Bắt F-86 (version 2)
Đứng trước sự lớn mạnh không ngừng của “hành lang MiG”, từ tháng 12-1950, Mỹ quyết định điều liên đội F-86 số 4 từ Nhật Bản sang tăng cường cho chiến trường Triều Tiên, quyết tâm giành lại ưu thế trên không. Ban đầu, do chưa nắm được tính năng ưu việt của F-86, các phi công Liên Xô vẫn vận dụng cách đánh F-80 để đối phó với F-86, nên hiệu quả rất thấp, thắng ít thua nhiều. Vấn đề đặt ra là phải có một chiếc F-86 hoặc chí ít là bắt sống được một viên phi công lái chiếc F-86 để lấy thông tin về chiếc máy bay. Nhiệm vụ khó khăn đó được giao cho Thượng tá Pepelyayev, Trung đoàn trưởng Trung đoàn không quân tiêm kích số 198.
Ngày 11-7-1951, được tin F-86 xuất hiện, Pepelyayev được lệnh cất cánh nghênh chiến. MiG-15 nhanh chóng áp sát mục tiêu, nhấn nút. Một chiếc F-86 như một bó đuốc bùng lên, nổ tung thành trăm tràn mảnh. Viên phi công bị quân chí nguyện bắt sống. Qua thẩm vấn, viên phi công Mỹ đã tiết lộ những điểm yếu của F-86 như: tăng độ cao chậm, nếu bay cao hơn 10km, thì lực đẩy của động cơ và tính năng thao tác giảm… Ngày 6-10-1951, Pepelyayev chỉ huy 10 chiếc MiG-15 lên giao chiến cùng 16 chiếc F-86 ở độ cao 8.000m.
Sau khi bố trí xong đội hình, Pepelyayev lập tức nhấn nút khai hỏa nhắm vào chiếc F-86 ở phía trước. Do đã có chủ định, nên ở cự ly chỉ khoảng 550m, Pepelyayev đã đưa được viên đạn vào đúng nơi nó cần tới - khoang lái. Phi công điều khiển chiếc F-86, ông Garrett, không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bỏ máy bay để chiếc F-86 lao xuống bờ biển phía đông Triều Tiên. Nhanh như cắt, một chiếc SA-16 lướt tới cứu Garrett mang đi.
Nhưng đối với phía Liên Xô, xác chiếc F-86 kia mới thực sự là món quà quý giá. Không thể chậm trễ, đội kỹ thuật lập tức tới hiện trường xẻ xác F-86 chất lên xe về nghiên cứu. Trên đường trở về, đoàn xe bị một tốp B-26 tấn công, may mắn không bị tổn thất gì.
Qua nghiên cứu tỉ mỉ, không quân Liên Xô, Trung Quốc và Triều Tiên đã nắm được hết những đặc tính, tính năng của F-86, loại máy bay tân tiến nhất của không quân Mỹ lúc bấy giờ, góp phần quan trọng giảm thiểu tổn thất trên chiến trường.
Theo thống kê của Bộ Tổng tham mưu Liên Xô, trong thời gian Chiến tranh Triều Tiên, Moscow mất 335 máy bay cùng 126 phi công. Các máy bay của đơn vị tiêm kích số 64 xuất kích 64.300 lần, tham gia vào 1.872 lượt không chiến bắn rơi 1.106 chiếc máy bay của Mỹ, trong đó có 851 chiếc F-86. Điều đáng chú ý là trong cuộc chiến tranh này, Mỹ mất tới 170 chiếc máy bay ném bom B-29, làm tê liệt khả năng tác chiến của lực lượng tấn công hạt nhân của Mỹ ở Viễn Đông, buộc chính phủ Eisenhower phải từ bỏ ý định thả bom nguyên tử xuống Liên Xô, Trung Quốc và Triều Tiên.
Một vấn đề đặt ra là người Mỹ có biết quân đội Liên Xô đã tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên? Câu trả lời là có. Ngay từ cuối năm 1950, qua các nguồn tin tình báo, Lầu Năm Góc đã kết luận quân Liên Xô đã tham chiến. Các đài chặn thu sóng vô tuyến điện của Mỹ đã ghi lại được nhiều đoạn đối thoại bằng tiếng Nga của các phi công Liên Xô khi tác chiến trên chiến trường Triều Tiên. Phi công Mỹ cũng nhiều lần nhìn thấy những khuôn mặt da trắng trong buồng lái của máy bay quân chí nguyện.
Tuy nhiên, Washington không một lần đề cập tới việc tham chiến của Liên Xô. Bởi Nhà Trắng biết rằng nếu công bố, nhân dân Mỹ sẽ yêu cầu họ phải có hành động trong khi họ không muốn đẩy những cuộc đụng độ với Liên Xô tới bờ vực nguy hiểm của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 3.
Hơn nữa, lúc đó trọng điểm chiến lược của Mỹ nằm ở châu Âu, nơi Lầu Năm Góc mới bố trí được 150 chiếc máy bay. Theo đánh giá của giới tình báo, nếu muốn đối kháng toàn diện với Liên Xô, Mỹ phải chuẩn bị ít nhất hai, ba năm. Đó chính là lý do khiến Nhà Trắng phải “ngậm bồ hòn làm ngọt” trước hành động tham chiến của Liên Xô trong chiến tranh Triều Tiên.
Theo Ngọc Khánh