Em sẽ tìm đọc nghiên cứu của Louis Pasteur cụ nói chứng minh ko thể có chuyện sinh vật sinh ra từ vô cơ. Nó là quá trình nhiều triệu đến cả tỉ năm, mình tóm 2 sự kiện cách rất xa nhau thì cũng khó hình dung thật. Em thấy tài liệu sinh lớp 12 này giải thích khá dễ hiểu nên em trích ra đây cho cụ nào ko ngại dài thì đọc. Khổ nỗi vấn đề KH mà nói ngắn thì sẽ ko hiểu, từ đó sẽ phản đối, cho rằng là sai:
1. Tiến hoá hoá học:
Đây là giai đoạn tiến hóa mà khi đó các hợp chất hữu cơ hình thành theo phương thức hóa học, dưới tác động của các tác nhân tự nhiên như khí CO2, NH3, nito,...
a) Mô tả quá trình từ các chất vô cơ hình thành các chất hữu cơ đơn giản:
Như ta đã biết, trong khí quyển nguyên thủy có tồn tại các chất vô cơ như hơi nước, H2, CH4, NH3 và rất ít khí N2. Khi bị các nguồn năng lượng tự nhiên như ánh sáng mặt trời, phân rã phóng xạ, tia lửa điện, sấm sét,... tác động, các chất vô cơ đã hình thành nên các hợp chất hữu cơ đơn giản từ 2 nguyên tố C, H thành 3 nguyên tố C, H, O (lipti, saccarit) rồi thành 4 nguyên tố C, H, O, N (axit amin, nucleotit).
Thuyết này được thí nghiệm của Milo và Uray (1953) hay Oparin và Handan (1920) đã chứng minh và đặt tên là thuyết ngẫu sinh về nguồn gốc sự sống.
b) Các đại phân tử hữu cơ (chất hữu cơ phức tạp) được tạo ra từ quá trình trùng phân:
Để mô tả quá trình này, các nhà khoa học đã diễn giải như sau: Các chất hữu cơ đơn giản hòa tan dưới nền đáy bùn sét, trong lòng đại dương nguyên thủy có thể được cô đọng lại và hình thành các hợp chất lớn như protein và axit nucleic.
Có nhiều thí nghiệm đã chứng minh được điều này, đặc biệt nổi bật nhất là thí nghiệm của
Fox và các cộng sự năm 1950 đã điều chế chuỗi peptit ngắn trong 150 - 180 độ C từ các hỗn hợp axit amin khô.
c) Các đại phân tử có thể tự phân đôi:
Đây là giai đoạn cao cấp nhất trong quá trình tiến hóa hóa học. Có rất nhiều loại tương tác giữa các đại phân tử nhưng chỉ axit nucleic mới được chọn lọc tự nhiên giữ lại vì chức năng vô cùng quan trọng. Các nhà khoa học đã đặt giả thuyết rằng ARN là phân tứ có khá năng tự nhân đôi mà không cần xúc tác của enzim và còn có khả năng lưu trữ và truyền đạt thông tin di truyền. Lúc này, cơ chế dịch mã có thể được hình thành.
2. Tiến hoá tiền sinh học:
Giai đoạn tiến hóa tiền sinh học là lúc hình thành nên các tế bào sơ khai, sau đó tiếp tục hình thành nên các tế bào sống đầu tiên (hay còn gọi là sự sống). Nhìn chung, diễn biến của giai đoạn này là sự tương tác giữa các đại phân tử được hình thành từ giai đoạn tiến hóa hóa học (axit nucleic, protein và lipit) hình thành nên tế bào sơ khai. Chi tiết của quá trình này như sau:
• Các đại phân tử hình thành trong nước và tập trung cùng nhau. Nhưng do các phân tử lipit kị nước nên đã hình thành màng lớp bao bọc lấy tập hợp các đại phân tử hữu cơ khác, tạo nên các giọt li ti. Các giọt tập hợp này chịu sự tác động của chọn lọc tự nhiên, sau đó sẽ tiến hóa dần tạo thành các tế bào sơ khai (hay còn gọi là protobiont).
• Khi các tế bào sơ khai được hình thành, chọn lọc tự nhiên sẽ chọn ra và nhân rộng những tế bào có khả năng trao đổi chất và năng lượng với bên ngoài, phân chia và duy trì thành phần hóa học thích hợp.
• Sau khi các tế bào sơ khai vượt qua chọn lọc tự nhiên, chúng sẽ tiếp tục quá trình tiến hóa. Dưới tác động của các nhân tố tiến hóa, từ các tế bào đã tạo ra các loài sinh vật như hiện nay từ tế bào nhân sơ, đơn bào nhân thực, đa bào nhân thực.
3. Tiến hoá sinh học:
Đây là sự tiến hóa của các loài sinh vật trên Trái Đất, sơ đồ tiến hóa sẽ như sau: Tế bào nguyên thủy -> tế bào nhân sơ -> đơn bào nhân thực -> đa bào nhân thực. Sự tiến hóa sinh học đang diễn ra liên tục và nhờ có giai đoạn tiến hóa này, chúng ta mới có các loài sinh vật trên Trái Đất như hiện nay.
Link:
Bài viết đem lại cái nhìn tổng quan về nguồn gốc sự sống, kèm theo đó là sơ đồ tư duy giúp hệ thống kiến thức và loạt bài tập củng cố có đáp án chi tiết.
vuihoc.vn