Nam tiến thời Lý – Trần (1009 – 1400).
Sau năm 938, chỉ cần vượt qua dãy Hoàng Sơn người Việt đã có thể tiến xuống vùng đất Champa. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc dù biên giới của Giao Châu và Champa (trước đó là Lâm Ấp) liên tục biến thiên, nhưng sau khi đất nước Việt Nam lấy được nền độc lập (938) thì dãy Hoàng Sơn là một ranh giới phân chia chính thức của hai nước và hầu như không có nhiều biến động cho đến thời Lý, chính là biên giới giữa tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay.
Thời Lý, biên giới cực Nam của nước Đại Việt là châu Hoan, châu Ái, cực Bắc của Champa là địa danh được sử Việt gọi là Bồ Chính. Miền biên giới này là nơi thường xảy ra những xung đột, quấy nhiễu qua lại giữa hai quốc gia, tiếp theo xuống thứ tự là các vùng Ma Linh và Địa Lý (3 châu Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý tương đương với Quảng Bình, và Bắc Quảng Trị).
Mối quan hệ Đại Việt và Champa, sau cuộc hành quân của Lê Đại Hành năm 980 vào đất Champa, từ đó mối quan hệ hai nước tạm yên ổn. Sau khi nhà Lý được thành lập, mối quan hệ này trở nên vô cùng phức tạp, có những lúc hai bên giao hiếu, lại có những lần hai bên giao tranh đặc biệt nhất là cuộc giao tranh năm 1044, tức là thời Lý Thái Tông.
Dấu ấn đầu tiên trong tiến trình Nam tiến được ghi nhận chính là năm 1069, khi vua Lý Thánh Tông thân chinh Champa, bắt sống vua Champa mà bia ký Chăm gọi là Rudravarman III, sử Việt gọi là Chế Củ, buộc vua Champa phải cắt ba châu Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt.
Về nguyên nhân cuộc hành quân này
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư(toàn thư chép): “…
Chiêm thành dâng voi trắng, sau lại quấy nhiễu biên giới…” (1068) có lẽ đó là nguyên nhân chăng? Nhưng sách
Việt Sử Lược lại không thấy chép gì về sự kiện tiến cống voi trắng này, trong cuốn sách
Lý Thường Kiệt: lịch sử bang giao và tông giáo, tác giả Hoàng Xuân Hãn đặt nghi vấn về nguyên nhân được sách Toàn Thư nêu ra, tác giả dẫn chứng trên bia ký ở chùa Linh Xứng nói rõ: “…
Kịp đến khi nước Phật Thệ (tức Champa) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh…”, ngoài ra bằng chứng thứ hai là sau khi khải hoàn vua Lý gửi thư cho vua Tống nói rằng “…
Chiêm Thành đã lâu không tiến cống, tôi tự đem quân sang đánh…”
[1].
Về diễn biến của cuộc hành quân này các sách đều chép như nhau, nhưng sách
Việt Sử Lược là chép chi tiết hơn cả, theo đó: “…
Mùa xuân, tháng 2, ngày Mậu Tuất (24 – 2) vua xuống chiếu thân chinh đến nước Chiêm Thành. Ngày Đinh Mùi (5 – 3) vua thề ở nơi Long Trì. Ngày Canh Dần (8 – 3) vua xuất quân. (Đúng là ngày Giáp Tuất- ND). Ngày Đinh Tỵ đến châu Nghệ An(15 – 3)…Ngày Canh Thân dừng quân ở cửa biển núi Nam Giới (nay là cửa Sót, Hà Tĩnh)…Ngày Ất Sửu (23 – 3) sai bọn Hoàng Tiệp trong hàng Đại Liêu Ban đánh cửa biển Nhật Lệ thắng lợi. Ngày Kỷ Tỵ (27 – 3) qua Đại Trường Sa. Ngày Canh Ngọ (28 -3) dừng quân ở cửa biển Tư Dung…
… Ngày Bính Tý đóng quân ở Thị Lợi Bì Nại. Đại quân tiến lên trước đóng ở bờ sông Tu Mao thấy tướng Chiêm Thành là Bố Bì Dà La đang bày trận ở bờ sông. Quan quân (nhà vua- ND) xông ra đánh, chém Bố Bì Dà La, quân Chiêm chết vô số. Chúa Chiêm Thành là Đệ Củ, nghe quân bị thua bèn dắt vợ con ban đêm lẫn trốn. Đêm ấy, quan (nhà vua- ND) kéo rốc vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ xin hàng… Mùa hạ, tháng 4 Nguyên Soái Nguyễn Thường Kiệt, bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp…”[2].
Cũng theo
Việt Sử Lược, sau khi chiến thắng vua đãi yến tiệc, cho kiểm kê lại số nhà dân và tháng 5 thì lên đường về nước đem theo vua Rudravarman III. Khi khải hoàn trờ về vua Rudravarman III xin dâng ba châu Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh cho Đại Việt, vua Lý Thánh Tông tiếp nhận và tha cho vua Champa trở về.
Về ba châu này sách
Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục(Cương Mục) chép:
Địa Lý: đời Hán, thuộc quận Nhật Nam; đời Tống, là châu Địa Lý thuộc Chiêm Thành; nhà Lý đổi là Lâm Bình…Bấy giờ là đất phủ Quảng Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình…;
….Ma Linh: đời Hán, thuộc quận Nhật Nam; đời Tống, là châu Ma Linh thuộc Chiêm Thành; nhà Lý đổi là Minh Linh; Bây giờ là đất đai huyện Minh Linh và Do Linh thuộc tỉnh Quảng Trị…
…Bố Chính: đời Hán là đất huyện Thọ Lãnh thuộc quận Nhật Nam; đời Tống là châu Bố Chính thuộc Chiêm Thành; nhà Lý vẫn để tên như thế; Bây giờ là đất ba huyện Bình Chính, Minh Chính và Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình…”[3].
Vùng đất này, hẹp và dốc, chủ yếu là vùng đổi, núi, tựa lưng vào dãy Trường Sơn. Từ Tây sang Đông theo thứ tự là vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng ở giữa, vùng cát ven biển ở rìa phía Đông. Từ Bắc xuống Nam có các con sông lớn chảy qua là sông Gianh, sông Nhật Lệ, sông Bến Hải, và ở cực Nam có sông Thạch Hãn.
Kể từ lúc đó, ba khu vực Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh (tức là Quảng Bình và phần Bắc Quảng Trị) chính thức thuộc về Champa, sách sử còn ghi nhận những nỗ lực đem quân lấy lại vùng đất này của Champa (1075). Năm đó, vua Lý Nhân Tông sai Lý Thướng Kiệt đi đánh Champa, nhưng không biết diễn biến thế nào, kết quả chỉ nói là không thắng được và Lý Thường Kiệt cho vẽ địa đồ ba châu Bồ Chính, Địa Lý sau đổi là Lâm Bình, Ma Linh sau đổi là Minh Linh và ra chiếu chiêu dụ dân đến đây sinh sống. Theo Phan Khoang, chiếu chiêu mộ dân này là một văn kiện quan trọng trong lịch sử nước ta; ấy là bước đầu của cuộc Nam tiến mà dân tộc ta theo đuổi trong 6, 7 thế kỷ sau.
Đến ngày hôm nay, chúng ta không có nhiều tài liệu để nói về công cuộc khẩn hoang ở Quảng Bình và Bắc Quảng Trị của cư dân Việt khi mới vào đây, ngoài gia phả riêng biệt của từng dòng họ, hay những tài liệu địa chí Quảng Bình…Theo những tài liệu này ngay sau chiếu chiêu mộ dân đến mở đất, khai phá vùng đất mới, nhiều người dân từ Bắc, đa số là người Nghệ An đi vào và bắt đầu khai khẩn vùng đất mới. Những người này thường cùng một dòng họ, rồi tụ tập thành một làng, trong sách
Ô Châu Cận Lục, Dương Văn An khi liệt kê các làng ở Lâm Bình, Minh Linh có nói đến các làng Phan Xá, Ngô Xá…nhiều học giả nghiên cứu về Quảng Bình cho rằng các làng này có thể là do các dòng họ, Phan hay Ngô lập ra.
Nhưng ở châu Bồ Chính lại không có những làng mang tên họ như thế này, nhà nghiên cứu địa lý, lịch sử tỉnh Quảng Bình R.P. Cadiere đưa ra giả thuyết vào thời kỳ này di dân khi vào nam không ở châu Bồ Chính mà đi thẳng vào phía Nam sông Gianh để lập nghiệp, sau này vào thời nhà Lê thì vua Lê Thánh Tông mới cho dân đến Bồ Chính lập làng
[4]. Giả thuyết được học giả người Pháp này đưa ra rất có cơ sở, vì theo nghiên cứu của tôi thứ nhất vùng đất phía Nam sông Gianh, tức là châu Lâm Bình và Minh Linh đất đai phì nhiêu hơn khu vực Bồ Chính ở phía Bắc, thứ hai, cũng trong một khu vực tỉnh Quảng Bình bản sắc, tiếng nói của hai vùng Bắc và Nam sông Gianh rất khác nhau, trong khi đó bản sắc và tiếng nói vùng Nam sông Gianh (thuộc địa phận Quảng Bình) lại có nhiều tương đồng với vùng Bắc Quảng Trị tức là châu Minh Linh thời Lý.
Như vậy, đến hết đời Lý lãnh thổ Đại Việt đã mở rộng thêm ba châu Địa Lý, Lâm Bình, Minh Linh nay là Quảng Bình và Bắc Quảng Trị, lấy Cửa Việt ngày nay làm ranh giới hai nước. Đây là cột mốc đầu tiên trong lộ trình Nam Tiến của dân tộc, Nam tiến thời kỳ này chỉ là một bước đệm, các vua Đại Việt lúc này không chủ trương lấy đất, mà chỉ là do vua Champa đổi lấy để trở về nước, nên đây là Nam tiến một cách thụ động của phía Đại Việt. Cuộc Nam tiến bước đầu này hoàn toàn là giai đoạn
Tự phát.
Sang thời nhà Trần (1225 – 1400) mối quan hệ Đại Việt – Champa đầy biến động, lúc hòa thuận, lúc lại đầy sóng gió. Những biến động trên đều xoay quanh một sự kiện trung tâm là cuộc hôn nhân giữa vua Champa là Simhavarman III mà sử Việt gọi là Chế Mân và công chúa nhà Trần, Huyền Trân. Sự kiện này đưa đến việc Champa nhượng lại hai vùng đất mà sử Việt gọi là Châu Ô, Lý (nay là Nam Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, một phần Bắc Quảng Nam).
Đền thời có tượng công chúa Huyền Trân tại Huế
Trước khi đi vào vấn đề Đại Việt thu lấy hai vùng đất mới này, tôi xin khái lược về mối quan hệ hai nước thời Trần, đến trước cuộc hôn nhân lịch sử năm 1306. Từ khi Trần Thái Tông lên ngôi Champa có cho sứ giả sang hai lần, nhưng thỉnh thoảng vẫn không từ bỏ ý định lấy lại ba châu đã mất thời Lý, thường xuyên có những xung đột biên giới nhỏ giữa hai nước. Năm 1252 sau khi vua Thái Tông thân chinh đánh Champa, vùng biên giới mới tạm ổn một thời gian, hai nước lại giao hảo.
Sau đó cả hai nước phải cùng lúc đối mặt với thảm họa xâm lăng từ đế quốc Mông – Nguyên, trong cuộc chiến này hai quốc gia đã hợp tác hiệu quả cùng nhau chống lại kẻ thù chung, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau chiến tranh quan hệ hai nước trở nên tốt đẹp nhất, thường xuyên giao hảo. Vua Simhavarman III và Trần Nhân Tông, luôn cố vun đấp cho mối bang giao hòa hảo đời đời của hai nước. Kết quả là trong chuyến du hành đến Champa, nhận được sự tiếp đãi nồng hậu của Champa, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa.
Nhưng cả ông vua Champa và thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đều không ngờ cuộc hôn nhân này lại nhận được một sự phản ứng mạnh mẻ của các quan đại thần, vốn là những nhà nho thủ cựu, họ so sánh việc này như là việc “Vương Chiêu Quân cống Hồ”, họ phản đối việc đưa công chúa “cành vàng lá ngọc” về làm dâu nước man rợ.
Trước sự phản đối của các quan lại triều Trần, vua Simhavarman III vì mưu cầu cái lợi ích cho quốc gia, nhầm nghĩa đến mối tình thâm hai nước hay vì một lý do gì khác? Đã chấp nhận nhượng lại cho Đại Việt hai vùng châu Ô, Lý, xem như đây là lễ vật cầu hôn công chúa. Đến lúc này, vua, quan nhà Trần mới thống nhất chấp nhận. Năm 1306, Công Chúa Huyền Trân lên đường đến về Champa.
Về sự kiện này thì đến hôm nay hậu duệ người Champa vẫn còn ca thán mãi, họ rất là hận vua Chế Mân đã đem giang sơn đổi lấy mỹ nữ. Còn về phần Việt Nam họ coi sự kiện công chúa về “làm dâu Chiêm quốc” có một ý nghĩa to lớn trong công cuộc Nam tiến, theo bước chân bà đã có hàng trăm, hàng ngàn người lên đường vào Nam, khai phá vùng đất mới.
Nhưng chỉ được một năm, thì vua Champa băng hà, theo phong tục công chúa phải lên giàn thiêu cùng chồng, vua Anh Tông cho người mượn tiếng sang chia buồn, dùng kế cướp công chúa Huyền Trân về nước (đó là chép theo sử cũ, còn xoay quanh sự kiện gần đây có rất nhiều ý kiến tranh cãi, phê bình). Kể từ đó mối quan hệ Việt – Champa liên tục tiếp nối bằng các cuộc xung đột, chiến tranh, mỗi đời vua Champa lên ngôi từ Chế Chí đến Chế Bồng Nga đều nuôi chí báo thù, lấy lại đất cũ, đặc biệt nhất chiến tranh nỗ ra ác liệt giữa hai nước vào thời Chế Bồng Nga, nhiều lần vua Champa đã tiến vào tận kinh thành Thăng Long, nhưng cuối cùng Chế Bồng Nga lại bị chết trận, từ đó sức lực của Champa dần yếu đi trước Đại Việt.
Trở lại vấn đề Nam tiến, sau khi dâng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt, sách Toàn Thư chép:
“Mùa xuân, tháng giêng, đổi hai châu Ô, lý thành châu Thuận và châu Hoá. Sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân hai châu đó.…trước đấy chúa Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu đó làm lễ vật dẫn cưới, nhưng người các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo. Vua (Anh Tông) sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý…chọn người trong bọn họ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về…”[5].
Nếu như theo ghi chép trên chúng ta biết rằng sau khi vua Champa dâng vùng đất này cho Đại Việt, thì vua nhà Trần đã cho Đoàn Nhữ Hài đến thiết lập hệ thống hành chánh, thuế mà, ruộng điền… tức là xác lập chủ quyền ở khu vực này. Đoạn văn trên ta còn biết thêm chi tiết thú vị về các làng La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng có thể là làng của cư dân bản địa (người Champa), một bộ phận họ vẫn còn ở lại và hòa nhập vào cộng đồng người Việt sau này, những tên làng trên là do người Việt phiên âm… hoặc các làng trên là làng của người Việt đã đến định cư ở đây trước đó.
Thuận châu lúc bấy giờ tương đương với khu vực Nam Quảng Trị từ Cửa Việt. Còn về Hóa châu thì cò có nhiều nghi vấn, phần lớn các nghiên cứu có đề cập đến sự kiện này đều nhận định chung rằng Hóa châu xưa tương đương với tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu thường hiểu nhầm rằng dãy Bạch Mã hay đèo Hải Vân là biên giới chính thức của hai nước sau năm 1306. Theo tôi, nhận định trên không chính xác.
Trong
Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời, học giả Đào Duy Anh khi viết về Lộ Thăng, Hoa (tức là vùng đất sau này Hồ Qúy Ly chiếm mà chúng ta hiểu nhầm là tỉnh Quảng Nam hiện tại) có đoạn: “…
Lộ Thăng Hoa (với châu Thăng, Hoa) nói chung là tương đương với đất Quảng Nam, hai châu ấy nhà Hồ đặt sau khi chiếm đất Chiêm Động của Chiêm Thành…”, viết là như vậy nhưng sau khi nghiên cứu về địa điểm của huyện Lệ Giang thời Hồ, tác giả Đào Duy Anh lại viết:
“…Vậy thì ở thời Lê miền Bắc sông Chợ Củi là thuộc thừa tuyên Thuận Hóa, mà thừa tuyên Quảng Nam tương đương với Lộ Thăng Hoa thì ở về phía Nam sông Chợ Củi…”
[6].
Xem thế thì thấy lãnh thổ Hóa Châu không chỉ tương đương với Thừa Thiên – Huế ngày nay. Ta thấy Đào Duy Anh nhận định lộ Thăng Hoa thời Hồ (tức là Chiêm Động của Champa) tương đương với đất Quảng Nam bây giờ, đất này được nhập vào lãnh thổ nước Đại Việt vào năm 1402, sau này sang thời Lê tức là thừa tuyên Quảng Nam. Nhưng sau đó, tác giả lại hoài nghi miền Bắc sông Chợ Củi (Thu Bồn) thuộc thừa tuyên Thuận Hóa, miền Nam sông Chợ Củi mới là thừa tuyên Quảng Nam thời Lê. Mà thừa tuyên Quảng Nam mãi đến năm 1402 mới thuộc về Đại Việt, tức là khu vực bắc sông Chợ Củi tương đương với Bắc tỉnh Quảng Nam ngày nay từ năm 1306 đã thuộc về Đại Việt, tức là thuộc Hóa châu, mà sang thời Lê cũng thuộc thừa tuyên Thuận Hóa chứ không phải thừa tuyên Quảng Nam.
Tôi cho rằng, đây không chỉ là nghi vấn mà học giả Đào Duy Anh đưa ra nữa, mà là một nhận định mới hoàn toàn chính xác, bằng chứng là tác giả Phan Khoang nhận định rằng:
“…huyện Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay chính là Thuận châu; phần còn lại của Thừa Thiên, các huyện Hòa Vang, các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bà thuộc Quảng Nam ngày nay chính là Hóa châu…”
[7]. Lập luận này càng được cũng cố khi nghiên cứu về bản sắc và tiếng nói của người Quảng ở Bắc sông Thu Bồn và Nam sông Thu Bồn có nhiều khác nhau, trong khi đó, bản sắc và tiếng nói phần Quảng Nam ở Bắc sông Thu Bồn lại có nhiều điểm tương đồng với cư dân Thừa Thiên – Huế, khi nghiên cứu gia phả dòng họ Phan ở Đà Nẵng, Hồ Trung Tú cũng đưa ra các nhận định tương tự
[8].
Như vậy, có thể khẳng định đến năm 1306, ranh giới Đại Việt và Champa không chỉ đến đèo Hải Vân mà còn đến tận sông Thu Bồn. Tức là sau năm 1306 lãnh thổ Đại Việt đã tiến xuống, mở rộng thêm không chỉ vùng đất Nam Quảng Trị từ Cửa Việt và tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay mà còn cả khu vực Đà Nẵng và các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An của Quảng Nam (từ Nam đèo Hải Vân đến Bắc sông Thu Bồn).
Địa hình Thuận châu cũng tương tự như địa hình châu Bồ Chính, Địa Lý, Minh Linh. Dãi đất chật, hẹp, tựa lưng vào dãy Trường Sơn, địa hình phân làm ba vùng: núi cao và đồi, trung du ở phía Tây, đồng bằng chính giữa và vùng ven biển ở phía Đông. Hóa châu cũng tựa lưng vào dãy Trường Sơn, chia làm ba miền địa hình từ Tây sang Đông, nhưng từ Thuận châu xuống Hóa Châu phần đất được phình rộng, tạo ra một vùng đồng bằng rộng hơn vùng Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh ở phía Bắc, Sông ngòi thường ngắn nhưng lại lớn về phía hạ lưu, con sông lớn nhất là sông Hương, với cửa biển quan trọng là cửa Thuận An và cửa Tư Hiền, phía cực Nam có con sông Thu Bồn. Về núi cao, dãy Bạch Mã là dãy núi nổi tiếng ở đây, đó là một nhánh ăn ra biển của dãy Trường Sơn, Bạch Mã ngăn cách Thừa Thiên – Huế và Đả Nẵng ngày nay qua đèo Hải Vân nổi tiếng.
Về phía Champa, họ đã đánh mất một địa bàn phòng thủ chiến lược của mình, đánh mất đi một phần của tiểu quốc Amaravati và hải cảng phong thủ chiến lược của khu vực này, đồng thời đánh mất luôn khu vực đồng bằng quanh con sông Hương. Trước là Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý, nay là châu Thuận, Hóa cả hai phần đất trên tương đương cương vực vương quốc Lâm Ấp ban xưa, nay thì đã mất vào Đại Việt.
Như vậy, cho đến lúc này dù lãnh thổ đã được mở rộng nhưng thực tế những phần đất này đều hoặc là do vua Champa cắt để cầu hòa, hoặc là để cầu hôn, nên vì thế người ta không thể kết tội cho Đại Việt có ý định xâm chiếm đất đai của Champa dược, do đó lúc này quá trình Nam tiến của Đại Việt chỉ là thụ động chứ không phải là chủ động, quá trình lưu dân vào khai khẩn, đất đai mới mở rộng chỉ là tự phát chứ chưa chuyển sang giai đoạn tự giác.