Những buổi sáng thường đến sớm. Lũ chim sẻ chíu chít đầu mái nhà, mổ vào những bện rơm mẹ quăng lên phơi hôm nào. Tiếng sáo diều kéo chân bọn trẻ lao ra ngoài triền đê. Lúc ấy, nắng đã vàng mật, trải dọc một bên bờ sông. Hạ vừa chớm sang. Tôi ngồi cạnh bạn, gió thỉnh thoảng trở mình làm bay làn tóc cài vội. Tôi bảo, Hạ nhất quyết phải lên Hà Nội sao. Bạn chỉ im lặng. Bên kia sông, khói từ những lò gốm đỏ gạch đã trắng cả một góc. Tiếng sáo diều no gió lạc điệu lúc nào không hay.
Trước hôm đi, bạn qua nhà. Mẹ bảo, thằng Minh sau này bác cũng cho lên Hà Nội học đại học, chứ cứ quanh quẩn ở cái làng này thì giỏi cũng chỉ làm đến cái anh cán bộ trạm bơm nước, đeo cái cặp da to, chân đi ủng lội mương cả ngày. Tiếng cười khúc khích dưới bếp. Còn tôi thì hậm hực bên hiên nhà. Hà Nội thì làm sao nhỉ. Tôi chẳng biết ở đấy có gì hay mà nhiều người trong làng phải bỏ nhà bỏ cửa, bỏ làng, dắt díu con cái lên đấy. Để những lò gốm nguội dần, những phiên chợ đầu sông thưa thớt. Nhưng những căn nhà tầng quét sơn xanh vàng thì mọc lên nhanh với những cánh cổng sắt nặng trịch đóng im ỉm. Năm ấy, tôi học hết lớp mười. Bạn đi, bỏ lại tôi với những buổi chiều mát rượi bên triền đê, với những tiết học lơ đãng nhìn ra khoảng sân trường đầy nắng. Mùa hạ qua đi bằng nỗi ngẩn ngơ của thằng con trai mới lớn.
Những mùa hạ ở Hà Nội bao giờ cũng bắt đầu bằng vài cơn mưa bất chợt. Tôi đã có nhiều mùa hạ như thế, cũng chẳng vui. Hà Nội những năm 2000, thời những quán internet cà phê mọc san sát. Tôi không mê mẩn được nơi này, dù đã lang thang bao ngày cùng bạn dưới những hàng sấu rụng, gặp những cơn mưa đầu mùa bất chợt bên hồ. Bạn yêu mưa, yêu cả cái nhộn nhịp nơi phồn hoa đô hội. Bạn bảo tôi chẳng giống ai, lúc nào cũng như anh nhà thơ, rồi cười khúc khích đung đưa cái bím tóc. Ừ, tôi xa lạ giữa lòng Hà Nội như cánh chim thiên di đi lạc giữa một khoảng mênh mông mà không biết nơi đâu là miền nắng ấm. Tôi cô đơn và dửng dưng giữa hời hợt mưu sinh của những mảnh đời sinh viên ngoại tỉnh bám trụ lại. Cũng có lẽ vì thế mà tôi đã chẳng khóc được khi thấy đôi bím tóc quen thuộc sau chiếc xe máy thời thượng giữa phố đông chiều hôm ấy. Rồi bạn cũng bỏ tôi, bỏ Hà Nội, bỏ lại nỗi cô đơn giữa một lòng phố xá.
Đến giờ khi đang viết những dòng chữ này bên cửa sổ của tòa cao ốc và nhìn về phía bên kia sông xa xăm, nơi những lò gốm quê tôi đang lên khói, tôi không nhớ nổi tại sao mình đã vượt qua những đêm say khướt đốt mình trong những chén rượu cay nồng. Để sau đó, dù với tâm thế của một kẻ bị ruồng bỏ, tôi chẳng xa rời được nơi này. Tôi cũng không trở về làng gốm ven sông nơi triền đê gió thổi mát rượi chỉ để trốn tránh thực tại và khỏa lấp những chỗ trống. Hà Nội với những cơn mưa mùa hạ đặc trưng cứ đến rồi đi. Tôi nhận ra rằng, cô đơn là món quà quý giá mà người ta ban tặng cho tuổi trẻ. Bởi khi ta đã đủ tỉnh táo trước sự toan tính mưu sinh, đủ dửng dưng giữa cái hời hợt của cuộc sống, và đủ ráo hoảnh sau mỗi nỗi niềm riêng, nỗi cô đơn ta có thể tích trữ trong các ngăn tủ. Rồi thảng hoặc đem ra nhâm nhi cho say mềm. Và khi ấy, nỗi cô đơn đã trở thành nội lực giúp ta tự mình vượt lên tất cả những hỉ hổ ái nộ của sự đời. Bạn đã ở đâu trong vòm trời này, tôi chưa một lần đi tìm. Tôi chỉ đi tìm nỗi cô đơn cho riêng mình, như ngọn cây tìm sự bình yên ở trên cao sau những cơn mưa.