LỜI KỂ CỦA TƯỚNG LÊ DUY MẬT, TƯ LỆNH TRƯỞNG MẶT TRẬN HÀ GIANG 1984-1988, LÀM RÕ HƠN VỀ TRẬN CHIẾN 12/7/84.
Trong cuộc trò chuyện về cuộc đời binh nghiệp, đã có lúc thấy Tướng Lê Duy Mật chùng xuống, nghẹn lại; Tướng Lê Duy Mật cho biết: ông không thiếu dũng khi lâm trận nhưng đôi khi sự Dũng trong ông cũng bị chùng xuống bởi những “nhát dao đâm từ sau lưng” của những kẻ vẫn ngỡ là đồng chí, đồng đội của mình…
Xin giới thiệu về một trong những “nhát dao đâm vào lưng” Tướng Lê Duy Mật khi ông chỉ huy chiến dịch đánh chiếm lại Cao điểm 1509 bị thất bại vào khoảng thời gian tháng 4,5/1984…
Bàn kế hoạch phản kích lấy lại 1509-
Tướng Lê Ngọc Hiền-Phó Tổng tham mưu trưởng người đeo kính, ngồi; Tướng Lê Duy Mật ngồi quay lưng
Tướng Lê Duy Mật là một trong những vị tướng trung dũng của Quân đội nhân dân Việt Nam; Ông sinh năm 1929 tại Thủy Nguyên, Hải Phòng…
Ông trùng tên với Lê Duy Mật (-1770) là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa lớn chống lại chúa Trịnh vào giữa thế kỷ 18. Cuộc khởi nghĩa được hình thành và phát triển cùng với các cuộc khởi nghĩa khác trong phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài và được gộp chung vào phong trào này.Ông là hoàng thân nhà Hậu Lê, con thứ vua Lê Dụ Tông (1705-1729)…Không rõ Tướng Lê Duy Mật có cùng dòng họ với vị Thủ lĩnh Lê Duy Mật này không ?
Tướng Lê Duy Mật có mặt trong đội quân của Tướng Nguyễn Bình, giải phóng và xây đặc khu Đông Triều; đặc khu giải phóng này được xây dựng trước khi cách mạng tháng Tám thành công; Lê Duy Mật là đồng đội cùng với các tướng lĩnh lừng danh sau này như Thượng tướng Hoàng Minh Thảo chiến đấu tại đặc khu Đông Triều…
Năm 1953 sau khi cộng tác với ông Đỗ Mười, Chính ủy Quân khu Tả ngạn vào tiếp quản “Khu 300 ngày “, ông được bổ nhiệm từ Trung đoàn phó lên Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trung Dũng ( E 238 )… Năm 1963, ông là một trong những sĩ quan cao cấp được cử vàoNamchiến đấu từ trên những chiếc tàu không số xuất phát từ Hải Phòng…
Vào Nam ông được giao trọng trách Tư lệnh phó-Tham mưu trưởng Quân khu 8 và Quân khu 9; ông chiến đấu tại miền Tây Nam bộ 10 năm; Năm 1975 ông được điều về làm Cục phó Cục Tác chiến… Sau khi giải phóng miềnNam, Tướng Lê Duy Mật được điều sang Cămpuchia dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Đức Anh…
Năm 1981 ông được cử sang Liên Xô học tại Học viện quân sự đào tạo Tham mưu trưởng Vorosilov…
Năm 1984 ông được điều động về Quân khu 2 với chức vụ Phó Tư lệnh quân khu 2, Tham mưu trưởng và kiêm Tư lệnh Mặt trận Hà Giang…cho đến năm 1988…
Mặc dù Lê Duy Mật là vị tướng có trong tay “ bộ tứ tử “: Nam chinh Bắc chiến; Chinh đông, chinh Tây…(ông đã chiến đấu ở Cămpuchia trong bộ chỉ huy do Tướng Lê Đức Anh làm Tư lệnh và chiến đấu ở chiến trường Lào dưới quyền chỉ huy của Tướng Hoàng Sâm và vào Nam trên những con tàu không số lênh đênh trên Biển Đông) …nhưng đời binh nghiệp của ông lại kết thúc với một kết cục không ít những nỗi buồn…
Xin mở ngoặc thêm: Dưới quyền chỉ huy của Tướng Lê Duy Mật đã có những con người nổi tiếng như Đại tướng Phạm Văn Trà, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, là sĩ quan dưới quyền ông; lúc Lê Duy Mật làm Phó Tư lệnh Quân khu 9 thì Phạm Văn Trà là Trung úy; Thượng tướng Đỗ Bá Tỵ Tổng tham mưu trưởng, khi chiến đấu ở Hà Giang, Đỗ Bá Tỵ là Sư phó Sư 313; Thượng tướng Nguyễn Văn Được, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Sư trưởng 356 chiến đấu tại Hà Giang 1984-1985…
Dưới quyền chỉ huy của ông còn có Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Tấn Minh, bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng; ông Nguyễn Tấn Minh quê ở Hà Đông, hy sinh năm 1974…
Tướng Lê Duy Mật về hưu với quân hàm Thiếu tướng ?!
Tôi được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn Trung Dũng ( Trung đoàn 328 ) vào cuối năm 1953, sau đó về làm Trưởng phòng tác chiến quân khu tiếp quản “Khu 300 ngày”, xây dựng kế hoạch tiếp quản cùng với ông Đỗ Mười…Ông Đỗ Mười lúc đó là Chính ủy quân khu nói rằng: Tôi là người ở Trung đoàn Trung Dũng lâu nhất cho nên nên trở về chỉ huy trung đoàn này…Do đó tôi quay về làm Trung đoàn trưởng…
-Lâu nay bác có gặp ông Đỗ Mười không ?
-Chỉ gặp khi ông Đỗ Mười làm Chính ủy đơn vị tiếp quản “Khu 300 ngày “ ( Là khu theo Hiệp định Giơnevơ ta đồng cho Pháp được đồn trú tại Hải Phòng 300 ngày ), sau đó có gặp ông Đỗ Mười khi vợ ông chết… Sau này do ông Đỗ Mười nghe ông Lê Đức Anh, một con người không nhìn hiện tại, quá khứ và tương lai cho nên, khi Lê Đức Anh không dùng tôi nữa vì thế lực đỡ đầu của Lê Đức Anh là thế lực của Cụ Duẩn, Cụ Thọ, còn thế lực của tôi là thế lực của ông Giáp, ông Lê Trọng Tấn, ông Hoàng Văn Thái…Khi ông Lê Đức Anh lên làm BT Bộ Quốc phòng ông thay đổi toàn bộ bộ sậu cán bộ cũ…Ông Lê Đức Anh lấy cớ khi tôi chỉ huy mặt trận Hà Giang không chịu nghe cấp trên nên ( sau khi Tư lệnh Quân Khu 2 là Tướng Vũ Lập mất đột ngột, Bộ Quốc phòng đã không đề bạt, cất nhắc ông Lê Duy Mật đương là Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu 2 lên thay thế mà điều ông tướng Đặng Quân Thụy lên làm Tư lệnh quân khu 2-Chú thích-P.V.Đ) việc ông Lê Đức Anh không đưa tôi lên mà điều tôi làm Tư lệnh quân khu, bản chất ông Lê Đức Anh muốn cơ cấu lại tay chân ( cùng ekip ) của ông ta…
-Hồi chỉ huy mặt trận Hà Giang bác đã có những việc làm gì không tuân lệnh cấp trên ?
-Nhiều cái tôi không nghe lệnh cấp trên. Ví dụ: Bộ tổng tham mưu gợi ý cho tôi đưa quân sâu vào trong Trung Quốc 18 km, đánh vào huyện lỵ Malefo, một huyện lỵ toàn đá tai mèo, tôi đã không chấp hành…Tôi bảo tôi không thể đánh được! Bộ Quốc phòng muốn đánh thì ra lệnh bằng dấu đỏ xuống đây, nếu tôi đánh thắng hay bại là do các anh chứ tôi không chịu trách nhiệm. Có phương án sử dụng trực thăng để ngăn chặn địch, tiêu diệt địch trong đất ta, cái đó tôi không nghe vì tôi cho là không đủ khả năng và không có hiệu quả, đánh kiểu đó sẽ thất bại…Ông Nguyễn An cũng là tướng chiến với tôi gợi ý tôi đánh theo kiểu Liên Xô: tức là đánh cả phía trước, cả phía sau, làm theo kiều điều lệnh Liên Xô tôi cũng không nghe…Tôi cho rằng với kẻ thù là Trung Quốc, với địa hình như Hà Giang không thể đánh theo kiểu Liên Xô được…( Hồi đó cố vấn quân sự Liên Xô có mặt tại Hà Giang )… Theo cách đánh của Liên Xô thì chỉ nên học từng việc, không thể bê nguyên xi bài bản cách đánh của Liên Xô để áp dụng cho đánh Trung Quốc…
- Thưa bác, trận 12/7/1984 thì ai là tác giả, vạch kế hoạch tác chiến: huy động 1 lúc 4 trung đoàn để đánh trận đánh một số cứ điểm ở đây ? Có ý kiến cho rằng: Trận này ta thất bại là do áp dụng máy móc chiến thuật “ biển người “ nên gặp phải hỏa lực pháo binh của Trung Quốc quá mạnh, nên phải chịu thất bại ?
- Trận này tôi vạch kế hoạch và có sự chứng kiến của Phó Tổng tham mưu trưởng Lê Ngọc Hiền. Trận này có mật danh M 76. Trận này chịu thất bại là một cán bộ lớn của ta làm tay sai cho Tình báo Hoa Nam, khi ta chuẩn bị đánh đâu thì nó báo cho Trung Quốc nên trước khi mình nổ súng thì phía Trung Quốc đã tề binh mã… -Theo Trung tá pháo binh Hoàng Văn Xiển của Sư 313 kể: khi pháo binh mình nổ súng thì phía Trung Quốc cho rút quân ra toàn bộ…để cho mình bắn thoải mái…Khi quân mình lên, các hầm hố bị phá hết, lúc đó pháo Trung Quốc bắn lại quân mình không chịu nổi nên phải rút ? -Đó là trận khác…Phía ta đã tiến hành 3, 4 đợt đánh lớn để lấy lại 1509…Trận đánh lớn nhằm lấy lại 1509 đầu tiên ( có lẽ là khoảng tháng 5-6/1984, Tướng Lê Duy Mật không còn nhớ rõ ) đó là trận mang mật danh M.76, quân ta đã tiến lên tới bình độ 800, là một thảo nguyên ở trên 1509; Lúc đó gần sáng, mình nổ súng thì phía Trung Quốc tập trung 27 trung đoàn pháo và pháo phối thuộc của 4-5 sư đoàn nó bắn mình, mình không thể nào tiến lên được. Quân mình cứ ở đấy liền dãn ra và tiến lên tới bình độ 900 thì gần sáng không thể tiến lên được nữa; Quân mình vẫn ở trên cho tới 4-5 giờ chiều hôm sau, thấy không thể lấy lại 1509, tôi đề nghị Lê Ngọc Hiền-Phó Tổng tham mưu trưởng: Ta không thể tiến được nữa, tôi đề nghị anh cho lui quân. Ông Lê Ngọc Hiền báo cáo lên trên, trên nói thôi đành phải như thế…Tôi cho lui quân vào 4 giờ rưỡi chiều hôm sau…
Tướng Lê Duy Mật, thứ tư trái sang đứng cạnh Tướng Đoàn Khuê…
-Thưa bác như vậy trận 12/7/1984 là trận quân ta đánh định chiếm lại một số vị trí xung quanh 1509 nhưng do mình không lường trước được lực lượng pháo binh của nó quá mạnh, gây tổn thất lớn cho quân ta nên phải chịu thất bại ?
-Mình biết hỏa lực mạnh của Trung Quốc chứ, mình đánh theo kiểu của chúng ta, dùng yếu tố tập kích bất ngờ để khi Trung Quốc biết nhưng trở tay không kịp, cho dù có hỏa lực mạnh; Vì có người của Cục Quân báo hay của Tổng Cục 2 đầu hàng nó, báo cho nó biết nên đã mất yếu tố bất ngờ…Ta tổ chức đánh ngày nào, giờ nào, bao nhiêu quân nó báo cho Trung Quốc biết hết…Cho nên khi quân mình đụng chạm một cái là nó nổ súng mấy tiếng đồng hồ do quân mình không tiến lên được, phải dãn quân ra…nó ở trên cao nó nhìn thấy hết, do đó cứ thế nó bắn, nó chặn đứng mình lại… -Cao điểm 1509 là cao điểm cao trên 1500 m quân ta phải trèo cả ngày mới lên được chứ ? -Quân ta tập kết từ 4 giờ chiều từ bình độ số 200 để leo dần lên bình độ 800…
-Trung đoàn 876 Sư 356 đơn vị của chú em cháu được giao nhiệm vụ đánh 772 ngày 12/7/1984 ? -Trận 12/7/1984 là trận ta đánh chiếm lại các cao điểm 772, Đồi Cô Y., đánh 774, Đồi không tên, những cụm cao điểm bên bờ sông Lô, không phải trận mà tôi vừa kể…
-Thế trận đánh để chiếm lại 1509 như bác vừa kể chắc phải xảy tháng 4 hoặc 5/1984 ? -Có 3 chiến dịch lớn: Đánh chiếm lại 1509, đánh cụm cao điểm xung quang 772, thứ 3 là đánh bên Minh Tân, thứ 4 là đánh đuổi địch ở 685…Như vậy là ta đã mở 4 đợt lớn, nhưng đợt thứ 4 không đánh do tôi và ông Nguyễn Hữu An cãi nhau nên không thực hiện được…Trong 2 năm 1984-1985 ta đã mở 3 đợt đánh lớn… Phần 3: -Hồi ấy sau những trận đánh lớn không thành công, chắc Bộ chỉ huy mặt trận có họp rút kinh nghiệm, vậy Bộ chủ huy có rút ra kinh nghiệm gì, ưu khuyết điểm gì ? -Tôi đã viết một bản báo cáo dày 20 trang gửi cho Quân khu 2 về cách đánh và kinh nghiệm đánh Trung Quốc cho hôm nay và cho mai sau…
-Bác có nhớ những ý chính trong bản báo cáo đó không ? Theo bác nguyên nhân thất bại không lấy lại được 1509 là gì không ? -Không lấy lại được vì nó phòng ngự chắc quá, hậu cần của nó nhiều quân quá, địa hình của 1509 thì quá cao và hiểm trở; Trung Quốc chiếm được trước nên có lợi hơn ta…
-Có ý kiến cho rằng: Tại sao mình không dùng hỏa lực mạnh để khi Trung Quốc chiếm điểm cao nào thì ta dùng hỏa lực diệt gọn ? -Mình có vũ khí đâu mà tiêu diệt quân Trung Quốc. Pháo binh của ta chỉ có một lữ đoàn, với 3 dàn hỏa tiễn H 12 ( Cachiusa ) với một ít ĐKZ…
-Một lữ đoàn pháo có bao nhiêu khẩu ?
- Có hơn bốn chục khẩu pháo 105 mm…
-Nghe nói hồi đó mình có mang bom bay lên Hà Giang có không ?
-Chỉ có hỏa tiễn H 12 thôi…không có bom bay! – Thế bác rời khỏi Hà Giang lúc nào ? -Vào đầu năm 1988 sau khi tôi không được cơ cấu Tư lệnh quân khu 2 thay tướng Vũ Lập bị chết do bị bệnh, trên cử Tướng Đặng Quân Thụy lên thay và tôi trở về chờ ở Trạm 66 ( Hà Nội ) và không làm gì nữa…