 67 - Ban Quản lý rừng phòng hộ sông Bồ ở xã Phong Xuân, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế trước khi bị vùi lấp.

1602860394068.png



Đất đá, cây cối đổ từ trên núi xuống vùi lấp toàn bộ khu nhà.

1602860543965.png


Trưa 13/10, tin về Phó tư lệnh Quân khu 4 Nguyễn Văn Man và 12 người bị mất tích khi tham gia cứu hộ các công nhân thủy điện Rào Trăng 3 được phát đi.

Nhìn hình ảnh trạm kiểm lâm số 7 bị đất đá san bằng hoàn toàn, ông Vĩnh thốt lên "quá khủng khiếp". "Anh em ở Bộ chỉ huy vẫn hy vọng, dù rất mong manh, là sẽ cứu được các đồng chí đồng đội của mình càng sớm càng tốt. Mong sao điều may mắn sẽ đến", vị đại tá chia sẻ.

Người chỉ huy đi hết trận lũ này đến đợt bão khác

Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó Tư lệnh Quân khu hỗ trợ nhu yếu phẩm cho người dân Thừa Thiên Huế.

1602860067027.png


1602860097619.png


Từ khi biết tin thủ trưởng Man gặp nạn, không khí tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình trầm lắng hẳn, mọi người cứ nhìn nhau, ai cũng buồn. Một số cán bộ đã tập trung tại nhà riêng của tướng Man ở TP Đồng Hới để động viên tư tưởng, trấn an vợ con của ông.

Tinh thần của người lính thôi thúc mình phải hành quân ngay, dù là đêm tối. Có lẽ suy nghĩ của anh Man lúc đó cũng như vậy.

Vợ chồng tướng Man có 3 người con. Cô con gái cả vừa tốt nghiệp đại học, con gái thứ 2 đang học cấp 3 và con trai út đang học lớp 7. Từ khi nhậm chức Phó tư lệnh Quân khu 4, vị tướng càng ít có thời gian về thăm nhà.

Nói về quyết định hành quân ngay trong đêm của thiếu tướng Man và các đồng đội, ông Vĩnh gọi đó là quyết định rất táo bạo và rất vì dân.

"Khi nghe thông tin người dân bị nạn như thế mà mình không đi được thì trong lòng rất không yên. Tinh thần của người lính thôi thúc mình phải hành quân ngay, dù là đêm tối. Có lẽ suy nghĩ của anh Man lúc đó cũng như vậy, muốn đến được với người bị nạn càng sớm càng tốt", đại tá Vĩnh chia sẻ.

Thời còn công tác tại Quảng Bình, Thiếu tướng Man được đánh giá là con người rất xông xáo, lo lắng và trách nhiệm với người dân vùng lũ. Ông vừa chỉ đạo chung, vừa trực tiếp đến những chỗ nguy hiểm. Đặc biệt vùng rốn lũ Tân Hóa, Minh Hóa (Quảng Bình) là nơi tướng Man nhiều lần về kiểm tra, chỉ huy bộ đội ứng cứu bà con gặp nạn.

Đại tá Lê Văn Vỹ, người kế nhiệm chức chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Quảng Bình từ tướng Man, nhớ về ông như một người chỉ huy luôn có mặt trong bão lũ, trực tiếp nhận những phần việc khó khăn nhất về mình.

"Trong đợt lũ năm 2016, anh Man đang dự lớp bồi dưỡng chính trị ở Hà Nội nhưng đã tạm hoãn việc học để về Quảng Bình trực tiếp chỉ đạo ứng phó mưa lũ", ông Vỹ nhớ lại.

Trận lũ lụt năm đó làm chết nhiều người. Thiếu tướng Man trực tiếp đến những địa bàn hiểm yếu nhất để chỉ huy bộ đội cứu dân.

1602860670079.png


Danh sách 13 liệt sỹ được cấp Bằng Tổ quốc ghi công gồm:

1. Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó Tư lệnh Quân khu 4; nguyên quán: Lý Ninh, Đồng Hới, Quảng Bình; trú quán: Phường Nam Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình.

2. Đại tá Nguyễn Hữu Hùng, Phó Cục trưởng Cục Cứu hộ-Cứu nạn, Bộ Tổng Tham mưu; nguyên quán/trú quán: Xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.

3. Thượng tá Bùi Phi Công, Phó Chủ nhiệm Hậu cần, Cục Hậu cần, Quân khu 4; nguyên quán: Xã Gio Mai, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; trú quán: Phường 5, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị.

4. Thượng tá Nguyễn Tiến Dũng, Phó Trưởng phòng Tác chiến, Phòng Tác chiến, Bộ Tham mưu, Quân khu 4; nguyên quán: Xã Nghi Long, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An; trú quán: Xã Nghi Thịnh, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

5. Đại tá Hoàng Mai Vui, Phó Trưởng phòng Xe máy, Cục Kỹ thuật, Quân khu 4; nguyên quán: Xã Phương Hưng, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương; trú quán: Phường Điện Biên, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

6. Thượng tá Trần Minh Hải - Phó Tham mưu trưởng, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên Huế; nguyên quán: Phường Phương Hồ, thị xã Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế; trú quán: Phường Thuận Lộc, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên - Huế.

7. Thượng tá Lê Tất Thắng, Phó Lữ đoàn trưởng Tham mưu trưởng Lữ đoàn Thông tin 80, Quân khu 4; nguyên quán: Xã Hồng Long, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; trú quán: Xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.

8. Thiếu tá Tôn Thất Bảo Phúc, Trưởng ban Công binh, Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên-Huế; nguyên quán/trú quán: Phường An Cựu, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế.

9. Thiếu tá Nguyễn Cảnh Cường, Đại đội trưởng Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn Thông tin 80, Quân khu 4; nguyên quán: Xã Cao Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; trú quán: Xã Nghi Liên, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

10. Đại úy quân nhân chuyên nghiệp Đinh Văn Trung, Đài trưởng 15W, Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn Thông tin 80, Quân khu 4; nguyên quán/trú quán: Phường Bến Thủy, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An.

11. Đại úy quân nhân chuyên nghiệpTrương Anh Quốc, nhân viên điệp báo, Phòng Tham mưu, Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Thừa Thiên-Huế; nguyên quán/trú quán: Xã Phong Hiền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế.

12. Ông Nguyễn Văn Bình, Phó Bí thư huyện ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế, nguyên quán/trú quán: Xã Phong An, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên-Huế.

13. Ông Phạm Văn Hướng, Trưởng phòng Thông tin tuyên truyền, Cổng Thông tin điện tử tỉnh Thừa Thiên-Huế, Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế, nguyên quán: Xã Hoa Lư, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình; trú quán: Phường Xuân Phú, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
 
Chỉnh sửa cuối:
  • Vodka
Reactions: Dec

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
298
Động cơ
181,735 Mã lực
Ô Tô “Dìu”

Mai Nguyễn
11-10-2020

Lúc sáng nay tại Cầu Rồng, Đà Nẵng, bão số 6 đổ bộ vào đất liền gây mưa to, gió lớn giật liên hồi. Do gió giật mạnh nên những người đi xe máy trên cầu rất khó khăn và nguy hiểm.
Đoàn xe ô tô thấy vậy, không ai bảo ai, họ lái xe đi chậm lại để che chắn gió lớn thổi từ hướng cửa biển vào giúp người đi xe máy qua cầu an toàn hơn
🥰


Hình ảnh ôtô “dìu” người đi xe máy, xe đạp qua cầu Rồng ở Đà Nẵng cũng thường xuất hiện mỗi khi gặp mưa to, gió lớn.

1602916504715.png


Cảm ơn những bác tài tốt bụng, chúc các bác luôn bình an trên mọi nẻo đường.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top