[Funland] Chuyện tử tế

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Nguyễn Hữu Đang

1/3 - Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

PHÙNG QUÁN - Tháng 12.1992

Tôi là người viết văn nhưng lại đặc biệt say mê nghệ thuật kiến trúc. Đầu năm 1990, Đại hội kiến trúc sư toàn quốc, tôi có gửi một bức điện 300 chữ, chào mừng Đại hội. Mở đầu bức điện văn, tôi viết: “Nếu đất nước xây dựng một Đền đài Nghệ thuật, tôi xin được làm thủ từ. Ngày Lễ hội, tôi xin được trải chiếu để văn nghệ sĩ ngồi. Chiếu một tôi dành riêng cho các kiến trúc sư. Vì các anh chị là những người trước tiên đem lại vinh quang, niềm tự hào hoặc ô nhục cho xứ sở, bằng chính các tác phẩm kiến trúc của mình...”.

Lễ đài độc lập dựng giữa quảng trường Ba Đình, có công rất lớn của nhà tổ chức Nguyễn Hữu Đang. Ảnh: TƯ LIỆU

1603947357704.png


[Ở nhà tôi, ngoài hình ảnh](*) Kim tự tháp, Vạn lí trường thành, Đền Ăngco, Chùa Vàng Miến Điện, Cố cung, Tháp Eiffel, Khải Hoàn Môn... tôi có chừng vài chục tấm hình cắt ra từ các báo như Nhân Dân, Quân Đội, Lao Động, Hà Nội Mới... chụp cảnh Lễ đài Độc lập với tổng thể vườn hoa Ba Đình trong ngày Mồng hai tháng Chín năm Một nghìn chín trăm bốn lăm.
Mỗi lần ngắm nhìn cái công trình kiến trúc mỏng mảnh được xây dựng bằng gỗ, ván, đinh, vải; được thiết kế và thi công trong vòng 48 giờ - nếu chậm lại một giờ là hỏng - rồi sau đó biến mất khỏi mặt đất như một lâu đài trong cổ tích, cặp mắt mờ đục của người lính già tôi bao giờ cũng cay lệ. Lòng tôi dâng trào biết bao niềm cảm xúc và suy tưởng miên man ... về Tổ quốc và Nhân dân, về Cách mạng và Khởi nghĩa, về máu xương của lớp lớp anh hùng hào kiệt đã thấm đẫm giang sơn kể từ khi trên mặt đất xứ sở Việt Nam xuất hiện công trình kiến trúc mỏng manh này. Nó biến khỏi mặt đất, nhưng tầm vóc, hình dáng cùng với tổng thể kiến trúc của nó, đã tạc khắc đời đời vào ký ức của cả dân tộc...

Ba Đình nắng thu vàng rực rỡ, một biển người vừa bước từ đêm dài trăm năm nô lệ ra bình minh Độc lập Tự do, cờ hoa trong tay và câu hát trên môi... Người Hiệp sĩ vĩ đại của Nhân dân cùng khổ và hai triệu người chết đói, bước vào tuổi năm mươi lăm, râu đen, mắt sáng, lễ phục kaki... đứng trên lễ đài, mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng...”

Ai có thể tái tạo công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập cùng với tổng thể kì vĩ đó? Không một ai! Kể cả thánh thần... Theo ngu ý của tôi, Lễ đài Độc lập là cái cột mốc giữa đêm dài trăm năm nô lệ và bình minh của Độc lập Tự do của cả dân tộc. Kể từ khi trên mặt cỏ nắng Ba Đình mọc lên cái cột mốc này, số phận của cả dân tộc đã thay đổi, và số phận nhỏ bé, hèn mọn của cả thằng tôi cũng đã thay đổi. Từ một đứa trẻ chăn trâu mù chữ [tôi đã trở thành] một nhà văn... Cũng từ cái mốc kiến trúc mỏng manh này, cả dân tộc đã xuất phát, bước vào cuộc trường chinh sáng láng nhất, lâu dài nhất và dữ dội nhất của thế kỉ, với gánh nặng lịch sử trên vai: “Ta vì ta ba chục triệu người/ Cũng vì ba ngàn triệu trên đời”.

Ngắm nhìn một công trình kiến trúc như vậy, những người lính già dãi dầu chiến trận chúng tôi, làm sao không ứa lệ tự hào?

*

Vậy ai là tác giả cụ thể công trình kiến trúc Lễ đài Độc lập? Từ mấy chục năm nay, tôi luôn bị thôi thúc bởi niềm mong ước tìm hiểu cho ra. Nhưng cái khó bó cái khôn, và trong điều kiện và hoàn cảnh trắc trở của đời mình, tôi không sao thực hiện nổi niềm mong ước đó.

Thế rồi cách đây ba năm, tôi được một người bạn tặng tôi những tư liệu có liên quan đến sự kiện lịch sử mồng 2 tháng 9.1945 anh vừa tìm thấy trong Thư viện Quốc gia, Thư viện Bảo tàng Lịch sử, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, và kho Lưu trữ Quốc gia. Trong số những bản sao chụp, có mấy tư liệu tôi đặc biệt chú ý:

Thư của Bộ tuyên truyền có tiêu đề VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ đề ngày 31.8.1945 gửi Thị trưởng Hà Nội, về việc tổ chức Ngày Độc lập (Đây là bản chính được đánh máy bằng giấy than đen trên giấy trắng, khổ rộng 130 mm X 210 mm, đóng dấu tròn với dòng chữ “Ngày Độc lập” và C.P.C.H.D.C. vòng quanh con dấu, một ngôi sao năm cánh ở giữa, nổi lên dòng chữ BAN TỔ CHỨC). Nội dung thư:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Bộ Tuyên truyền của Chính phủ Lâm thời sẽ tổ chức ngày 2.9.1945 một “Ngày Độc lập”.

Muốn cho ngày ấy có một tính cách thiêng liêng, Ban tổ chức chúng tôi yêu cầu Ngài hạ lệnh cho các chùa chiền, nhà thờ cho mở cửa, quét tước sạch sẽ và đốt trầm hương suốt ngày hôm ấy để mừng Ngày Độc lập.

Kính thư,


Nguyễn Hữu Đang

Một thư khác của Ban Tổ chức “Ngày Độc lập” thuộc Bộ Thông tin và Tuyên truyền, đề ngày 31.8.1945. Hình thức và con dấu như trên. Nội dung thư:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Nhân “Ngày Độc lập”, chúng tôi yêu cầu Ngài cho treo cờ ở vườn hoa Ba Đình và hai bên những phố lân cận.

Còn về lễ chào Quốc kỳ, chúng tôi nhờ Ngài cho sửa soạn cho chúng tôi một chiếc cột cao 12 thước tây đủ cả giây và bánh xe (poulie); sẽ có chỉ thị về chỗ dựng cột cho phu toà Thị chính.

Kính thư,


Nguyễn Hữu Đang

Một thư khác, hình thức, tiêu đề và con dấu giống hai bức thư trên, với nội dung:

"Kính gửi ông Thị trưởng Hà Nội,

Muốn cho Ngày Độc lập tổ chức vào ngày 2.9.1945 tới đây được hoàn hảo, chúng tôi yêu cầu Ngài thông báo ngay cho các Phố trưởng để các ông ấy báo tin cho các nhà trong khu vực mình biết rằng Cụ nào trong nam giới hay nữ giới muốn đi dự lễ ấy sẽ đến họp ở Hội quán Khai trí hồi 13 giờ trước khi đi lên vườn hoa sau Sở tài chính.

Kính thư,


Nguyễn Hữu Đang

Sau khi đọc kỹ những tư liệu trên, tôi suy luận: ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban tổ chức Ngày Độc lập, vậy chắc ông phải biết ai là tác giả công trình kiến trúc Lễ đài. Cần phải tìm gặp ông để hỏi cho ra.

Chân dung Nguyễn Hữu Đang (ảnh chụp năm 1976, khi ông 63 tuổi) - Ảnh tư liệu

1603947467864.png


Nguyễn Hữu Đang thì tôi được biết mặt từ mấy chục năm trước, nhưng rất ít khi được chuyện trò với anh. Mỗi lần tôi được anh hỏi chuyện, tôi bối rối, sướng mê người, đầu không khiến mà chân cứ rụt về tư thế đứng nghiêm, như ngày còn làm trinh sát mỗi lần được Chính ủy Sư đoàn hỏi chuyện.

Tôi nghĩ bụng: Tôi là cái thá gì mà được một người như Nguyễn Hữu Đang hỏi chuyện? Nguyễn Hữu Đang, người tham gia hoạt động cách mạng từ khi tôi chưa đẻ; nhà hoạt động báo chí công khai của Đảng cùng thời với Trường Chinh, Trần Huy Liệu; một trong những người tổ chức và lãnh đạo chủ chốt của Hội Truyền bá Quốc ngữ cùng thời với Phan Thanh, cụ Nguyễn Văn Tố. Một trong những người sáng lập và tổ chức Hội Văn hoá Cứu quốc cùng với Nguyễn Huy Tưởng và Nguyễn Đình Thi. Và cuối cùng là Trưởng ban Tổ chức ngày Đại lễ của đất nước: 2-9-1945.

Cách đây khoảng mười lăm năm, anh từ cao nguyên Hà Giang trở về, tá túc tại quê nhà. Hàng năm vào dịp giáp Tết, lại thấy anh đáo lên Hà Nội trên chiếc xe đạp thiếu nhi Liên Xô (cũ). Anh mang đến cho mấy bạn cũ mỗi người một cân gạo nếp. Một lần tôi cũng được anh cho một cân. Tôi cảm động và ngạc nhiên hỏi anh: “Anh kiếm đâu ra gạo nếp mà cho chúng em thế?”. Anh cười: “Mình sống ở nông thôn cũng phong lưu ra phết. Không những có gạo nếp biếu bạn, lại còn có cả thóc và rơm cho nông dân vay”. - “Hiện nay anh đang làm gì ở dưới đó?”. “Mình nghiên cứu Lão Trang và dịch lại cuốn Lịch sử ************* Liên Xô qua bản tiếng Pháp. Đối chiếu thấy bản dịch đã in sai nhiều quá”.

Hai năm trở lại đây không thấy anh lên Hà Nội nữa. Mấy anh em quen cũ chúng tôi hỏi nhau: “Không biết anh Đang có gặp chuyện gì trắc trở dưới đó không?”

Nỗi lo lắng này thường xuyên ám ảnh tôi. Nhân thể tôi muốn tìm hiểu về công trình Lễ đài Độc lập, năm đó tôi nhất quyết phải về thăm anh, mặc dầu đã gần giáp Tết. Tôi nói khó với vợ: “Em bớt cho anh một phần lương hưu tháng này; lấy tiền tàu xe, ăn đường, về Thái Bình tìm thăm anh Đang...” “Nhưng tết nhất đến nơi rồi, chờ ra giêng anh đi có được không?”. “Anh bỗng nhiên thấy nóng ruột quá... đợi đến ra giêng e chậm mất. Anh Đang đã gần cái tuổi tám mươi, mà lại một thân một mình...”. “Anh có biết địa chỉ của anh Đang không?”. “Anh chỉ biết anh ấy ở Thái Bình, địa chỉ cụ thể thì không biết”. “Cả cái tỉnh Thái Bình rộng mênh mông với hơn hai triệu dân, không có địa chỉ cụ thể làm sao anh tìm được?”. “Trời đất! Một người như anh Nguyễn Hữu Đang thì anh tin rằng về dưới đó hỏi đứa con nít nó cũng biết”.

Vợ tôi đành trao cho tôi nửa số tiền lương hưu tháng cuối năm vừa lĩnh, với vẻ mặt nhẫn nhịn của người vợ phải trao cả một nửa sản nghiệp cho chồng tiêu hoang vào một việc không đâu! Tôi vội nhét mấy tờ giấy bạc vào túi, nhảy lên xe đạp, cắm đầu đạp thẳng ra ga vì sợ vợ thay đổi ý kiến.

Vừa đi tàu, vừa ô-tô, xe đạp... Sáng 26 Tết, tôi có mặt tại thị xã Thái Bình. Để đỡ bớt thì giờ tìm kiếm, tôi hỏi đường đến Sở Văn hóa và Hội văn nghệ tỉnh, hỏi địa chỉ của anh. Tôi thực sự ngạc nhiên khi thấy nhiều anh chị em cán bộ ở hai cơ quan này không biết Nguyễn Hữu Đang là ai. Có vài người biết nhưng lại rất lơ mơ: “Hình như ông ta ở Quỳnh Phụ, Kiến Xương hay Tiền Hải gì đó...”.

Ở Hội văn nghệ tỉnh, tôi làm quen với một nhà thơ trẻ. Khi biết rõ ý định của tôi, anh hăng hái nói: “Cháu sẽ đưa chú ra cái quán thịt chó nổi tiếng, ở đó thường có mấy anh cán bộ về hưu, chắc sẽ hỏi ra”. Đến quán thịt chó, tôi đành móc số tiền còm cõi trong túi, gọi một đĩa thịt chó luộc và hai chén rượu cho phải phép. Đợi chừng nửa tiếng, có một người đứng tuổi để chiếc xe cúp trước cửa, đi vào quán. Nhà thơ trẻ bật dậy nói với tôi: “Ông này ở cơ quan an ninh tỉnh, hỏi chắc biết”. Tôi vội níu tay anh lại, dặn nhỏ: “Cậu đừng giới thiệu mình là ai, sẽ rách việc”. “Biết rồi, biết rồi, chú không phải dặn”.

Anh bạn trẻ đi đến gặp anh ta, nói cái gì đó, và chỉ tay về phía tôi. Anh cán bộ an ninh tươi cười bắt tay tôi, ngồi đối diện và niềm nở hỏi: “Xin lỗi cụ, năm nay cụ hưởng thọ bao nhiêu tuổi ạ?”. Tôi đoán chắc anh ta thấy tôi ăn vận nhếch nhác – áo quần bà ba nâu, chân dép lốp – râu tóc bạc trắng, nên hỏi vậy. Tôi liền nói phứa lên: “Cám ơn đồng chí – tôi cười – cũng thất thập cổ lai hi rồi đồng chí ạ”. “Trước cụ có làm công tác ở đâu không ạ?”. “Tôi làm thường trực cho một cơ quan thương nghiệp trên Hà Nội... về hưu đã gần chục năm rồi”. “Cụ là thế nào với ông Nguyễn Hữu Đang ạ?”. “Tôi có quen biết gì ông ta đâu. Thậm chí cũng chưa biết mặt. Chẳng là ở tổ hưu của tôi có một cụ nghe đâu hồi bí mật cùng hoạt động với ông ta. Biết tin tôi về thăm đứa cháu họ công tác giáo viên ở Quỳnh Côi, ông cụ gửi tôi mười ngàn bạc để biếu ông ấy, mà giao hẹn phải đưa tận tay. Tôi tưởng ông ấy ở thị xã, hỏi loanh quanh mãi không ai biết...”.

Anh cán bộ cười: “Ông ấy đâu có ở thị xã. Hiện ông ấy đang ở thôn Trà Vỵ, xã Vũ Công, huyện Kiến Xương... cách đây gần hai chục cây số. Ngược gió này mà cụ đạp xe về đó cũng vất vả đấy...”. Thấy tôi chăm chú lắng nghe, anh cán bộ trở nên cởi mở: “Nói để cụ biết, trước kia cái ông Đang ấy cũng là người hoạt động cách mạng có tên tuổi... Nhưng rồi ông ta giở chứng, làm báo làm văn chống đối Đảng và Nhà nước, bị xử phạt 15 năm tù ngồi, đưa lên giam trên trại tù Hà Giang. Mãn hạn tù, ông ta xin về cư trú tại quê quán. Tuy vậy [cách đây mấy năm ông Đang này tự tiện đi] sang Nam Định không có giấy đi đường, đến nhà một đối tượng mà công an đang theo dõi. Công an hai tỉnh liền phối hợp, hỏi giấy tờ đi đường của ông ta, rồi bắt giam giữ bốn tháng ở nhà lao hai tỉnh để cảnh cáo, và tổ chức khám nhà. Sau đó thả cho về...”.

Tôi tỏ ý sợ hãi gãi đầu gãi tai: “Chà... biết rắc rối thế này thì tôi chẳng gặp ông ấy nữa... đem tiền về trả lại thôi...”. Anh cán bộ xuê xoa: “Không sao đâu cụ ạ, chính sách của ta bây giờ là đổi mới tư duy. Nghe đâu trên cũng đang sửa soạn cho ông ấy được hưởng lương hưu. Nếu cụ muốn về thăm ông ấy, cứ việc về. Tôi sẽ chỉ đường cho cụ”. Anh cán bộ chấm ngón tay vào li rượu, vẽ lên mặt bàn, chỉ vẽ cho tôi rất cặn kẽ con đường từ thị xã về chỗ anh Đang tá túc. Tôi đứng lên rối rít cảm ơn anh...

Con đường đá mười mấy cây số chi chít ổ gà. Gió cuối đông buốt như kim châm táp thẳng vào mặt. Nhưng vừa đạp xe tôi vừa nghĩ ngợi miên man về sự thăng trầm của những kiếp người tình nguyện dấn thân vì nghĩa lớn, nên con đường cũng như bớt xa... Đến chỗ ngã ba rẽ vào trường phổ thông cấp I, II xã Vũ Công – nơi anh Đang tá túc – tôi vào cái quán bên đường uống ly rượu cho ấm bụng. Ông cụ chủ quán khi biết tôi từ Hà Nội về tìm thăm anh Đang, rót rượu tràn ly và nói: “Ông ấy thỉnh thoảng vẫn ngang qua đấy, tôi đều mời vào uống nước. Ông ấy tằn tiện khét tiếng cái xã Vũ Công này. Mới cách đây dăm hôm, ông ấy đèo sau xe cái giỏ tre ràng buộc rất kỹ. Ông ấy kể với tôi tối qua bắt được con rắn gì dữ lắm, phun phè phè bò vào nhà mình. Định làm thịt ăn nhưng tiếc, chở lên chợ bán cho một tay buôn rắn độc, kiếm lấy mấy nghìn mua mấy lạng mỡ lá...”.

Tôi bật cười: “Ông ấy bây giờ lại thêm cái tài bắt rắn độc, mà mất công đạp xe mini những mười mấy cây số để đổi lấy mấy lạng mỡ lá... Vui thật! Tôi có người bạn làm thơ tên là Tuân Nguyễn, chết lâu rồi, làm câu thơ nghe thật vô nghĩa, nhưng cứ bất chợt hiện ra trong trí nhớ tôi: Cuộc đời vui quá không buồn được!”. Ông chủ quán rót thêm ly rượu nữa, giọng hào hiệp: “Ly này tôi đãi cụ!... Mà khổ, ông ấy có bán được đâu. Chiều tối ông ấy đạp xe về phàn nàn: nó không chịu mua, nó bảo loại rắn này không nằm trong bộ tam xà!”. Tôi cười ngất.

Anh Đang ở gian đầu hồi cái nhà bếp của khu tập thể giáo viên, trước mặt là ao cá Bác Hồ của xã. Đứng bên kia bờ ao, một cô giáo chỉ cho tôi: “Bác ấy đang ngồi ở bậc cầu ao kia kìa! Đang cọ rửa cái gì mà chăm chú thế không biết...”. Tôi dắt xe đạp qua sân trường, vòng ra sát sau lưng anh.

Anh đang dùng nắm rơm cọ rửa những viên gạch vỡ đôi, xếp thành chồng cao cạnh chỗ ngồi. Tôi đứng lặng nhìn anh. Đầu anh đội cái mũ cối méo mó, khoác cái ruột áo bông thủng be bét, quần lao động màu cháo lòng, hai ống chân ôm vòng hai dây cao su đen nom như vòng cùm sắt; chắc hẳn để nhét hai ống quần vào đó chống rét, lưng anh khòng hình chữ C viết nghiêng...

Tôi chợt nhớ cách đây rất lâu, tôi được nghe những người cùng thời với anh kể. Hồi Mặt trận Bình dân, Nguyễn Hữu Đang là cán bộ Đảng được cử ra hoạt động công khai, ăn vận sang trọng như công tử loại một của Hà thành, thắt cà vạt đỏ chói, đi khắp Trung Nam Bắc diễn thuyết, oai phong, hùng biện, tuyên truyền cách mạng... Mỗi lần cách mạng cần tiền để hoạt động, Nguyễn Hữu Đang có thể đến bất kì một nhà tư sản Hà Nội nào giàu có, vay vàng, tiền. Mà những người này trao vàng, tiền cho anh đều không đòi hỏi một thứ giấy tờ gì, vì họ tin sâu sắc rằng trao vàng, tiền cho anh là trao tận tay cho cách mạng...

Và bây giờ, anh ngồi đó, gần tám chục tuổi, không vợ, không con, không cửa không nhà, lưng khòng chữ C viết nghiêng, tỉ mỉ cọ rửa những viên gạch vỡ - chẳng hiểu để làm gì – như người bõ già trong truyện Hương cuội của Nguyễn Tuân cọ rửa những viên cuội trắng để tẩm kẹo mạch nha vào dịp tất niên... Miên man nghĩ như vậy và tôi bật phì cười...

“Anh Đang!”, tôi nghẹn ngào gọi. Anh quay lại, chớp chớp mắt, răng vàng sỉn, cùn mòn gần nửa vì năm tháng... “Phùng Quán! Chú về đây từ lúc nào thế?”. Hai anh em chúng tôi ôm chặt nhau giữa bậc cầu ao. Và cả hai gương mặt già nua phút chốc đẫm lệ...
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Nguyễn Hữu Đang

2/3 - Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập

Cái chái bếp căn hộ độc thân của anh rộng khoảng 5 mét vuông, chật kín những tư trang, đồ đạc. Mấy cây sào ngọn tre gác dọc ngang sát mái, treo vắt cả chục cái khăn mặt rách xơ như giẻ lau bát, áo may-ô thủng nát, quần lao động vá víu. Cạp quần đeo lủng lẳng một chùm lục lạc làm bằng vỏ hộp dầu cao Sao vàng xuyên thủng, buộc dây thép, bên trong có hòn sỏi nhỏ. Đụng vào, chùm lục lạc rung lên leng keng, nghe rất vui tai.

Sau đó tôi được anh giải thích tác dụng của chùm lục lạc: Đi lại trong đường làng những đêm tối trời, anh thường bị cánh thanh niên đi xe đạp, xe máy phóng ẩu đâm sầm vào, làm anh ngã trẹo tay, sầy gối. Học tập sáng kiến của đồng bào các dân tộc ở Việt Bắc, treo mõ vào cổ trâu – trâu gõ mõ, chó leo thang – anh Đang chế chùm lục lạc đeo vào cạp quần, báo hiệu có người để họ tránh xe. Tác dụng thứ hai, quan trọng không kém... Mỗi lần đạp xe trên đường vắng, nghe tiếng lục lạc loong coong ngang thắt lưng, tự nhiên cảm thấy đỡ cô độc.

Chính giữa gian chái kê cái tủ gỗ tạp nhỏ, hai cánh mọt ruỗng không khép kín được, khoá một chiếc khoá lớn như khoá nhà kho. Trên nóc tủ, xếp một chồng mũ cối, mũ vải, mũ lá mà ở Hà Nội người ta thường quẳng vào các đống rác. Cạnh tủ là một cái giường cá nhân, bốn chân giường được thống cố thêm bốn chồng gạch. Trên giường một đống chăn bông trần rách thủng, và một xấp quần áo cũ làm gối.... Sát chân giường kê chiếc bàn xiêu vẹo chỉ có hai chân, hai chân kia được thay bằng hai sợi dây thép buộc treo vào tường. Anh nói, giọng Lão Trang: “Một cái bàn bốn chân là một con vật. Khi nó chỉ còn hai chân nó là một con người”. Trên mặt bàn xếp kín các chai lọ, vỏ đồ hộp, vài con dao làm bằng mẩu [thép vụn.

Anh chỉ vào vài cái "hòm" được xếp bằng những viên gạch vỡ, như] thuyết minh viên giới thiệu hiện vật trong bảo tàng nghệ thuật: “Nó là loại gạch nung rất già, gần đạt tới tiêu chuẩn của sành sứ cổ, sức nặng và độ bền của nó làm cho các loại chuột, mối, dán phải vị nể”. Bây giờ tôi mới hiểu anh cọ rửa những viên gạch vỡ để làm gì. Dưới gầm bàn là mấy chục đôi dép cao su hư nát, đứt quai, được bó thành từng bó, hai cái vại muối dưa rạn nứt, sứt miệng, một đống bản lề cửa, sắt vụn, đinh còng queo, mẩu dây thép han rỉ... Tất cả những đồ lề đó, phủ lên một lớp bụi tro...


Lúc tôi bước vào, gian buồng mờ mịt khói. Anh giải thích: “Giờ này các cô giáo nấu ăn. Bếp tập thể ở sát bên kia tường. Tôi đã trộn rơm với bùn trát những khe hở sát mái, nhưng khói vẫn cứ lọt sang – anh cười - Chịu khói một chút nhưng cũng có cái lợi. Thỉnh thoảng lại được ngửi mùi xào nấu lẫn với khói, cái mũi được bồi dưỡng. Trong việc dở nào cũng có việc hay, và ngược lại”. “Để em đạp xe ra chợ mua cái gì về ăn”. “Thôi khỏi cần. Chú về chơi hôm nay là rất gặp may. Sáng nay tôi vừa chế biến được một mẻ thức ăn ngon vô địch. Chú nếm rồi sẽ biết. Cơm cũng có sẵn rồi. Tôi mới nấu lúc sáng, ủ vào lồng ủ rơm, còn nóng nguyên. À, tôi lại có cả rượu cho chú, rượu cam hẳn hoi, quà của Hội Nhà văn gửi biếu vào dịp Tết năm ngoái... Tôi chỉ mới mời mấy thầy giáo mấy chén, còn đủ cho chú say sưa suốt mấy ngày ở chơi”.

Anh xăng xái lấy chùm chìa khoá buộc chung với chùm lục lạc, mở khoá tủ tìm chai rượu. Tôi liếc nhìn vào mấy ngăn tủ. Những xấp quần áo cũ nát để lẫn với những chồng báo, giấy má, sách... ố vàng. Ngăn dưới cùng để rất nhiều chai lọ, vỏ đồ hộp, vỏ lon bia, và nhiều chồng các loại bao thuốc lá. Anh lúi húi tìm một lúc khá lâu mới lôi ra được chai rượu cam còn già nửa: “Đây rồi! Bây giờ già hoá ra lẩm cẩm. Để chỗ này lại tìm sang chỗ kia”. Tôi cười, nói: “Nhìn anh, em cứ tưởng là một nhà quí tộc Nga thời Sa Hoàng, tự tay tìm chọn loại rượu quí cất giữ một trăm năm trong hầm rượu, để đãi khách quí”.

Tôi chỉ những chồng vỏ bao thuốc lá, hỏi: “Anh chơi sưu tập vỏ bao thuốc lá à? Thế mà [vợ em ở nhà khi em hút xong, cô ấy] phải dọn nhặt đem đốt”. Anh kêu lên: “Thế có tiếc không! Lần này chú về trên đó nhớ dặn cô, có vỏ bao thuốc lá ngoại cứ cất giữ cho anh Đang, càng nhiều càng tốt. Nó là hàng đối lưu của tôi đấy...”. “Hàng đối lưu?”, tôi ngạc nhiên hỏi. “Để tôi dọn cơm cho ăn rồi tôi giảng cho chú nghe thế nào là hàng đối lưu. Tôi xem ra chú mù tịt về môn kinh tế chính trị học”.

Tôi ngắm nhìn căn hộ độc thân đầy khói của anh, hỏi: “Hơn mười lăm năm qua anh vẫn sống ở gian buồng này à?”. “Ngày tôi mới về xã, tôi sống ở trại lợn của Hợp tác xã. Chẳng là cán bộ xã cũng thông cảm hoàn cảnh khó khăn của tôi, nên đề nghị tôi ra đó trông coi giúp như nhân viên thường trực của trại. Ở đó một thời gian. Nhà kho cũng thoáng mát, tôi có thể ăn ở, đọc sách, viết lách kết hợp với trông coi trại. Mỗi mùa hợp tác xã trả công điểm mấy chục cân thóc, mấy chục cân rơm làm chất đốt. Số thóc, rơm này tôi không phải dùng đến, trong mấy năm tiết kiệm được hai ba tạ thóc, hai trăm sáu chục cân rơm cho bà con vay. Ngoài ra, vào dịp tết, Hợp tác xã bồi dưỡng thêm ít thóc nếp, đem lên Hà Nội biếu các chú... Khi bắt tay vào việc dịch thuật lại cuốn Lịch sử ************* Liên Xô, tiếng lợn kêu ầm ĩ quá làm tôi mất tập trung tư tưởng, nên phải xin thôi công việc trông coi trại, chuyển về đây để được yên tĩnh hơn”.

Anh lôi dưới gầm giường ra một cái xô tôn thủng đáy, đặt lên miệng xô tấm gỗ dán. “Đây là bàn ăn – anh giới thiệu và vần tiếp ra hai cái vại muối dưa sứt miệng – Còn đây là ghế ngồi. Bà con nông dân mình nghèo mà phí phạm thế đấy. Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về, cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?”.

Anh dọn ra hai cái đĩa, rồi chọn trong hai cái bát hương đậy viên gạch vỡ gắp ra năm sáu viên gì đó tròn tròn, đen xỉn, nom rất khả nghi. Anh chỉ vào một đĩa, giới thiệu thực đơn: [“Đĩa này là chả cóc, đĩa này là chả nhái. Nhờ ăn] thường xuyên hai thứ đặc sản này mà tôi rất khoẻ, còn khoẻ hơn cả chú”.

Anh nhắc trong cái rổ phủ đầy rơm để ở góc nhà, xoong cơm đã ăn mất một góc mà anh giới thiệu vẫn nóng nguyên. Nói đúng hơn là một thứ cháo rất đặc, có thể xắn thành từng miếng như bánh đúc. “Ba năm trở lại đây, tôi phải ăn cơm nhão, nếu ăn cơm khô thì bị nghẹn. Tôi nấu cơm với nước vo gạo nên rất bổ. Chẳng là các cô giáo thường bỏ phí nước vo gạo. Tôi đưa cho các cô cái chậu, dặn đổ nước vo gạo vào đấy cho tôi, để tôi chắt ra nấu lẫn với cơm. Tinh tuý của gạo nằm trong nước vo, bỏ đi thật phí phạm”.

“Nhưng cóc nhái đâu ra mà anh bồi dưỡng được thường xuyên thế?”, tôi hỏi. “Ấy chỗ này mới là bí quyết. Phải huy động lực lượng quần chúng, tức là các cháu thiếu nhi. Biết các cháu ở đây thích chơi vỏ bao thuốc lá, nhất là các loại vỏ bao đẹp. Mỗi lần lên thị xã hoặc sang Nam Định chơi, tôi đều nhặt nhạnh về, đổi cho các cháu lấy cóc, nhái. Cũng đề ra tiêu chuẩn hẳn hoi. Một vỏ bao ba số đổi 3 con cóc hoặc 5 con nhái. Các loại khác 2 cóc, 3 nhái. Bởi vậy tôi mới nói là hàng đối lưu, chú hiểu chưa. Mỗi tháng tôi chỉ cần ba bốn chục cái vỏ bao là thừa chất đạm, mà là loại đạm cao cấp… Hôm nào chú về tôi gửi biếu cô, chú Cung, mỗi nhà mấy viên nếm thử. Cô chú ăn thịt cóc của tôi rồi sẽ thấy các thứ thịt khác đều nhạt hoét!”.

Anh rót rượu, chọn gắp viên chả cóc, nhái bỏ vào bát cho tôi, ân cần, âu yếm, trang trọng, làm tôi ứa nước mắt. Anh hỏi: “Chú đi đâu mà lại lặn lội về tận đây, vào lúc tết nhất sắp đến nơi?”. “Em về đây chỉ một mục đích là thăm anh. Hơn hai năm nay không thấy anh lên Hà Nội, chúng em rất lo. Không biết anh ốm đau gì, liệu anh có còn sống không? Về đây thấy anh vẫn khoẻ mạnh, em rất mừng… Anh là nhân chứng của một quá khứ hào hùng của đất nước. Nếu anh chết đi, tàn lụi như cỏ cây, không nhắn gửi gì lại cho các thế hệ sinh sau, theo em là một tổn thất không gì bù đắp được…”.

Tôi lấy đưa anh xem số tài liệu liên quan đến ngày Đại lễ mồng 2 tháng 9 năm 1945, vừa sao chụp: [“Em suy luận ra anh là Trưởng] ban Tổ chức Ngày Độc lập như trong tư liệu hiện còn giữ được. Em muốn được tận tai nghe anh kể lại những kỉ niệm, những hồi ức mà anh cho là sâu sắc nhất… mà nếu anh không dùng đến thì cho em xin”.

*

Anh im lặng rất lâu, dùng đũa tém lại những mảnh vụn thịt cóc, nhái trong đĩa, gắp bỏ vào bát mình những mảnh khác rớt xuống mâm ván. Anh chăm chú nhìn vào cái đĩa đã tém gọn, như đang gắng đọc những hồi ức in lại trong lớp men sành… Anh chợt nói, mắt vẫn không rời cái đĩa:

“Thấm thoắt thế mà đã bốn mươi bảy năm trôi qua… Tôi còn nhớ như in ngày hôm đó là ngày 28 tháng 8… Tại sao tôi nhớ, vì đó là thời khắc lịch sử phải được tính từng phút một… Năm đó tôi bước vào tuổi băm ba. Chính phủ cách mạng lâm thời họp tại Bắc Bộ phủ, để quyết định ngày lễ ra mắt quốc dân đồng bào…

Hôm đó, tôi có việc cần phải giải quyết gấp, nên đến nơi thì phiên họp vừa giải tán. Vừa bước lên mấy bậc thềm thì thấy cụ Nguyễn Văn Tố từ trong phòng họp đi ra. Cụ mừng rỡ chụp lấy tay tôi, nói: “Anh vào ngay đi, cụ Hồ đang đợi anh trong đó”. Tôi theo cụ Tố vào phòng họp. Đó là lần đầu tiên tôi được gặp mặt ông Cụ.

Ông Cụ ngồi ở ghế tựa, mặc bộ quần áo chàm, tay chống lên ba toong. Cụ Tố kéo tôi lại trước mặt Cụ, giới thiệu: “Thưa Cụ, đây là ông Nguyễn Hữu Đang, người mà phiên họp quyết định cử làm Trưởng ban Tổ chức ngày lễ”. Cụ Hồ nhìn tôi một lúc với cặp mắt rất sáng, cặp mắt mà về sau này nhân dân cả nước đồn rằng có bốn con ngươi – như muốn cân nhắc, đánh giá người mà Cụ quyết định giao trọng trách.

Cụ hỏi tôi với giọng Nghệ pha, rất giống giọng cụ Phan Bội Châu mà có lần tôi đã được nghe: “Chính phủ lâm thời quyết định làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào vào ngày mồng hai tháng chín. Chú có đảm đương được việc tổ chức buổi lễ không?”. Tôi tính rất nhanh trong đầu: tháng 8 có 31 ngày, như vậy là chỉ còn 4 ngày nữa thôi... Tôi suy nghĩ cân nhắc trong từng phút. Hình dung ra tất cả những khó khăn như núi mà tôi phải vượt qua... để tổ chức được một ngày đại lễ như vậy, trong khi mình chỉ có hai bàn tay trắng. Tôi nói với Cụ Hồ: “Thưa Cụ, việc cụ giao là quá khó vì gấp quá rồi”. Cụ Hồ nói ngay: “Có khó thì mới giao cho chú chứ!”.

Anh Đang ngẩng phắt lên nhìn tôi. Vẻ già nua cùng quẫn trên con người anh như được trút bỏ hết. Dáng dấp oai phong, khí phách của người chiến sĩ cách mạng luôn luôn đứng ở hàng xung kích lại hiện nguyên hình.

“Như chú biết đấy - giọng anh vụt trở nên sang sảng – tôi là một nhà tuyên truyền, động viên thiên hạ, chuyên nghiệp. Thế mà lần này tôi lại bị ông Cụ động viên một cách tài tình, bằng một lời thật ngắn gọn, giản dị! Nghe ông Cụ nói vậy lúc đó tôi thấy trong con người mình bừng bừng khí thế, muốn lập nên được những kì tích, những chiến công thật vang dội... Tôi nói với ông Cụ: “Thưa Cụ, Cụ đã nói như vậy con xin nhận nhiệm vụ. Con xin hứa sẽ cố gắng hết sức để hoàn thành trọng trách”. Cụ Hồ đứng lên, bắt tay tôi, dáng bộ, gương mặt nom rất vui vẻ, bằng lòng: “Thế thì chú trở về bắt tay ngay vào việc đi. Đến sáng ngày kia, chú đến đây báo cáo với tôi công việc được tiến hành như thế nào”.

Tôi chào Cụ, ra về, lòng rạo rực lâng lâng... Nhưng khi vừa bước xuống hết những bậc thềm rộng thênh thang của Bắc Bộ phủ, tôi chợt nghĩ ra một điều. Tôi liền quay trở lại phòng họp. Cụ Hồ vẫn còn đứng đó. Cụ hỏi ngay: “Chú còn cần gì nữa?”. “Thưa Cụ, để hoàn thành trọng trách, xin Cụ trao cho con một quyền...”. “Quyền gì, chú cứ nói đi!”. “Thưa Cụ, quyền được huy động tất cả những gì cần thiết cho buổi lễ, về người cũng như về của...”. “Được, tôi trao cho chú cái quyền đó. Nếu ai hỏi huy động theo lệnh của ai, cho phép chú được trả lời: Theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh!”.

Công việc đầu tiên là tôi thảo một thông cáo ngắn gọn – anh gắp thêm mấy viên chả cóc trong bát hương, bỏ ra đĩa rồi kể tiếp - Nội dung như sau: Ngày 2 tháng 9 năm 1945. Chính phủ cách mạng lâm thời sẽ làm lễ ra mắt quốc dân đồng bào, tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Đồng bào nào có nhiệt tâm, muốn đóng góp sức, góp của vào việc tổ chức ngày lễ lịch sử trọng đại này, xin mời đến Hội quán Trí Tri phố Hàng Quạt gặp Ban tổ chức. Thông cáo được gửi ngay đến tất cả các báo hàng ngày, yêu cầu đăng lên trang nhất, với hàng tít thật lớn chạy hết trang báo.

Sáng hôm sau, đồng bào tập hợp trong ngoài chật kín Hội quán. Người ghi tên vào các công tác, người góp tiền, góp vàng, góp vải vóc, gỗ ván. Nhiều người từ chối không lấy giấy biên nhận: “Biết bao anh hùng, liệt nữ đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, đâu có lấy giấy biên nhận“, họ nói vậy. Tôi mời mọi người dự cuộc họp chớp nhoáng, và đưa ra ý kiến: Việc cần thiết trước tiên là phải dựng một lễ đài Độc lập thật đẹp, thật lớn, thật uy nghi, xứng đáng với ngày lịch sử trọng đại này, tại trung tâm vườn hoa Ba Đình để Chính phủ cách mạng lâm thời đứng lên ra mắt. Vậy đồng bào nào hiện có mặt tại đây có thể đảm nhiệm trọng trách đó?

Một người trạc ngoài ba mươi, ăn mặc lối nghệ sĩ, đeo kính trắng, bước ra nói: “Tôi là hoạ sĩ Lê Văn Đệ (1). Tôi xin tình nguyện nhận việc dựng lễ đài. Trưa nay tôi sẽ mang bản phác thảo lễ đài đến ban tổ chức xem xét”. Tôi bắt tay hoạ sĩ, nói: “Tôi được biết tên tuổi anh từ lâu và cũng nhiều lần được xem tranh của anh. Tôi xin thay mặt Ban tổ chức hoan nghênh nhiệt tâm đóng góp của anh. Nhưng Lễ đài Độc lập là một công trình kiến trúc, tuy dựng gấp rút, tạm thời, nhưng phải đạt những tiêu chuẩn không thể thiếu của nó như sự vững chắc, sự hài hoà công trình với tổng thể... Nói ví dụ nếu như không vững chắc, mấy chục con người đứng lên, nó đổ sụp xuống thì ngày lễ coi như thất bại. Bởi vậy cần một kiến trúc sư phối hợp với anh”.

Một người trẻ tuổi ăn vận chỉnh tề, từ trong đám đông bước ra, tự giới thiệu: “Tôi là kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh (2), cùng hoạt động trong Hội Văn hoá Cứu quốc với anh Phạm Văn Khoa. Hôm qua tôi được anh Khoa cho biết ý đồ của Ban tổ chức, tôi đã vẽ xong bản đề án thiết kế lễ đài”. Anh Quỳnh trải cuộn giấy can cầm sẵn trên tay lên mặt bàn. Đó chính là toàn cảnh lễ đài Độc Lập mà sau này chú được nhìn thấy in hình trên báo chí. Bản vẽ thật đẹp, thật chi tiết, tỉ mỉ... Lễ đài với tổng thể vườn hoa Ba Đình, vị trí dựng lễ đài, chiều cao, chiều rộng, mặt bằng, mặt cắt ngang, cắt dọc lễ đài, độ lớn các xà gỗ, tổng diện tích mặt ván ốp lát v.v... Sau khi nghe anh Quỳnh thuyết trình, tôi xem xét, cân nhắc rồi đặt bút ký duyệt bản thiết kế, đóng dấu Ban tổ chức.

Tôi nói với anh Lê Văn Đệ và anh Ngô Huy Quỳnh: “Ban tổ chức quyết định giao việc này cho hai anh. [Các anh cần gì, chúng tôi] sẽ lo chạy đầy đủ, Hiện nay chúng tôi có một kho ba ngàn thước len đỏ (3), cần dùng bao nhiêu các anh cứ lấy dùng. Lễ đài phải được dựng xong trong vòng 48 giờ đồng hồ. Đúng 5 giờ sáng ngày mồng 2 tháng 9, tôi sẽ đến nghiệm thu. Chúc các anh hoàn thành nhiệm vụ”.

Sáng ngày 31 tháng 8, tôi đến Bắc Bộ phủ gặp Cụ Hồ như Cụ đã chỉ thị. Sau khi nghe tôi báo cáo ngắn gọn, đầy đủ về tất cả mọi việc có liên quan tới ngày lễ, Cụ nói giọng hết sức nghiêm trang: “Chú phải nhớ ngày Mồng hai tháng Chín tới sẽ là một ngày lịch sử. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà”.

*

“Ông Đang ơi! Ông Đang ơi!”, tiếng con nít gọi nheo nhéo ngoài cửa, ngắt ngang câu chuyện của anh. Tôi nhìn ra, thấy hai chú bé chạc 9, 10 tuổi, mỗi chú cầm một cành tre, đầu cành tre thõng thượt một con rắn nước, mình nhỏ bằng chuôi dao, đầu bị đập dập còn rỉ máu tươi: “Ông có đổi rắn nước không ạ?”. Anh Đang bỏ đũa bước ra cửa, xem xét cẩn thận hai con rắn nước, rồi hỏi: “Các cháu định đổi như thế nào?”. “Ông cho cháu mỗi con hai cái vỏ bao ba số”.

“Các chú đừng có giở thói bắt chẹt”, giọng nói và dáng bộ của anh đã chuyển sang giọng của dịch vụ đổi chác, “mỗi con rắn này chỉ giá trị bằng hai con cóc. Nhưng thôi, thì ông cũng đành chịu thiệt vậy, mỗi con một vỏ bao ba số, các chú có đổi thì đổi, không đổi thì thôi”. Hai chú bé ngần ngừ một lúc, rồi nói: “Chúng cháu đổi ạ”. Anh quay vào mở khoá tủ, chọn lấy ra hai cái vỏ bao ba số, đưa cho mỗi chú một chiếc, và cầm lấy hai con rắn. Hai chú bé cũng xem xét hai cái vỏ bao cẩn thận không kém ông Đang xem xét hai con rắn. Một chú nói: “Ông đổi cho cháu cái vỏ bao khác, cái này bên trong không có tờ giấy vàng”. Anh cầm lấy cái vỏ bao xem lại, cười: “Được, ông sẽ đổi cho vỏ bao khác. Sau này chú mà làm cán bộ thu mua thì Nhà nước sẽ không phải chịu thua thiệt”.

Anh cầm hai con rắn bỏ vào cái rổ con ở góc nhà, mặt tươi hẳn lên, như người buôn bán vừa vớ được món hời: “Thịt rắn còn bổ hơn thịt nhái. Tối mai tôi sẽ đãi chú món rắn om riềng mẻ. Ăn vào chú sẽ [khoẻ, bơi qua sông không cần phà] Tân Đệ”.

*

Tôi ở lại chơi với anh Đang ba ngày, thuê một anh phó nháy ở xã trên xuống chụp mấy pô ảnh làm kỉ niệm. Bữa cơm tiễn tôi, anh có vẻ buồn. Vừa dùng đũa tém tém mấy khúc rắn om mặn chát nổi muối trong đĩa, anh vừa nói: “Hiện nay tôi đang cố gắng hoàn thành thiên hồi ký thuật lại tất cả những gì có liên quan đến thế sự, kể từ khi tôi bước chân vào con đường hoạt động cách mạng cho đến những năm tháng gần đây... Trong hồi ký, tôi sẽ đề cập đến những việc mà từ trước đến nay tôi chưa hề tiết lộ với ai. Ví dụ như bản thảo Tuyên ngôn Độc lập Cụ Hồ viết... còn hay mất, nếu còn thì bây giờ đang ở đâu... Hoặc cụ định sửa hai câu trong bản Tuyên ngôn, nhưng không kịp vì bản chính đã đưa in mất rồi. Là Trưởng ban Tổ chức ngày lễ, tôi phải phụ trách việc in ấn những tài liệu có liên quan đến vận mệnh đất nước này, nhưng ... như chú biết đấy, hiện nay trong Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như Bảo tàng Lịch sử, không có bản thảo Tuyên ngôn Độc lập ... Tôi sợ sẽ làm không kịp mất, gần tám chục tuổi đầu rồi còn gì, mà lại không có điều kiện làm việc, ban đem coi như chịu chết, đèn đóm tù mù, đúng là đóm thật”...

Anh im lặng một lúc lâu, rồi ngẩng lên nhìn tôi, hỏi tiếp: “Chú có biết điều lo lắng nhất của tôi hiện nay là gì không?”. Không đợi tôi đoán, anh nói luôn: “Tôi lo nhất là không biết chết ở đâu. Lúc sống thì tôi ở nhờ nhà ai chẳng được, ở đây cũng như ở trên Hà Nội... Nhưng lúc chết thì người thân mấy cũng làm phiền người ta. Có ai muốn một người không phải ruột rà máu mủ lại nằm chết trong nhà mình? Ngay cả cái chái bếp này cũng vậy, tôi nằm chết sẽ làm phiền đến nhà trường, các thày các cô, các cháu học sinh... Bởi vậy mà hai năm nay tôi không muốn lên Hà Nội. Ở đây, tại quê hương bản quán, tôi đã chọn sẵn chỗ để nằm chết... Chú ra đây tôi chỉ cho, đứng ở đây cũng nhìn thấy...”.

Tôi theo anh ra đứng trên cái trụ xi măng cầu ao cá. Gió mùa đông bắc lạnh thấu xương thổi thốc vào mặt hai anh em. Anh chỉ tay về phía một búi tre gần cuối xóm, đơn độc giữa cánh đồng, ngọn tre đang vật vã trong gió buốt. “Đấy, dưới chân búi tre ấy có một chỗ trũng nhưng bằng phẳng, phủ đầy lá tre rụng, rất vừa người tôi... Tôi sẽ nằm đó chết để khỏi phải phiền ai... Tôi đã chọn con đường ngắn nhất để có thể bò kịp đến đó, trước khi nhắm mắt xuôi tay...”

Trở vào nhà, cả người tôi nổi gai, ớn lạnh, chắc là bị cảm... Tôi dốc hết rượu ra bát uống ực một hơi chống lạnh. Rượu vào lời ra, tôi cất giọng ngâm to mấy câu thơ của Phùng Cung gửi tôi mang về tặng anh:

...Mặt va giông chớp
Rạc mái phong lưu
Gót nhọc men về thung cũ
Quỳ dưới chân quê
Trăm sự cúi đầu
Xin quê rộng lượng
Chút thổ phần bò xéo cuối thôn.


PHÙNG QUÁN - Tháng 12.1992 (4)

(*): Bản in này căn cứ vào bản thảo 19 trang viết tay của Phùng Quán. Một vài trang chụp thiếu một hai dòng chót. Chúng tôi phải khôi phục lại đoạn câu bị mất nhưng vẫn để trong ngặc vuông (chú thích của NXB Văn Nghệ)

(1): Họa sĩ Lê Văn Đệ (theo tạp chí Bách Khoa Sài Gòn 1963) sang La Mã, được phong hoạ sư, được chính Giáo hoàng Pie XI giao cho trang hoàng điện Vatican (chú thích của tác giả)

(2): Kiến trúc sư Ngô Huy Quỳnh sau này có thời là Thứ trưởng Bộ Xây dựng (chú thích của tác giả)

(3): Số len này lấy được ngày 19-8-1945, khi tấn công chiếm Trại lính khố đỏ ở phố Hàng Bài (chú thích của tác giả)

(4): Năm 1993, ông Nguyễn Hữu Đang đã được cấp nhà ở Hà Nội và được hưởng lương hưu. Bài viết này giúp độc giả hiểu thêm về một chi tiết cụ thể của lịch sử Cách mạng tháng Tám và tấm lòng nhà văn Phùng Quán (chú thích của NXB Văn Nghệ)
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Nguyễn Hữu Đang

3/3 - Hằng Nga thức dậy

Phùng Quán.

Sau ngày hòa bình lập lại, truyện ngắn Con ngựa già của Chúa Trịnh, với bức minh họa tuyệt đẹp của họa sĩ Bùi Xuân Phái, đã làm xôn xao làng văn ngày đó. Chính bắt đầu từ cái truyện ngắn này anh đã mang thân vào cái nghiệp văn, ở anh cũng đáng coi là nghiệp chướng.

Anh còn một tập truyện ngắn, đâu như tám truyện thì phải, cũng một dòng "ngựa, voi", chưa kịp ra mắt bạn đọc thì đã bị cái khách quan khắc nghiệt "bảo lưu" cùng với tài năng của tác giả. Truyện nào viết xong anh cũng đưa tôi đọc. Truyện nào cũng làm tôi say mê vì vẻ đẹp của ngôn từ. Cái kho ngôn từ dân dã của anh dường như vô tận. So với tất cả văn xuôi của tôi đã in ra, tôi có cảm giác mình là người nước ngoài viết tiếng Việt.

Sau mười hai năm cách ly đời thường, Phùng Cung như xa lạ với môi trường văn nghệ. Được trả lại tự do, việc đầu tiên là anh cùng với vợ sửa lễ "Tạ ơn cao rộng cho được sống để trở về quê quán". Rồi yên phận hẩm hiu, anh tránh thật xa mùi bút mực. Anh xoay trần làm nghề đập đinh, phụ với vợ thêm nghề bánh rán, nuôi ba đứa con trai đang sức ăn, sức lớn. Song hình như mùi dầu nhờn, gỉ sắt, mỡ rán vẫn không át được mùi bút mực. Những lúc rảnh tay, anh ngồi buồn thiu, thỉnh thoảng chấm ngón tay vào đáy chén trà cặn, viết một từ gì đó lên mặt bàn…

Tôi thường đạp xe từ Nghi Tàm lên phố Mai Hắc Đế thăm anh, khi mang cho con diếc, con trôi vừa câu trộm được, khi mang mớ rau muống cấy ở vệ hồ, trong khi đó, thật bất ngờ, anh sáng tác thơ.

Đọc thơ anh, có bài chỉ vài câu, tôi bỗng thấy thiên nhiên quanh tôi vụt giàu có lên bất ngờ và trở nên đẹp đẽ đến xao xuyến tận đáy lòng - những vẻ đẹp từ trước đến nay tôi vẫn nhìn nhưng không thấy.

Mới đây, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam quyết định trích quỹ sáng tác của Hội làm món quà tặng sáu hội viên (trong đó có tôi) đã phải chịu nhiều thiệt thòi trong 30 năm qua: Hội in cho mỗi người một tập thơ bao cấp, tác giả tự chọn những bài thơ vừa ý trong thơ mình, dày từ hai trăm trang trở lại. Năm anh bạn đang dựng bản thảo. Tôi cả đời chưa bao giờ được in riêng một tập thơ càng hăm hở chuẩn bị.

Và bản thảo đã chuẩn bị xong, chỉ còn mang đến nộp. Trước khi nộp tôi đem đến anh Cung để tranh thủ một vài nhận xét. Nhân dịp này tôi đã dại dột đọc lại lại tập thơ tích lũy của anh. Đọc xong, lòng hăm hở của tôi chùng lại. Tôi không còn muốn in thơ nữa! Tôi tự nhủ: in làm gì khi chưa có cặp mắt biết nhìn như Phùng Cung? Chúng ta hãy cần đọc không cần chọn:

Mùa gieo mạ

Thoảng mùi ruộng ải
Thóc giống cựa mình
Nắng vắt ngọn tre đuôi én
Đủng đỉnh điệu cu cườm
Lay nhịp gió may


Nắng dứ

Đầu mùa nắng dứ
Hạt mồng tơi rơi kệnh đất
nghe trời
Chuối con gái vội hong
búp lụa
Cánh chuồn chuồn lia từng
bóng râm con.



Dưới mắt anh, cảnh vật hiện ra sinh động đến thế! Ngòi bút tôi đâu còn dám đua chen.

Thấy tôi chán nản, anh Cung động viên khéo: "Thời cơ chế thị trường, dư luận khách hàng mới là khuôn vàng thước ngọc. Hãy cứ cho ra, rồi lắng nghe dư luận".

Trái với tình thế của tôi có điều kiện in rồi mà còn đắn đo, tình thế của anh Cung lại là muốn in mà không có điều kiện. Anh dí dỏm gọi mỉa mai tập bản thảo thơ anh là "Hằng Nga ngủ trong rừng".

Như mọi người đã thấy, ngày nay ở nước ta xuất bản thơ là việc khó khăn lắm. Bạn muốn in thơ? Xin mời! Cứ việc bỏ tiền ra mà in. Nhà xuất bản chỉ có thể tham gia bằng cách chịu một phần trách nhiệm về nội dung và đứng ra xin giấy phép xuất bản, với điều kiện bạn trả tiền lệ phí. Một nhà thơ nghèo như Phùng Cung, năm nay đã sáu mươi nhăm tuổi, có lẽ đến lúc "chọn đất sạch dọn mình vào vĩnh viễn" cũng không hy vọng thơ mình được người đọc thưởng thức qua những dòng chữ in. Hằng tháng, chỉ với mâm cơm gia đình "bốn mùa rong ruổi chốn rau dưa" cộng thêm vài chục nghìn tiền điện, dăm nghìn tiền nước, chị Thoa vợ anh cũng đã phải tất tả chạy giật nóng quanh bà con lối xóm. Thơ anh đành nằm chờ…

Nhưng tôi quyết tâm in bằng được thơ anh. Tôi sẽ đi khắp Trung, Nam, Bắc đọc rong thơ của anh và quyên góp tiền. Tôi ước tính muốn đủ tiền để in hai trăm bài thơ ngắn, tôi sẽ phải đi đọc thơ và quyên tiền đến một năm, trong khi đó bao nhiêu chuyện có thể xảy ra làm cho công việc thêm phức tạp. Quá trình phấn đấu hẳn phải chia thành nhiều đợt đi đi, về về…

Nhưng tôi đã gặp một chuyện bất ngờ. Một hôm, trong bữa cơm gia đình có anh Nguyễn Hữu Đang dự, tôi nói:

- Em sắp đi xa, vắng nhà chừng khoảng một năm. Anh nhớ luôn luôn đến nhà em ăn cơm với vợ con em cho vui.
- Chú có công chuyện gì mà phải xa nhà lâu thế?
- Em đi đọc thơ rong, quyên góp tiền để in cho anh Phùng Cung tập thơ. Cả một đời gian khổ vì cái nghiệp bút mực, anh ấy chỉ có một ước vọng được in một tập thơ để tặng bạn hữu và góp mặt với đời trước khi vĩnh biệt chúng ta.
- Tôi gặp chú Cung luôn, sao không thấy chú ấy nói chuyện này với tôi?
- Anh Cung không nói, em cho là anh ấy nghĩ có nói anh cũng không giúp được gì, chỉ làm anh thêm bận tâm.
- Tập thơ chú Cung đâu, chú đưa tôi xem.

1604302323085.png


Vợ chồng Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang và Phùng Cung

Anh Đang đọc chăm chú hết tập thơ. Anh khẽ gật đầu có mái tóc ngắn quen thuộc, nói:

- Tôi không ngờ thơ chú Cung khá thế. Theo tôi còn khá hơn văn xuôi chú ấy. Bây giờ thế này chú Quán nhé: chú không phải đi đâu hết. Tôi sẽ cho chú Cung tiền để in tập thơ.

Tôi trợn tròn mắt:

- Thơ không rẻ như bèo đâu anh ơi! In một tập thơ vài trăm trang với hình thức chỉ xoàng xoàng thôi, anh có biết phải mất bao nhiêu tiền không? Từ hai triệu đến hai triệu rưỡi đấy!

Tôi tưởng anh phải tái mặt tưng hửng trước số tiền mà tôi vừa thông báo. Anh vẫn bình tĩnh lật lật những trang thơ, đọc lại một vài bài vừa rồi chưa đọc kỹ, rồi chậm rãi nói:

- Tôi sẽ cho chú Cung đủ tiền để in, dù có tốn như chú vừa nói.

Không để tôi hỏi anh lấy đâu ra tiền, anh giải thích luôn:

- Tôi cho chú ấy dùng tất cả số tiền tôi dè sẻn từng đồng dành dụm được trong hai mươi năm qua, nhất là từ bốn năm trở lại đây tôi có lương hưu, lại được những anh chị em cùng hoạt động hồi Mặt trận dân chủ, Hội truyền bá quốc ngữ, Hội văn hóa cứu quốc, các Đội tuyên truyền xung phong chống Pháp, ngành Bình dân học vụ cùng những bạn bè xa gần, biết tôi còn sống và nghèo khổ, kẻ ít người nhiều họ gửi tiền đến giúp đỡ. Ngoài những khoản chi tiêu cần thiết hằng tháng, còn lại bao nhiêu tôi gửi tất cả vào quỹ tiết kiệm ngân hàng phòng xa phải dựng túp lều khi không còn ai cho ở nhờ, phòng xa lúc ốm nặng kéo dài, phòng xa cả lúc chết nữa. Nhờ vậy mà số tiền tiết kiệm của tôi cho đến hôm nay đã lên tới hơn bốn triệu đồng. Sổ tiết kiệm đây…

Anh móc túi áo bộ đội cũ mặc bên trong, lấy ra cuốn sổ bọc trong ba lần giấy nhựa bóng, chằng ngang dọc bốn dây cao su. Anh đặt sổ trước mặt tôi và bảo:

- Chú giữ lấy. Tôi sẽ làm giấy ủy quyền cho chú rút tiền ra sử dụng. Nếu số tiền này chưa đủ, tôi sẽ về quê đòi vài tạ thóc cho vay, bán đi rồi gửi thêm tiền cho chú. Tôi yêu cầu tập thơ phải in thật đẹp, mà đẹp giản dị, thanh nhã, chứ không rườm rà, lòe loẹt như nhiều tập thơ đang bày bán.

Không hiểu sao nghe anh nói tim tôi hồi hộp và cổ tôi như nghẹn ngào. Tôi được quen biết anh đã gần bốn mươi năm nhưng cho mãi tới hôm ấy tôi mới thật hiểu anh là người như thế nào. Nguyễn Hữu Đang là người nếu chi dùng cho bản thân thì một trăm đồng ba quả khế chua để gội đầu (thay chanh mà anh sợ đắt) cũng tiếc tiền, bất đắc dĩ mới phải mua, nhưng đã là việc nghĩa hiệp thì sẵn sàng san sẻ đến đồng tiền cuối cùng.

Thế đấy. Nếu bản thảo thơ Phùng Cung là "Hằng Nga ngủ trong rừng" thì tấm lòng trợ giúp vô tư của Nguyễn Hữu Đang chính là "Hoàng tử đẹp trai" đến đánh thức.

Và nhất định tập Xem đêm sẽ ra đời. [1]

1604302491614.png


Xem Đêm - Phùng Cung


Hà Nội ngày 20 tháng 11 năm 1994

[1]Sau khi nhà thơ Phùng Quán từ trần (tháng 1/1995) tập thơ của Phùng Cung đã được xuất bản. Bài này ông Quán viết để in vào tập Xem đêm làm lời cuối sách song nhà xuất bản đã không thực hiện được. Sau đó ông Quán đã cho đăng trên một tờ báo bên Pháp.
 
Chỉnh sửa cuối:

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Bác Sỹ Nữ - Bác Sỹ Nam

Khi chị đi học, đi làm ở bệnh viện trong và ngoài nước, chị phải đối diện thường xuyên với việc bệnh nhân thích và tin vào hoặc là bác sĩ nam hoặc bác sĩ lớn tuổi. Nhưng chị chưa bao giờ ước một ngày nào đó mình được hoán đổi vị trí với các đồng nghiệp khác giới để mong được nhìn nhận, đánh giá đúng với thực lực của mình hơn, vì chị luôn nhớ về bài học đầu tiên, bài học khiến chị bỏ hết những môn Xã Hội sở trường khi còn phổ thông, để theo một ngành mà chị quá đỗi yêu thương. Nó bắt đầu trong năm cuối cấp 3 khi chị phụ việc cho phòng khám của mẹ chị.

1604503459514.png


Chị nhớ về một buổi tối nọ, khi chị đang bận sắp xếp hồ sơ bệnh án thì mẹ chị nhận được một người bệnh xơ gan nặng, bụng phình to và da vàng vọt, nhiều nơi tiên lượng không sống khỏi một năm. Ông bước vào với khuôn mặt vô hồn mà chị cảm giác là năng lượng đã bị hút cạn khỏi cơ thể ông, chỉ để lại một cảm xúc lạnh lẽo cuối cùng: chờ chết.

Mẹ chị nhẹ nhàng mời ông ngồi xuống, điềm tĩnh nói chuyện như với một người mới quen chứ không phải người bệnh nặng giai đoạn cuối. Mẹ lắng nghe ông nói, chờ đợi khi ông im lặng và từ tốn tiếp chuyện khi ông hỏi. Sau một lúc lâu, mẹ mới bắt đầu khám bệnh. Mẹ chỉ đơn giản nói cho ông nghe về các chọn lựa điều trị, tiên lượng của mỗi chọn lựa, được gì mất gì, kế hoạch mẹ chị sẽ dành cho ông như thế nào. Cuối cùng, trước khi ông rời đi, mẹ bảo ông đừng giữ cái lo cho mình nữa, mà từ giờ, để đó tui lo phụ cho.

Chỉ qua một buổi khám ngắn ngủi, bệnh nhân bước ra cũng y chang như khi bước vào, duy chỉ có một thứ thay đổi, tuy rất khó nhận ra nhưng chị thấy mắt ông ấy long lanh hơn rất nhiều. Và tới giờ đã hơn 10 năm trôi qua, bệnh nhân kia da đã hết vàng, bụng xẹp đi nhiều và quan trọng nhất, ông vẫn còn sống.
 

LeTai1979

Xe ngựa
Biển số
OF-52024
Ngày cấp bằng
2/12/09
Số km
25,574
Động cơ
1,827,048 Mã lực
Nơi ở
Nhà
Chuyện tử tế của em: Đến ngã tư đèn xanh đi thẳng nhưng đèn đỏ cấm rẽ trái, em mắt lác thế nào vẫn rẽ trái, quá đc 1 tí mới nhận ra mình đã sai, phía trước là 2 chú áo vàng đang đứng, em xác định tinh thần luôn, mạnh dạn phi thẳng đến chỗ các chú trước khi bị vịn, dừng phát trước mặt các chú, mắt chớp chớp hỏi: Anh ơi, cho em hỏi đường đến phố ABC...ạ? Thế là được các chú chỉ bảo tận tình, sau đó nhắc nhở vừa vượt đèn đỏ và cho đi =))
Chuyện này cách đây chục năm hồi em còn trẻ, giờ già rồi biết chớp chớp mắt ko ăn thua nên 1 lần vội đi đón con em lỡ vượt tí đèn đỏ (khi còn 3s nữa là xanh), em bị 1 anh áo vàng vẫy vào. Xong con ong. Xác định nghiêm chỉnh nộp phạt mà đi. Anh ý bảo mời chị tắt máy dắt xe vào đây. Em tắt máy, vẫn ngồi trên xe ủn xe vào vỉa hè, anh ý lại bảo mời c xuống dắt không ngồi trê xe, em vẫn ko để ý tiếp tục ủn vào - thật ra là vì em lười xuống, tác phong Đại Lãn quen thân 😂. Thế là anh ý cáu, quát rõ to: Ơ cái chị kia, tôi đã nói chị xuống xe dắt cơ mà!!
Eo, lúc ấy em mới ý thức được mình đang hơi...ko được nghiêm túc lắm, mà anh CA mặt đang đỏ gay, em hết hồn - nhưng cái khó ló cái khôn em tình bơ nói : “Nhưng em ko xuống xe được. Em đang đến ngày đèn đỏ bị dây ra yên xe, anh cứ cho em ngồi trên xe.” - Ý định là để anh ấy thông cảm ko cáu cái thái độ của em thôi, ai dè anh ấy bẩu: Thôi thế mời chị đi luôn đi, đi nhanh đi nhanh!!
Các cụ thấy các anh CA có tử tế dễ thương ko :P
Thế này là lừa chứ tử tế gì?
 

LienPhuong

Xe điện
Biển số
OF-403748
Ngày cấp bằng
3/2/16
Số km
2,841
Động cơ
257,088 Mã lực
Vào diễn đàn thấy nhiều thứ đọc đau đầu như bệnh nhân covid 17 tiếp tục dậy sóng, đạp chân ga nhầm vào bố chồng, 4 học sinh gây tai nạn rồi còn hành hung người, đánh ghen LX 570. Em post những câu chuyện tử tế đời thường. Bác nào có thì post thêm.

CHUYỆN CSGT ĐÀ NẴNG

- CSGT: Em vi phạm, bọn anh sẽ xử lý, em có ý kiến gì không?

- Mình: Xin xỏ, mặt tội nghiệp

- CSGT: Thấy cảnh sát đứng đây còn lấn vạch. Phạt một lần cho chừa!

- Mình: Dạ, em biết lỗi mà đường đông em không để ý. Anh tha cho em lần này.

View attachment 5497185

- CSGT: Giờ muốn tha phải không?

- Mình: Dạ

- CSGT: Chú mi khôn rứa? Giờ mi chạy bộ thêm một đoạn chỗ ni kiểu chi cũng gặp cái bà bán singum, bút đồ đó. Qua mua 50.000 đồng cái chi cũng được. Đem qua đây anh tha. Chiều chừ bà đi miết nhưng không bán được cái gì. Nhanh lên.

- Mình: Mua chi anh?

- CSGT: Kệ chú, nhanh...không tìm được bà là chú khỏi về đó.

(Mình chạy theo bà mua 5 phong kẹo cao su rồi đem qua cho anh CSGT và nói: “Đây anh. Anh chơi kiểu ni lần đầu em thấy đấy”).

- CSGT: Anh xin một cái nghe. Lỗi ni anh phạt chú mà thôi coi như chú cũng ngoan. Thôi đi đi. Lần sau nhớ chú ý.

---
Nguồn: Đà Nẵng Trong Tôi/Đường chúng ta đi
23 likes cho thấy dân mình gian và khôn vặt hết phần thiên hạ ☹
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
THIỆN Ý MỘT CÂU ẤM BA ĐÔNG

Hồng Tuyên
October 24 at 11:56 PM


Nhớ cách đây hơn 2 năm, mình cần gửi một túi quà đến địa chỉ gần nhà. Chắc tiền cước ít quá, chỉ mười mấy ngàn nên 2 booking liên tiếp đều bị hủy. Lần book thứ 3, anh grab ấy xuất hiện.

Khi nghe mình kể trước anh đã có 2 người hủy chuyến, anh ấy bảo: đó giờ chạy grab hơn 3 năm, em chưa chê 1 cuốc nào, dù chỉ 5-10 ngàn. Trò chuyện thêm ít câu, anh tâm sự là thầy giáo quê miền Trung, do chưa có hộ khẩu nên không được vào biên chế chính thức. Hàng ngày, anh ăn mặc lịch sự đến trường ngồi đợi, hễ có thầy cô nào bận việc đột xuất thì trường sẽ cho anh dạy trám giờ dùm.

Dĩ nhiên, kiểu dạy cầm chừng vậy thì thu nhập chả bao nhiêu, anh sống nhờ vào những cuốc xe grab mỗi chiều tới tối mịt.

Hỏi thăm gia cảnh, anh ngượng ngùng tâm sự: em sống với mẹ già ở nhà trọ chị à. Nghèo quá nên không dám tiến tới với ai; sợ người ta chê, mà cũng sợ mình không lo được cho người ta.

Nghe thương thương làm sao…

Mình nhớ hôm đó có gửi anh một khoản tiền kha khá và dặn: “nhân hôm nay là trung thu, thôi anh đừng chạy đến khuya nữa. Hãy dùng tiền này mua con gà nướng nay con vịt quay về sớm một hôm ăn bữa cơm đoàn viên cho mẹ anh mừng nhé. Cuộc đời ai cũng có những lúc bất đắc chí, khổ tận thì cam lai. Cũng như đồ thị hình sin, cái gì chạm tới đáy tận cùng thì sẽ đi lên.”

Chia tay anh xong, mình cũng quên luôn sự việc này.

Vậy mà, anh nhớ mãi…

Mỗi năm, cứ đến đầu tháng 9 là anh nhắn cho mình một tin như vậy. Đến khi đó, mình mới biết anh tên Sang.

1605512601338.png


1605512670551.png


1605512728526.png


Vài dòng tin nhắn thăm hỏi sau đó, mình biết được anh đã được trường nhận vào, phân chính thức phụ trách môn toán và cuộc sống đã khá dần lên. Tuy còn khó khăn, anh vẫn dành một phần thu nhập để giúp đỡ bà con đồng hương. Thiệt là đáng quý!

Thật lòng thì chắc 2 bên không nhớ mặt nhau, vì chỉ lướt qua cuộc đời trong một khoảng khắc 2 năm trước. Nhưng có lẽ mình giơ tay ra lúc anh đang khốn khó, nên anh nhớ mãi không quên. Như câu quen thuộc trong các truyện ngôn tình “đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi”, hay ông bà ta vẫn nói “một miếng khi đói bằng một gói khi no”.

Nếu anh có đọc được status này, thì mình muốn nhắn với anh là: trời không phụ lòng ai bao giờ anh Sang ạ. Mong anh sống khỏe, sống tốt để truyền cảm hứng cho các em học trò, và giúp bà con dưới quê có cuộc sống đỡ cơ cực hơn.

Cám ơn anh đã cho mình có thêm động lực để cố gắng sống tử tế với những người khác nữa.
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Vé Máy Bay Hạng Thương Gia

Nguyễn Năng Luân

24-11-2020

Khoảng 5h sáng tại sân bay Tân Sơn Nhất, một người phụ nữ làm thủ tục ở quầy vé. Nhìn là biết người nghèo vì áo quần cũ kỹ, mặt mày hốc hác, tiều tụy, đã vậy lại còn thấp bé, chỉ độ 1,5m. Với thái độ khẩn cầu, chị xin được đổi giờ bay chuyến 6h, nhưng chuyến bay đã hết vé, chỉ còn hạng thương gia. Muốn đổi vé, chị phải bù thêm 1,5 triệu đồng.

Những người xung quanh nhìn một người phụ nữ tiều tụy, nghèo khổ ấy lục túi lấy tiền, những đồng tiền chẵn lẻ khác nhau chứng tỏ được thu gom theo kiểu bỏ ống, nhưng cũng đủ để bù giá vé. Ai cũng ngạc nhiên khi thấy chị quyết định không chút đắn đo, có người còn cười cợt vì cho rằng nghèo mà “chơi sang”. Hầu như chị không quan tâm đến thái độ, ánh nhìn của những người xung quanh, với chị, được đổi giờ bay sớm hơn là quan trọng nhất.

Nam nhân viên giám sát mặt đất như muốn xác định lại: “Chị mua vé hạng thương gia cơ à?”. Chị đáp lại: “Dạ vâng! Chứ mẹ chết thì phải làm sao hả chú?”.

1606191474414.png


Những người xung quanh nghe câu nói của chị đều lặng ngắt và thực sự chia sẻ. Có thể chị không hề biết hạng thương gia là gì, và chị cũng không bận tâm khi phải thêm số tiền không nhỏ đối với chị, để chỉ về với mẹ sớm hơn một giờ. Một giờ thôi nhưng quý báu vô cùng.

Dù chị không kể ra, nhưng ai cũng có thể hiểu chị là công nhân hoặc là người tha phương kiếm sống. Cuộc mưu sinh và cái nghèo không cho chị có cơ hội bên mẹ những ngày đau yếu, chỉ khi tử biệt sinh ly mới tất tả chạy về. “Chứ mẹ chết thì phải làm sao hả chú?”, một câu nói chưa đựng nỗi đau của người con không gặp mặt mẹ trước khi mẹ mất.

Nghe chị nói rõ sự tình xong, nam nhân viên đã chạy đi một lát rồi quay trở lại. Anh nói: “Em đổi vé xong rồi, chị đi đi nhé. Không phải bù thêm tiền bạc gì đâu”. Ngay sau đó, một nữ nhân viên khác gửi lại cho chị 1,5 triệu đồng.

Nhân viên hàng không chứng kiến câu chuyện không giấu nổi niềm xúc động nói: "Tôi lúc này khá mệt mỏi vì thiếu ngủ, nhưng bỗng thấy vui vui trong lòng. Đúng là tình người lúc nào cũng thiêng liêng và cao đẹp…”
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Chuyện Ở Phố Biển Vũng Tàu

Phạm Vũ Lê Anh

24-7-2020

Sáng hôm nay 31 - 7 - 2020 tại thành phố biển Vũng Tàu.

🌲
Mình chỉ kịp rút vội mấy vài tờ bạc lẻ trao vào tay bà cụ vì cô chủ quán nhanh chóng mời bà ra khỏi quán có lẽ sợ phiền khách đến ăn sáng.
Vừa khó nhọc để xoay người di chuyển ra ngoài thì chú ngồi sau bàn mình giữ bà lại, lấy ít tiền bỏ vào bàn tay khô đét đầy gân xanh và đen nhẻm của bà. Chú hỏi rằng bà ăn sáng chưa? Bà khẽ lắc đầu. Chú ấy bảo bà ngồi xuống và mời bà một bữa ăn sáng. Chú hỏi bà ăn gì thì bà bảo gì cũng được, và một phần bánh mì xíu mại được bưng ra ngay sau đó.

🌲
Bà cụ khoảng hơn 90 tuổi, đã yếu lắm rồi. Bà một phần vì già yếu, phần có lẽ vì ngại ngùng nên khi bám tay vào cái bàn để ngồi xuống thì bỗng một tiếng " choang"- cái gậy chống bằng inox đổ xuống sàn khiến rất nhiều người đổ dồn ánh mắt về phía bà, trong đó có ánh mắt khó chịu của cô chủ quán đang đứng thu tiền thì chú ấy (mình chẳng biết tên nên gọi thế) đứng dậy nhanh tay nhặt chiếc gậy lên giúp bà và nói rất bình tĩnh như để trấn an bà cụ, để bà có cảm giác an toàn và có lẽ cố ý tỏ thái độ với cô chủ quán:

"Không sao, bà cứ ngồi xuống ăn tự nhiên không phải nghĩ ngợi, con mời bà mà".

Chú bắt đầu lấy muỗm, dằm mấy viên thịt ra cho bà và đẩy gần về phía bà và nói:" bà muốn ăn thêm thì cứ nói để con gọi thêm nhé".

🌱
Khi cả bà và chú kia đi rồi, mình và gia đình mới dùng xong bữa sáng và lên xe để về lại khách sạn. Hôm nay con trai của mình đã chứng kiến một hành động bác ái, khoan dung và yêu thương thật đẹp đẽ từ hai người chẳng quen biết tại một vùng đất xa lạ. Lòng cảm thấy biết ơn lắm lắm.

🌲
Giữa lúc đất nước và cả thế giới đang lao đao với nạn đại dịch không biết sẽ ra sao, câu chuyện nhỏ này tại một thành phố biển khiến lòng mình ấm áp lạ.

Thiết nghĩ, nếu mỗi chúng ta biết mở lòng ra để đón nhận người khác, biết yêu thương tha nhân như chính mình thì thế giới này sẽ tốt đẹp hơn biết bao.

P/s: Mình kịp lấy điện thoại ra ghi lại cái ảnh này. Nếu có chú và bà nơi đâu đó nếu có đọc được thì mong đừng giận vì cháu chụp ảnh mà không xin phép ạ.

1606276552546.png


1606276566742.png
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Lái Xe Đường Dài

27/03/2019

Theo lời kể của anh lái xe, khoảng 19h ngày 25-3-2019, khi chiếc xe khách do anh cầm lái đang leo dốc ở khu vực Tân Lạc, Hòa Bình thì thấy một cậu bé vẫy xe. Ban đầu anh tưởng đó là học sinh ở Cao Phong (Hòa Bình) bị hỏng xe. Thấy cậu bé dắt xe có vẻ mệt nhọc, anh đã cho cậu bé lên xe khách và hỏi số điện thoại cha mẹ, thầy cô, hỏi trường học... để gửi cậu bé đi xe khách theo chiều ngược lại để về nhà.

Khi tra Google để tìm vị trí trường cháu bé học, anh tài xế và một nhóm người trên xe khách thấy trường rất xa đường quốc lộ, sợ không đảm bảo an toàn, nên định gửi cháu bé vào cơ quan công an huyện Cao Phong. "Nhưng cháu bé mượn chúng tôi điện thoại để gọi cho bố, chúng tôi cũng trao đổi với bố cháu và chở cháu về Hà Nội"- anh nói.

Anh cho biết đã lái xe ở cung đường này gần 10 năm. Đoạn đường từ Vân Hồ đến Tân Lạc đều là đèo dốc, lái xe khách như anh cũng thấy "khiếp". Vậy mà cậu bé Chiến đã đi hơn 100 km, suốt hơn 8 tiếng, qua cung đường toàn đèo dốc như vậy, bằng một chiếc xe đạp không có cả phanh trước và phanh sau. Điều đó khiến anh thấy rất ngạc nhiên và đặc biệt.

1606661919819.png


Quãng đường cậu bé Chiến đi trên chiếc xe đạp cũ để về Hà Nội thăm em, dài khoảng 103 km theo ước tính. Quãng này đi bằng xe ô tô mất khoảng 2 giờ 30 phút. Nếu tạm tính tốc độ đạp xe trung bình tối thiểu của sức thiếu niên trên đường bằng phẳng là 13 km/giờ thì em Chiến đã đạp xe liên tục trong 8 giờ đồng hồ.

Khi lấy chiếc xe đạp cũ không phanh đi Hà Nội, Chiến chỉ nghĩ đi để về thăm em, không hề biết đó là chuyến đi nguy hiểm hay có thể thay đổi cuộc đời của cả gia đình em.

Mặc dù Chiến không hề biết đường đi Hà Nội, không biết Hà Nội cách bao xa. Chiến cứ đạp xe theo đường quốc lộ, vừa đi vừa hỏi. Chiếc xe đạp bị mất phanh, mỗi khi xuống dốc Chiến phải dùng dép làm má phanh, đến địa phận thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình tối 25-3, cậu bé mệt quá và lăn ra ngất xỉu. Chiến được tài xế qua đường phát hiện, cho Chiến ăn uống, gọi cho bố Chiến để báo tin và đưa Chiến cùng chiếc xe đạp về Hà Nội, trước khi gửi Chiến cho bố em sáng nay 26-3.

1606662007476.png


Cậu bé Chiến bên mẹ và em trai sáng 26-3 ở Bệnh viện Nhi T.Ư - Ảnh: FB bác sĩ

1606662435018.png

Cậu bé Chiến và em trai ở Bệnh viện Nhi T.Ư, cuối tháng 3-2019 - Ảnh: FB ĐNQ

Theo các bác sĩ đang điều trị cho em trai của Chiến, em bé từng vào viện vì bị tắc ruột khi mới hai ngày tuổi. Sau khi được phẫu thuật, bé lại bị chứng ruột ngắn trên nền trẻ sinh thiếu tháng (khi sinh là 1,9 kg nhưng giờ chỉ còn 1,7 kg). Hiện cháu bé mắc chứng ứ mật và viêm phổi.

Video: LÊ CÔNG HUY


21/4/2019

Trải lòng với phóng viên Lao Động trưa 21.4, anh Vì Văn Nam - bố của Vì Quyết Chiến nghẹn giọng: "Hôm qua, chúng tôi đưa cháu Lực từ bệnh viện Nhi Trung ương về quê nhà từ 5h30 chiều. Đến 8h30, xe phanh trước cửa nhà, cháu được đoàn tụ với Chiến, với chị gái và ông bà nội. Chỉ 10 phút sau khi về nhà, bác sĩ phải rút bình oxi và cháu ngừng thở".

Anh Nam đưa con về thăm nhà lần đầu cũng là lần cuối. Ảnh: FB Đặng Như Quỳnh.

1606662767348.png


Anh Đặng Như Quỳnh - người đứng ra kêu gọi giúp đỡ hoàn cảnh gia đình em Vì Văn Lực xúc động chia sẻ: "Gia đình và tất cả mọi người yêu thương con. Nhưng phận con mỏng không níu giữ được con ở lại với nhân gian lâu hơn, nên chúng tôi đã cố gắng làm tốt cho con việc cuối cùng có thể làm được là bố trí xe cho con để con có thể về nhà thăm anh Vì Quyết Chiến và ngắm nhìn ngôi nhà của con lần đầu và cũng là lần cuối.”
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Chẳng Sao Cả, Sao Lại Ghê Sợ

"Tôi bế người mất, lau chùi cả phân ... Chẳng sao cả, sao lại ghê sợ"

Bác Hải kể, trên những chuyến xe, tôi từng bế những người đã mất và tự tay lau chùi cho nhiều người bệnh, chăm sóc cho họ bữa ăn. Có khi họ ói mửa trên xe tôi phải tự lau dọn. Thậm chí cả phân.

Nhưng tôi không ghê sợ vì tôi chia sẻ với họ, họ đâu có muốn vậy và ta đều là con người với nhau cả, sao lại ghê sợ? Ngược lại, khi vượt qua được những cảm giác bình thường đó thì tôi thấy trong tôi xuất hiện những cảm xúc tốt lành. Cảm xúc tốt lành trong con người mới quan trọng, không tiền bạc nào đo đếm được. Chính điều đó mới làm nên tình yêu thương và ý nghĩa của cuộc đời.

Tôi giải thích với vợ là nhiều người khổ lắm, mình sướng hơn họ tỉ lần. Cho nên khi họ nhắm mắt xuôi tay, mình chăm sóc cho họ một chút, bế họ lên xe cũng có sao đâu. Cứ làm đi rồi sẽ thấy ý nghĩa của việc mình làm. Không có gì ghê gớm cả.

1606835148202.png


Bệnh nhân ung thư mà ông Đoàn Ngọc Hải chở từ Bệnh viện Trung ương Huế về H.Nông Sơn, là chị N.K (34 tuổi, bị ung thư vú di căn phổi). Chị N.K đang hấp hối khi ra viện. Gia đình và bác sĩ điều trị mong kịp đưa chị về để trút hơi thở cuối cùng tại nhà....! Chặng đường khoảng 170 km từ Huế vào H.Nông Sơn, xe cứu thương của ông Đoàn Ngọc Hải (có điều dưỡng Bệnh viện Trung ương Huế đi cùng) chạy không nghỉ, nhưng trên đường đi, chị N.K trút hơi thở cuối cùng trên xe. Tôi cố gắng lái xe chạy một mạch cho cô ấy được trút hơi thở ở nhà, mọi người không ăn cơm trưa luôn, nhưng vẫn không kịp. Buồn thật! Cô ấy ra đi khi còn quá trẻ. Lần đầu tiên tôi chở người qua đời trên xe”, ông Đoàn Ngọc Hải nói.

Từ khi tôi làm việc thiện, đêm tới đặt lưng xuống là tôi ngủ tới sáng, không mộng mị hay trăn trở, trong khi trước đó thì rất khó, đầu óc cứ tâm viên ý mã, suy nghĩ chuyện nọ xọ chuyện kia, liên miên không dứt. Khác nhau nhiều lắm.
 

langxet

Xe đạp
Biển số
OF-524583
Ngày cấp bằng
1/8/17
Số km
18
Động cơ
173,980 Mã lực
Tuổi
39
lấn vạch lấn làn đi cho nhanh.
 

Patriots

Xe cút kít
Biển số
OF-168448
Ngày cấp bằng
25/11/12
Số km
16,881
Động cơ
493,342 Mã lực
Xã hội còn nhiều người tử tế mà, bởi vậy qua Thuỷ Tiên họ đã góp 180 tỷ cho miền Trung ruột thịt. Cháu thì có cái dây đấy Ắc Quy, cụ mợ nào bị hiện tượng không nổ được do Ắc Quy yếu thì cháu đấu giúp, nhỏ vậy thôi.
 

lạc lối

Xe điện
Biển số
OF-204320
Ngày cấp bằng
31/7/13
Số km
3,333
Động cơ
331,472 Mã lực
Nơi ở
HoChiMinh
chúc các đồng chí lô xiên mạnh khỏe công tác tốt
 

Jue

Xe tải
Biển số
OF-518211
Ngày cấp bằng
25/6/17
Số km
324
Động cơ
181,735 Mã lực
Con Nuôi

Ngày 22/12/2017, trong một chuyến chở hàng tại Mường Lát (Thanh Hóa), anh Nguyễn Văn Duẩn (lái xe tại Hà Nội) đã vô tình gặp một bé gái không mặc quần áo, bị liệt hai chân, ngồi bên lề đường giữa trời lạnh nên quay clip và chia sẻ trên trang cá nhân.

1607244709707.png


Hình ảnh bé Pàng không mặc quần áo, ngồi chơi dưới dất trong thời tiết giá rét

Ngay lập tức, những hình ảnh trên đã nhận được sự quan tâm rất lớn của cộng đồng mạng. Hàng trăm nghìn lượt bình luận, chia sẻ trên bài đăng này đều nhằm mục đích lan truyền rộng hơn nữa hoàn cảnh của bé để em có thể nhận được sự giúp đỡ của những tấm lòng hảo tâm. Nhiều người đã để lại những dòng bình luận thể hiện sự đồng cảm, xót xa.

Vượt hơn 1.500km để đưa bé gái đi chữa chân

Sau khi nhìn thấy những chia sẻ của anh Duẩn, vợ chồng chị Nguyễn Thị Ngọc Phương (SN 1987) và anh Huỳnh Quốc Tín đang sống tại TP Hồ Chí Minh đã quyết định ra tận nơi để nhận đứa trẻ về nuôi.

Nói về quyết định của mình, chị Phương chia sẻ, sau khi liên hệ với anh Duẩn – người lái xe đã ghi lại hình ảnh trên và được biết được bé tên là Vàng Thị Pàng (6 tuổi), cao 80cm, nặng 10kg chân không đi lại được. Cha của bé mất cách đây hơn 1 năm, mẹ lại bị bệnh tâm thần lúc tỉnh, lúc mê.

Nhà có bốn anh chị em, ba bé kia khỏe mạnh, còn Pàng bị tật hai chân, phải lết từng chút một bằng đầu gối và tay. Chị Dợ (40 tuổi, mẹ Pàng), cứ thấy ai mặc đồ cho con gái là lột sạch, vì thế, ngày nào em cũng trần truồng, dù trời mưa, nắng hay mùa đông lạnh giá.

1607244782180.png

Anh Duẩn (bế bé Pàng) và vợ chồng chị Phương có mặt ở Thanh Hóa để tìm về gia đình xin đưa em đi chữa bệnh. Ảnh NVCC

“Nghe xong hoàn cảnh của bé, tôi đã bàn bạc ngay với chồng việc tôi muốn giúp bé có đôi chân lành lặn. Sau khi thu xếp xong công việc, vợ chồng tôi đã bay ra Hà Nội vào một ngày cuối tháng 12/2017 và cùng anh Duẩn về nhà bé để xin phép gia đình, chính quyền địa phương đưa bé vào TP Hồ Chí Minh chữa bệnh. Khi nào khỏi sẽ đưa bé về nhà”, chị Phương cho biết.

Sau gần 10 giờ di chuyển, vượt qua đoạn đường đèo núi lầy lội cuối cùng vợ chồng chị Phương đã gặp được bé Pàng. Chị kể lại rằng, bé vẫn trần truồng như trong clip, miệng cười rất ngây thơ.

1607244821303.png


Con đường dẫn vào nhà bé Pàng. Ảnh NVCC

“Nhìn thấy bé mặt mũi lem nhem, miệng bầm tím do bị bạn đánh, trần truồng, chân tay dính đầy đất đang lết theo bạn đi chơi thấy người từ xa lại đã nhoẻn miệng cười mà tôi cảm thấy vô cùng xót xa.

Nhà bé thì đơn sơ không có vật dụng gì giá trị. Mẹ bé ngơ ngác không hiểu điều gì đang xảy ra. Tôi nhờ người dịch tiếng, nói chuyện với mẹ bé về ý định xin đưa Pàng đi chữa chân thì chị ấy mới gật đầu lia lịa, cảm ơn.

1607245051708.png


Anh Tín và chị Phương đưa Pàng về Sài Gòn để chữa trị.

Vì sợ mẹ Pàng buồn nên vợ chồng chị Phương chỉ muốn đưa bé về chữa chân cho lành lặn chứ không làm thủ tục nhận nuôi. Ảnh NVCC

Mình chỉ muốn đưa bé về chữa chân cho lành lặn, chứ không làm thủ tục nhận con nuôi, vì mẹ bé lúc tỉnh lúc mê, tự nhiên đưa con người ta đi luôn đâu có được, chị ấy sẽ buồn. Tôi cũng có con, cũng là mẹ nên hiểu điều đó”, chị Phương kể lại.

Những ngày đầu Pàng về đến nhà mới nhìn xung quanh với bao điều lạ lẫm được chơi đồ chơi điện tử, thú nhồi bông, xem tivi, có các bạn múa hát Pàng tỏ ra hào hứng lắm. Pàng không cầm được đũa, thìa và cũng không quen ăn cơm nên chị Phương phải bắt đầu tập cho bé làm quen.

1607244915837.png


Pàng tỏ ra hào hứng, thích thú với những món đồ chơi lần đầu em được cầm. Ảnh NVCC

“Pàng ăn uống không như những đứa trẻ thường, con không ăn cơm. Ăn bánh trái cây thì nhai sơ sơ rồi nhét vào hai bên má để dành. Pàng không biết sử dụng muỗng dù đã 6 tuổi, con chỉ biết bốc. Hôm trước cho con ăn nửa trái bắp, ngồi không để ý quay lại Pàng ăn luôn cả cùi.

Do xương chân của Pàng bị co rút nên đêm ngủ hay bị đau nhức. Những lúc như vậy vợ chồng mình thương lắm nhưng không biết làm sao giúp con đỡ đau nên chỉ biết nói chuyện, vỗ về cho con vui.

Hai đứa con mình (1 bé 4 tuổi và 1 bé 2 tuổi - PV) ban đầu cũng ghen tị vì ba mẹ quan tâm tới Pàng nhiều nhưng sau khi giải thích là chị Pàng đang bị bệnh nên hai con lại ngoan ngoãn nghe lời”, chị Phương chia sẻ.

Vì bé Pàng chưa có giấy khai sinh nên để tiện cho việc khám chữa bệnh, vợ chồng chị Phương đã đứng ra làm giấy khai sinh cho bé. Qua các xét nghiệm, chụp chiếu bác sĩ nói rằng Pàng có tổn thương nhẹ ở não và bị liệt nửa chân bên trái phải điều trị bằng cắt nẹp và tập vật lí trị liệu mất vài năm.

Nhưng trước mắt, bé Pàng cần được bổ sung dinh dưỡng vì bé bị suy dinh dưỡng nặng. Sau đó sẽ tập thủy trị liệu, tập bơi.

“Hành trình để Pàng trở lại bình thường, được đến trường như các bạn tuy dài hơi, nhưng dẫu sao có hy vọng chữa khỏi cho Pàng là mừng rồi. Pàng mới ở với nhà mình hơn 1 tuần nhưng con rất ngoan ngoãn, cũng đã biết gọi ba, mẹ, bà và mấy từ khác…

Hiện tại vợ chồng mình chưa gặp khó khăn gì trong việc chăm sóc Pàng cũng như chi phí chữa bệnh, chỉ có điều mấy hôm nay hai vợ chồng phải nghỉ làm nhiều để đưa Pàng đi khám bệnh. Nhưng cũng may mình kinh doanh tự do nên có thể thu xếp được”, chị Phương cho biết.

Ông Lê Duy Hải, chủ tịch UBND xã Mường Lý, huyện Mường Lát (Thanh Hóa) cho biết, gia đình cháu Vàng Thị Pàng thuộc hộ nghèo của xã, mỗi tháng được trợ cấp 360 ngàn đồng. Chị Dợ - mẹ Pàng mắc bệnh nên lúc tỉnh lúc mê. Thường ngày, ông bà nội là người chăm sóc 4 anh em Pàng.

Ông Hải cũng xác nhận vợ chồng chị Phương có đến ủy ban xã làm thủ tục xin đưa Pàng vào TP Hồ Chí Minh chữa chân, khi thành công sẽ đưa em về sống cùng gia đình. Sự việc này đã được chị Dợ, mẹ cháu Pàng đồng ý, phía UBND xã chứng kiến.


12/1/2018

Hiện tại anh Tín đã làm xong giấy khai sinh cho Pàng, đồng thời anh cũng đã đăng ký chính thức trở thành Người bảo hộ cho cô bé, việc này sẽ thuận tiện cho việc chăm sóc Pàng trong thời gian tới.

Song song đó, anh chị Phương đã đưa Pàng đi khám và chụp MRI tại bệnh viện hồi phục chức năng. Kết quả cho thấy Pàng có một chấn thương nhẹ về não khi mới sinh ra, cộng thêm điều kiện ăn uống thiếu thốn, em bị thiếu dinh dưỡng dẫn đến đôi chân Pàng suy yếu và đang có dấu hiệu teo cơ.

1607245252394.png


Pàng được bố Tín và mẹ Phương đưa đi khám bệnh.

1607245280630.png


Bàn tay em đã đầy đặn hơn trước.

28/1/2020

1607245437529.png


Bé Pàng vui vẻ nhận lì xì trong dịp năm mới Canh Tý
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top