[Funland] Cha ông ta mở cõi

Bom76

Xe tăng
Biển số
OF-293853
Ngày cấp bằng
26/9/13
Số km
1,091
Động cơ
328,065 Mã lực
Nơi ở
Loanh quanh cạnh phú ông
Sao hôm nay lắm thớt về lịch thử thế nhỉ,vừa nãy em thấy 1 thớt ~X(
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Các anh hùng mở đất Phương Nam (4)


4- Các chúa Nguyễn có công mở đất phương Nam (Trích Tuyển Tập Thi Nhạc Vịnh Sử
Việt Nam - Nhiều tác giả- do CLB/HSV xuất bản năm 2007): Các chúa Nguyễn có công khai
khẩn đất Miền Nam, mở rộng lãnh thổ về phương Nam đến tận mũi Cà Mâu.Các chúa Nguyễn tiêu biểu là:- Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1600-1613): Năm 1611, đánh Chiêm lấy đất lập ra phủ Phú Yên.
- Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687): Năm 1653 sai tướng đi đánh Chiêm, vượt qua đèo Cả (19), lấy đất từ sông Phan Lang trở ra và sai quan đem quân sang đánh ở Mỗi Xuy
(Biên Hòa).
- Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725): Năm 1693 lấy hết đất Chiêm còn lại, đổi làm
Thuận Phủ.Bối cảnh lịch sử thời chúa Nguyễn

Nam Triều, Bắc Triều (1527-1592)
Nhà Lê truyền từ Lê Thái Tổ (1428-1433) đến Lê Cung Hoàng (1522-1527), được 10 đời vua
kéo dài 99 năm, thì bị Mạc Đăng Dung chiếm ngôi.

Năm 1527 Mạc Đăng Dung giết vua Cung Hoàng và bắt các quan trong triều thảo chiếu truyền
ngôi cho Nhà Mạc.

Họ Mạc làm vua từ năm 1527 đến năm 1592 (đời vua Mạc Mậu Hợp) truyền được 5 đời, trong
65 năm thì phải rút về Cao Bằng. Nhờ Nhà Minh can thiệp, lại tiếp tục hùng cứ ở vùng đất biên
giới Hoa Việt (Cao Bằng), đến năm 1667 mới dứt hẳn. Sử gọi Nhà Mạc là Bắc Triều.

Họ Nguyễn (Nguyễn Kim) và họ Trịnh (Trịnh Kiểm) giúp Nhà Lê Trung Hưng (còn gọi là Nhà
Hậu Lê) ở vùng Thanh Hóa, lập con út vua Chiêu Tông lên làm vua, tức Lê Trang Tông (1533-
1548), truyền được thêm 17 đời, đến Lê Chiêu Thống (1786-1788) mới chấm dứt. Như vậy,
tổng cộng trước sau Nhà Lê truyền được 354 năm, với 27 đời vua (6 năm không có vua Lê, từ
1527 đến 1533 là thời gian Mạc Đăng Dung mới chiếm ngôi). Sử gọi nhà Lê Trung Hưng ở
giai đoạn đánh nhau với họ Mạc là Nam Triều.Trịnh Nguyễn Phân TranhHọ Trịnh và họ Nguyễn sau khi giúp nhà Lê Trung Hưng, đều xưng Vương tục gọi là Chúa
Trịnh và Chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn ở miền Nam (20), Chúa Trịnh ở miền Bắc, cùng lấy
tiếng phò Lê, nhưng lại nắm hết binh quyền. Vua Lê chỉ ngồi làm vì.
Chúa Trịnh và chúa Nguyễn lấy ranh giới là sông Linh Giang (sông Gianh), hai bên đánh nhau
7 lần trong vòng 45 năm, khiến dân chúng hai miền đều phải chịu cực khổ, tổn thất về sinh
mạng, tài sản không biết bao nhiêu mà kể.Lấy Hết Đất Chiêm Thành• Năm 1611 Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng (1600-1613) còn gọi là Chúa Tiên, đánh
Chiêm lấy đất lập ra phủ Phú Yên (21)• Chúa Nguyễn Hoàng mất, Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) còn gọi là Chúa Sãi, được
nối nghiệp, có tướng giỏi là ông Đào Duy Từ phò tá. Vợ Nguyễn Phúc Nguyên là con gái Mạc
Kính Điển sinh được 5 con trai và 3 cô gái là Ngọc Liên, Ngọc Vạn và Ngọc Khoa (22).

• Năm 1653 Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) sai tướng đi đánh Chiêm, lấy đất
từ sông Phan Lang trở ra, vượt qua đèo Cả, cách Ải Nam Quan trên 1528 km..

.
• Năm 1693 chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) gọi là Quốc Chúa lấy hết đất Chiêm
còn lại, đổi làm Thuận Phủ; lại bắt người Chiêm phải đổi y phục như người Việt Nam. Đến năm
1697 chúa Nguyễn lấy Phan Lý (Phan Rí), Phan Lang (Phan Rang) làm huyện Yên Phúc và
Hòa Đa. Từ đó nước Chiêm Thành mất hẳn.





Tháp Chàm Qui Nhơn

Lấy Đất Thủy Chân Lạp
• Cuộc chiến tranh Trịnh Nguyễn kéo dài, khiến dân Việt phải chịu đói khổ, nhiều người
bỏ vào khai khẩn đất ở vùng Mỏ Xoài (Bà Rịa) và vùng Đồng Nai (Biên Hòa) thuộc Chân Lạp.

Năm 1658 chúa Hiền tức Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) sai quan đem 3000 quân sang
đánh ở Mỗi Xuy (Biên Hòa), bắt được vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân (Ang-Chan), nói phải
triều cống và bênh vực người Việt làm ăn ở bên đó.

Năm 1674, Nặc Ông Đài (Ang-Chei) đi cầu viện nước Tiêm La để đánh Nặc Ông Nộn
(Ang-Non). Ông Nộn sang cầu cứu Chúa Nguyễn xin đem quân đánh Ông Đài, phá được đồn
Sài Gòn rồi vây thành Nam Vang
. Nặc Ông Đài thua chạy vào chết trong rừng, Nặc Ông Thu
(Ang Sor) ra hàng. Chúa Nguyễn lập Nặc Ông Thu làm quốc vương chính (vì là dòng con
trưởng), và Nặc Ông Nộn làm đệ nhị quốc vương đóng ở Sài Côn (Sài Gòn), hàng năm phải
triều cống.

Năm 1679, một số các quan nhà Minh như Dương Ngạn Địch, Hoàng Tiến, Trần
Thượng Xuyên
...không muốn làm tôi nhà Thanh, đem 3000 quân và 50 thuyền sang xin làm
dân Việt. Chúa Hiền cho họ vào khai khẩn đất Chân Lạp, và lập thành phường phố ở vùng
Đông Phố (Gia Định), Lộc Dã (Đồng Nai, Biên Hòa), và Mỹ Tho (Định Tường).

Năm 1698, chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) sai ông Nguyễn Hữu Kính (Cảnh) làm
kinh lược đất Đồng Nai, chia Đông Phố (Gia Định) ra làm dinh, huyện: Đồng Nai là huyện Phúc
Long (Phước Long), Sài Gòn là huyện Tân Bình, đặt Trấn Biên Dinh (Biên Hòa), Phan Trấn
Dinh (Gia Định), sai quan vào cai trị. Những người Tàu ở Gia Định lập ra xã Minh Hương. (Như
vậy, thành phố mang tên Sài gòn, được thành lập từ năm 1698) Mạc Cửu là người khách ở Quảng Đông sang mở sòng bài tại Sài Mạt rồi lập ra 7 xã gọi
là Hà Tiên, được chúa Nguyễn phong làm Tổng Binh. Mạc Cửu mất, con là Mạc Thiên Tứ
được nối nghiệp cai quản đất Hà Tiên, đã đắp thành, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy
Nho học.

Năm 1729 Chúa Nguyễn đặt sở Điều Khiển ở Gia Định, lấy cớ quân Chân Lạp hay sang
quấy nhiễu.

Năm 1755 Nặc Nguyên bị tướng chúa Nguyễn đánh, chạy sang Hà Tiên, nhờ Mạc Thiên
Tứ, xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội và xin cho về nước. Ông Nguyễn Cư
Trinh hiến kế sách “Tầm Thực”, nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá dâu. Sau lại được
cháu Nặc Nguyên là Nặc Tôn dâng Tầm Phong Long để tạ ơn. Chúa Nguyễn cho về nước làm
vua. Nặc Tôn cũng dâng 5 phủ Hương Ức, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để tạ
ơn Mạc Thiên Tứ. Chúa Nguyễn cho sát nhập vào trấn Hà Tiên để Mạc Thiên Tứ cai quản.
Vậy,“Lục Tỉnh” chính là 6 tỉnh miền Nam Việt Nam, xưa kia là đất Thủy Chân Lạp, do công lao
ngưòi Việt khai khẩn và được các vị vua Chân Lạp dâng hiến cho Chúa Nguyễn.
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Các anh hùng mở đất Phương Nam (5)

5- Công Nương Ngọc Vạn (Nguyễn Phúc Ngọc Vạn): Không rõ năm sinh, năm mất, là con
gái thứ hai của chúa sãi Nguyễn Phúc Nguyên. (1613-1635). Theo Nguyễn Phúc tộc Thế phả
được xuất bản tại Huế (1995) (nguồn Wikipedia), năm Canh Thân 1620, Ngọc Vạn được chúa
Nguyễn gả cho vua Chân Lạp Chey Chetta II (ở ngôi 1618-1628) và trở thành Hoàng Hậu
Chân Lạp, với mục đích giao hảo hai nước để “Đàng Trong” rảnh tay đối phó với “Đàng
Ngoài” (Bắc Việt Nam) do chúa Trịnh đang nắm quyền cai trị. Vua Chân Lạp cũng muốn dựa
vào thế lực chúa Nguyễn để đối phó với Xiêm La đang khống chế Chân Lạp. Nhờ sự giao hảo
này, triều đình các chúa Nguyễn lập được phòng thu thuế ở Sài Gòn, và những người Việt
sang vùng Mỏ Xoài, Bà Rịa từ trước được Chân Lạp chấp nhận, yên ổn làm ăn. Bù lại, các
chúa Nguyễn cũng đem quân giúp Chân Lạp chống lại quân Xiêm.
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Các anh hùng mở đất Phương Nam (6)


6- Danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700):
Chân dung Nguyễn Hữu Cảnh (Nguồn Wikipedia)
Nguyễn Hữu Cảnh (Nguyễn Hữu Kính) dòng dõi danh nhân Nguyễn Trãi, ông nội người làng
Gia Miêu (Thanh Hóa), theo chúa Nguyễn Hoàng di cư vào Thuận Hóa, cha là danh tướng
Nguyễn Hữu Dật. Ông sinh năm 1650 tại Quảng Bình, là danh tướng của chúa Nguyễn Phúc
Chu (1691-1725), được phong tước Lễ Thành Hầu, chức Chưởng Binh.

Năm 1692, ông được phong làm Thống Binh đánh đuổi Chiêm Thành tại Diên Khánh và làm
trấn thủ dinh Bình Khương (Bình Khang – Khánh Hòa, Ninh Thuận).

Năm 1698, ông được chúa Nguyễn Phúc Chu cử làm Thống Suất, kinh lược xứ Đồng Nai. Ông
ở tại Cù Lao Phố (Biên Hòa), lấy đất Nông Nại lập ra Gia Định phủ, lấy đất Sài Gòn làm huyện
Tân Bình, lập dinh Trấn Biên (Biên Hòa), và dinh Phiên Trấn (Gia Định). Ông chiêu mộ lưu
dân ở miền Trung vào Nam, lập phường, ấp, xã, thôn… Con cháu người Hoa ở nơi Trấn Biên
thì lập thành xã Thanh Hà, ở nơi Phiên Trấn (Gia Định) thì lập thành xã Minh Hương. Năm
1699, ông đánh tan quân do Nặc Ông Thu cầm đầu tấn công Đại Việt. Ông mất năm 1700,
hưởng dương 51 tuổi. Dân chúng lập nhiều đền thờ để tưởng nhớ công ơn danh tướng
Nguyễn Hữu Cảnh, như tại Biên Hòa, Long Xuyên, Châu Đốc… Ở An Giang có Cù Lao Ông
Chưởng. Ở thủ đô Nam Vang (Cao Miên) cũng có đền thờ.
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Các anh hùng mở đất Phương Nam (7)


7- Danh tướng Nguyễn Cư Trinh (1716-1767): Quê huyện Hương Trà (Thừa Thiên – Huế),
tổ tiên họ Trịnh, cha ông được mang quốc tính họ Nguyễn dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu
(1691-1725). Nguyễn Cư Trinh vừa là danh tướng, vừa là danh sĩ thời chúa Võ Vương Nguyễn
Phúc Khoát và Định Vương Nguyễn Phúc Thuần. Năm 1740, ông thi đỗ Hương Tiến (Hương
Cống, Cử nhân), được bổ làm Tri Phủ Triệu Phong (Quảng Trị), sau làm đến Thượng Thư
bộ Lại Kiêm Tào Vận Sứ, tước Nghi Biểu Hầu. Ông thường liên lạc xướng họa với Mạc Thiên
Tứ ở Hà Tiên, và tạo được cảm tình ngoại giao tốt đẹp khiến họ Mạc đã chuyển giao hết
những đất đai mà Chân Lạp dâng nạp, chuyển lại cho chúa Nguyễn.

Ông có công dẹp giặc Đá Vách (1750), đánh thắng Nặc Nguyên (1753), nổi tiếng về kế sách
“dĩ địch chế địch” hay “dĩ man công man” (dùng người Côn Man chống người Chân Lạp), và
“tàm thực” (xâm chiếm Chân Lạp dần dần như tầm ăn lá dâu), ông đã khéo léo thu cả miền
đồng bằng sông Cửu Long về cho Đại Việt.

Nguyễn Cư Trinh mất vì bệnh năm 1767, hưởng dương 51 tuổi, được truy tặng Tá lý công
thần, Vinh Lộc Đại Phu, thụy Văn Định. Ông còn truyền lại nhiều văn thơ, đặc biệt Truyện Sãi
Vãi …
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Các anh hùng mở đất Phương Nam (8)


8- Danh tướng Thoại Ngọc Hầu (1761 - 1829): Tên thật là Nguyễn Văn Thoại (Thụy), sinh
năm 1761 tại tỉnh Quảng Nam (nay thuộc Đà Nẵng), di cư vào Nam theo mẹ ở Cù lao Dài
(Vĩnh Long) vì Trịnh Nguyễn phân tranh và phong trào Tây Sơn nổi dậy 1771. Ông theo chúa
Nguyễn Ánh, lập được nhiêu công lớn được thăng tới chức Khâm sai Thống binh cai cơ, Trấn
thủ Bắc Thành (Hà Nội), Trấn thủ Lạng Sơn, Trấn thủ Định Tường (1808), bảo hộ Cao Miên
(1813) ba năm, trấn thủ trấn Vĩnh Thanh (1817) và cho lập 5 làng trên Cù lao Dài.

Ông Thoại Ngọc Hầu đã để lại những công trình mở mang đất Miền Nam như sau:

1- Đào Kênh Thoại Hà (1818), dài hơn 30 km, nối Long Xuyên với Rạch Giá. Đào xong được
vua Gia Long đã cho phép lấy tên ông để đặt cho tên núi (Thoại Sơn), tên kênh (Thoại Hà).

2- Đào Kênh Vĩnh Tế: Dọc theo biên giới Tây Nam Việt Miên, nối liền Châu Đốc-Hà Tiên, dài
91 km, trong 5 năm (huy động 80.000 nhân công thực hiện từ năm 1819-1824). Kênh được
lấy tên vợ ông là bà Châu Thị Tế

3- Đắp đường Núi Sam-Châu Đốc, dài 5 cây số (1826 đến 1827), huy động gần 4.500 nhân
công. Làm xong, ông cho khắc bia "Châu Đốc Tân Lộ Kiều Lương" dựng tại núi Sam năm
1828 để kỷ niệm. Ngày nay, tấm bia không còn, nhưng còn văn bia trong sử sách.

4- Năm 1823, ông cho lập 5 làng trên bờ kênh Vĩnh Tế là Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế, Vĩnh Điều,
Vĩnh Gia, Vĩnh Thông .

Ông Nguyễn Văn Thoại mất vào ngày 6 tháng 6 (âm lịch) năm Kỷ Sửu (1829) thọ 68 tuổi.
Ngày nay, đền và mộ Thoại Ngọc Hầu với hai phu nhân Châu Thị Tế và Trương Thị Thiệt, gọi
chung là Sơn lăng ở chân núi Sam (Châu Đốc). (23)
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Các anh hùng mở đất Phương Nam (9)


9- Danh tướng Lê Văn Duyệt (1763-1832): Người làng Hòa Khánh, dinh Long Hồ (huyện
Cái Bè, tỉnh Tiền Giang – Nguyên quán là Quảng Ngãi), sinh năm 1763, theo tòng chúa
Nguyễn Phúc Ánh từ 17 tuổi, lập được nhiều chiến công và được phong làm Khâm Sai
Chưởng Tả quân dình Bình Tây tướng quân (gọi tắt là Tả quân), tước Quận Công. Ông được
giũ chức Tổng Trấn Gia Định 2 lần: từ 1812 đến 1815 (thời Gia Long) và từ 1820 đến 1832
(thời Minh Mạng). Năm 1801 ông đã cùng Nguyễn Phúc Ánh và các tướng Nguyễn Văn
Trương, Tống Phúc Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại. Ai cũng sợ và gọi ông
là "Cọp Gấm Đồng Nai", là một trong ngũ hổ tướng (Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Nhơn,
Nguyễn Huỳnh Đức và Trương Tấn Bửu). Ngoài võ công, ông cón có công điều động thêm
dân công hoàn thất Kênh Vĩnh Tế (do Thoại Mgọc Hầu trách nhiệm chính trong việc đào kênh).

Ông mất tại Gia Định năm Nhâm Thìn (1832), thọ 69 tuổi. Vì vụ án Lê Văn Khôi (con nuôi Tả
quân Lê Văn Duyệt) nổi dậy chiếm thành Phiên An (do Tả quân Lê Văn Duyệt xây) chống lại
triều đình từ năm 1833 đến năm 1835, nên ông bị liên lụy, lăng mộ tại Gia Định (Lăng Ông tại
Bà Chiểu) bị san bằng và xiềng xích, các ngôi mộ cha mẹ ông bị đục bỏ tước hiệu khắc trên
bia… Đến năm 1841 vua Thiệu Trị xuống chiếu hủy bỏ bia kết tội. Lăng mộ Tả quân Lê Văn
duyệt được xây đắp lại khang trang hơn. Ngày nay “Lăng Ông Bà Chiểu” tại Gia Định Sài Gòn
vẫn là nơi được dân chúng sùng bái đông đảo, để nhớ ơn một vị danh tướng có công mở đất
phương Nam.
 

XK1959

Xe đạp
Biển số
OF-394024
Ngày cấp bằng
26/11/15
Số km
32
Động cơ
235,420 Mã lực
Tuổi
65
Công cuộc Nam tiến thời Lý – Trần – Hồ – Lê (1009 – 1527)

Đại Việt thời Lê Thánh Tông (1460-1497)

Đổng Thành Danh

Từ trước đến nay, khi tiếp cận về tiến trình Nam tiến của người Việt, chúng ta thường thấy có hai cách tiếp cận chính: Phân kỳ và phân vùng. Phân kỳ tức là phân chia theo thời đại, với cách phân kỳ, người nghiên cứu tiếp cận quá trình Nam tiến theo từng giai đoạn Lý – Trần – Hồ – Lê – Nguyễn. Cách tiếp cận phân vùng, tức là chia ra theo lãnh thổ từ quá trình sát nhập Champa, tiếp theo là quá trình lấy đất Chân Lạp.

Tiếp cận Nam tiến, dười góc độ phân kỳ, có cái hay là làm rõ được tính xuyên suốt của tiến trình, những người nghiên cứu theo hướng này, muốn làm rõ tính chất liên tục của một diễn trình lịch sử, sự kiện mở cõi thời trước là tiền đề cho quá trình Nam tiến thời sau, sự kiện sau làm tiền đề cho cái sau nữa. Và như vậy, với cách tiếp cận này, Nam tiến được đưa vào một khung lộ trình, theo một diễn biến có thứ tự từ trước đến sau.

Nhưng với cách tiếp cận này, người nghiên cứu sẽ gặp khó khăn khi nghiên cứu về cuộc Nam tiến thời chúa Nguyễn. Vì rằng, vào thời chúa Nguyễn, Nam tiến có hai quá trình song song, một là sát nhập và tích hợp phần lãnh thổ cuối cùng của Champa vào xứ Đàng Trong, hai là mở đất ở Nam bộ, sát nhập phần đất của Chân Lạp. Hai quá trình này là hai quá trình đồng thời song song, với những diễn biến, cách thức, mối tương quan giữa các lực lượng…khác nhau. Nên, khi tiếp cận theo cột mốc 1611 mở đất Phú Yên, 1653 mở đất Khánh Hòa, 1692 mở đất Ninh Thuận, Bình Thuận (lãnh thổ Champa), sau đó lại nêu cột mốc 1698, Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược, mở đất Đồng Nai – Gia Định, vốn thuộc lãnh thổ của Chân Lạp. Thì người nghiên cứu phải nhắc lại về những điều kiện, hoàn cảnh, tiền để trước năm 1698 dẫn đến việc Nguyễn Hữu Cảnh Kinh lược xứ Đồng Nai, Gia Định, như sự kiện cuộc hôn nhân giữa vua Chân Lạp Chey Chetta II và công nữ Ngọc Vạn năm 1620, việc người Việt đến vùng đất Nam bộ định cư, sự kiện chúa Nguyễn lập đồn thu thuế cho người Việt năm 1623, sự kiện chúa Nguyễn cho 3000 người Hoa lưu vong vào xứ đó khai phá đất đai năm 1679…Những sự kiện này, là những sự kiện quan trọng, tiền để dẫn đến cuộc mở đất sau này ở Nam bộ. Tiếp cận theo cách phần kỳ, người nghiên cứu sẽ phải quay lại nói về những sự kiện trước ở Nam bộ dẫn đến sự kiện năm 1698, như vậy tính phân kỳ bị phá vỡ, dường như là thiếu logic.

Với cách tiếp cận phân vùng, người nghiên cứu sẽ không gặp phải trường hợp này. Nam tiến dười cách tiếp cận này, không phân chia theo thứ tự thời gian, mà chia theo vùng. Như vậy, Nam tiến được chia thành hai quá trình, một là sát nhập nước Champa, bắt đầu từ thời Lý, trải qua đến đời Trần, Hồ, Lê và hoàn thành ở đời chúa Nguyễn. Qúa trình hai, là lấy đất của Chân Lạp vào thời chúa Nguyễn, khi tiếp cận như thế này, đến lúc nghiên cứu về quá trình lấy đất Chân Lạp, người nghiên cứu sẽ lại đi theo trình tự các sự kiện đã nói ở trên là 1620, 1623, 1679 và sau đó mới đến sự kiện 1698, Nguyễn Hữu Cảnh kinh lược xứ Đồng Nai, Gia Định. Như vậy, sẽ tõ ra hợp lý và logic hơn.

Nhưng, với cách tiếp cận này, người nghiên cứu lại sẽ không đưa Nam tiến vào một khung tiến trình, theo thứ tự triều đại. thời gian trước sau của cả một tiến trình Nam tiến. Nam tiến, là một quá trình, do đó nó cần được nghiên cứu theo thứ tự, theo một tiến trình, trước đến sau, sau đến sau nữa. Sự kiện mở đất thời chúa Nguyễn, không thể có nếu không có các sự kiện mở đất lần lần, theo kiểu “tầm ăn lá” từ thời Lý, sang đến thời Trần, Hồ, Lê. Theo cách phân vùng, người nghiên cứu, khi nghiên cứu về sự sát nhập Champa sẽ đi theo trình tự thời gian từ Lý – Trần – Hồ – Lê, đến thời chúa Nguyễn, khi nghiên cứu về việc lấy đất Chân Lạp thì chỉ có nói về thời chúa Nguyễn. Như vậy, làm sao có thể biết được mối tương quan, tương tác giữa hai quá trình song song này, sự thực quá trình sát nhập Champa và lấy đất Chân Lạp thời chúa Nguyễn có tính hỗ tương với nhau, rằng khi lấy xong đất Phú Yên, Khánh Hòa (1611, 1653) các chúa Nguyễn đã nghĩ ngay đến việc lấy đất Chân Lạp, và thực hành nó trong suốt thời gian đó. Trong khi, phần lãnh thổ cuối cùng của Champa vẫn chưa bị sát nhập hoàn toàn, nhưng việc người Việt, người Hoa có mặt ở Đồng Nai, Gia Định và việc chúa Nguyễn mở những trạm thu thuế ở Nam bộ, chứng tỏ, từ ngày đó, việc sát nhập vùng đất này đã nằm trong toan tính của các chúa Nguyễn. Lãnh thổ cuối cùng của Champa, đã bị thế lực của người Việt gọng kìm từ hai phía, sớm hay muộn nó cũng mất. Và khi mà phần lãnh thổ này cũng bị chúa Nguyễn lấy (1692), thì cũng chính là lúc mà các chúa Nguyễn có đủ những điều kiện công khai hay chính thức xác lập chủ quyền ở vùng đất Đồng Nai, Gia Định (1698). Vì rằng, chính việc sát nhập vùng đất cuối cùng của Champa, sẽ đặt ranh giới cực Nam của xứ Đàng Trong, liền với xứ Đồng Nai và Gia Định, lúc bấy giờ vẫn thuộc Chân Lạp, việc sát nhập vùng đất này vào xứ Đàng Trong chỉ còn là vấn đề thời gian. Và như thế, ta có quyền nói chính sự kiện năm 1692, là sự kiện trực tiếp (các sự kiện 1620, 1623, 1679 chỉ là sự kiện gián tiếp) dẫn đến sự kiện năm 1698, cho dù đó là hai quá trình khác nhau, trên hai phân vùng khác nhau. Với cách phân vùng, mối tương hỗ của hai quá trình chỉ là mờ nhạt, nhưng kỳ thực, hai quá trình Nam tiến, vào thời chúa Nguyễn có mối quan hệ với nhau, sự kiện này dù ở quá trình này, cũng sẽ tác động đến sự kiện kia ở quá trình kia, điều đó là rất quan trọng. Dưới gốc độ phân vùng, chúng ta sẽ không hiểu rõ mối tương quan đó.

Và như đã nói, Nam tiến là một quá trình, một quá trình thì phải được phân tích, nghiên cứu dưới gốc độ phân kỳ. Lịch sử không được phân kỳ và mọi phân kỳ đều chỉ là khập khiễn, nhưng khoa học về lịch sử cần phải được phân kỳ, phân kỳ giúp cho lịch sử được nhận biết, được thấu hiểu rõ ràng hơn, lôgic hơn. Trong niên luận này, tôi lựa chọn cách phân kỳ, để tiếp cận Nam tiến, với cách tiếp cận này, tôi biết mình sẽ vấp phải những lỗi đã nói ở trên. Nhưng đổi lại, khi nghiên cứu đến thời chúa Nguyễn, tôi sẽ chọn cách phân vùng và cố làm nổi bật tính phân kỳ, mối tương hỗ của hai quá trình song song của tiến trình Nam tiến vào thời chúa Nguyễn.

Tiện đây, tôi cũng lưu ý thêm một số thuật ngữ, quan niệm của tôi về phân kỳ lịch sử Nam tiến, được tôi sử dụng trong chương này: Nam tiến tự phát và tự giác; Nam tiến thụ động và bị động.

Nam tiến thụ động tức là một quá trình mở rộng lãnh thổ về Nam không xuất phát từ mục đích của phe thắng cuộc, cuộc mở cõi thời Lý và thời Trần chính là Nam tiến thụ động vì nó chỉ là kết quả của một sự dâng hiến tự nguyện từ kết quả của một cuộc chiến (nam 1069) và là quà cưới do người Champa trao cho Đại Việt hay nói cách khác Đại Việt vào thời Lý – Trần không có chủ động mở đất. Ngược lại, Nam tiến chủ độnglà cuộc mở rộng lãnh thổ về Nam mà phía Đại Việt dù bằng hình thức nào (tiến công đánh chiếm hay can thiệp vào nội bộ nước láng giềng) cũng đều chủ trương lấy đất của người để mở rộng lãnh thổ, theo tôi từ thời nhà Hồ Nam tiến đã chuyển sang chủ động. Tôi sẽ lý giải cụ thể hơn trong từng nội dung, từng thời kỳ của chương này về hai quá trình này.

Nam tiến tự phát sang tự giác là một quá trình, từ khi Nam tiến chỉ là một ý thức đơn giản nhầm mở rộng lãnh thổ sau các cuộc chiến tranh chinh phạt, họ xem đó như là kết quả của các cuộc đi đánh nước người, cuộc mở rộng lãnh thổ thời kỳ này không là chủ trương, đối sách được đặt lên hàng đầu, không mang nhiều ý nghĩa sống còn hay trường tồn của quốc gia hay triều đại. Chẳng hạn từ thời Lý đến tận thời Lê Sơ, Nam tiến đối với tổ tiên chúng ta từ cấp trung ương chỉ là kết quả do sự dâng nộp của các vua Champa (thời Lý – Trần), cho dù từ thời Hồ và thời Lê sơ Đại Việt đã chủ động đi đánh và lấy đất Champa (nam tiến chủ động) thì đó cũng chưa phải là một chính sách mang tính chất sống còn của triều đại, không nằm trong một chính sách phát triển của cả quốc gia như ở thời các chúa Nguyễn, cũng không mang tính liên tục như thời chúa Nguyễn. Sở dĩ tôi nhận định như vậy là vì, cho dù nhà Hồ đã có chủ trương đánh Champa để mở rộng lãnh thổ. nhưng sau này khi nhà Hồ bị quân Minh lật đổ, Champa đã chiếm lại vùng đất này, đến thời Lê Sơ vua Nhân Tông từng thân chinh đánh Champa nhưng lại không chiếm lấy đất Champa. Sau này 1471 vua Lê Thánh Tông tuy có chinh phạt và lấy được đất của Champa, nhưng vua Thánh Tông lại không có mục tiêu mở rộng lãnh thổ nữa, mà bằng chứng là ông đã cho khắc lên núi Thạch Bi (ranh giới với nước Champa) rằng “Chiêm Thành quá thử binh bại quốc vong, An Nam quá thử tướng tru binh chiết”. Như vậy chúng ta không thể nói Nam tiến từ Lý đến Lê là một quá trình liên tục, một chính sách, chủ chương chiến lược liên quan đến sự sống còn, trường tồn của quốc gia hay triều đại được, hay nói cách khác Nam tiến đối với Đại Việt từ năm 1471 trở về trước có cũng được, không có cũng được. Nên tôi xếp giai đoạn này ( Lý – Trần – Hồ – Lê) là thời kỳ Nam tiến tự giác.

Nhưng tình hình của các chúa Nguyễn sau này lại khác, sau khi chúa tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận – Quảng, ông lúc nào cũng nuôi ý chí xây dựng một quốc gia tự chủ tuy vẫn mang danh nghĩa phò Lê, nhưng vẫn thoát khỏi sự kiểm soát của các chúa Trịnh, ông không muốn hàng năm phải đóng thuế cho họ Trịnh nữa. Nhưng xứ Thuận – Quảng thời đó chỉ là một vùng mới thành lập, dân cư còn thưa thớt, diện tích nhỏ hẹp, vùng đất này tuy có nhiều tìềm lực phát triển nhưng so với họ Trịnh ở phương Bắc với một vùng kiểm soát rộng lớn (đồng bằng Bắc Bộ, vùng núi Tây Bắc và Đông Bắc, vùng đồng bằng Thanh – Nghệ – Tĩnh) mà diện tích hơn ba, bốn lần xứ Thuận – Quảng cộng lại, dân cư cũng tương đương như vậy. Trong khi đó, chúa Trịnh lại luôn đưa quân vào đánh vùng đất này của chúa Nguyễn, họ Trịnh luôn coi nhà Nguyễn là cái “gai trước mắt” cần phải tiêu diệt. Chúa Nguyễn, trong bối cảnh đó một mặt phải Bắc cự Trịnh nhưng bên trong không ngừng xây dựng và củng cố vùng đất Thuận – Quảng, nhưng như vậy chưa đủ, để đủ sức lớn mạnh, trở thành một thế lực đối chọi ngang hàng với họ Trịnh, chúa Nguyễn phải Nam tiến, phải tìm thêm những vủng đất mới chưa được khai phá hết với những nguồn lợi phong phú, phải lấy dân từ Đàng Ngoài vào khai phá, những mãnh đất mà chúa Nguyễn mở rộng, đó luôn là niềm khao khát một cuộc sống mới không chỉ cho cư dận Thuận – Quảng mà còn cho những lưu dân ngày càng đông đến từ vùng Đàng Ngoài do chúa Trịnh kiểm soát, đó chính là những điều kiện để chúa Nguyễn vươn lên sánh ngang, thậm chí còn phát triển hơn cả vương quốc của chúa Trịnh…

Đến đây Nam tiến thật sự là một chính sách, chủ trương mang tính sống còn, mang ý nghĩa chiến lược của chúa Nguyễn. Đó chính là chủ trương mà mọi ông chúa họ Nguyễn luôn phải quan tâm thực hiện song song với chính sách Bắc cự (chống chúa Trịnh). Xem thế thì thấy, thời các chúa Nguyễn Nam tiến thật sự là một quá trình tự giác vậy!
 

XK1959

Xe đạp
Biển số
OF-394024
Ngày cấp bằng
26/11/15
Số km
32
Động cơ
235,420 Mã lực
Tuổi
65
Nam tiến thời Lý – Trần (1009 – 1400).

  • Thời Lý (1009 – 1224).
Sau năm 938, chỉ cần vượt qua dãy Hoàng Sơn người Việt đã có thể tiến xuống vùng đất Champa. Trong suốt thời kỳ Bắc thuộc dù biên giới của Giao Châu và Champa (trước đó là Lâm Ấp) liên tục biến thiên, nhưng sau khi đất nước Việt Nam lấy được nền độc lập (938) thì dãy Hoàng Sơn là một ranh giới phân chia chính thức của hai nước và hầu như không có nhiều biến động cho đến thời Lý, chính là biên giới giữa tỉnh Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay.

Thời Lý, biên giới cực Nam của nước Đại Việt là châu Hoan, châu Ái, cực Bắc của Champa là địa danh được sử Việt gọi là Bồ Chính. Miền biên giới này là nơi thường xảy ra những xung đột, quấy nhiễu qua lại giữa hai quốc gia, tiếp theo xuống thứ tự là các vùng Ma Linh và Địa Lý (3 châu Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý tương đương với Quảng Bình, và Bắc Quảng Trị).

Mối quan hệ Đại Việt và Champa, sau cuộc hành quân của Lê Đại Hành năm 980 vào đất Champa, từ đó mối quan hệ hai nước tạm yên ổn. Sau khi nhà Lý được thành lập, mối quan hệ này trở nên vô cùng phức tạp, có những lúc hai bên giao hiếu, lại có những lần hai bên giao tranh đặc biệt nhất là cuộc giao tranh năm 1044, tức là thời Lý Thái Tông.

Dấu ấn đầu tiên trong tiến trình Nam tiến được ghi nhận chính là năm 1069, khi vua Lý Thánh Tông thân chinh Champa, bắt sống vua Champa mà bia ký Chăm gọi là Rudravarman III, sử Việt gọi là Chế Củ, buộc vua Champa phải cắt ba châu Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt.

Về nguyên nhân cuộc hành quân này Đại Việt Sử Ký Toàn Thư(toàn thư chép): “…Chiêm thành dâng voi trắng, sau lại quấy nhiễu biên giới…” (1068) có lẽ đó là nguyên nhân chăng? Nhưng sách Việt Sử Lược lại không thấy chép gì về sự kiện tiến cống voi trắng này, trong cuốn sách Lý Thường Kiệt: lịch sử bang giao và tông giáo, tác giả Hoàng Xuân Hãn đặt nghi vấn về nguyên nhân được sách Toàn Thư nêu ra, tác giả dẫn chứng trên bia ký ở chùa Linh Xứng nói rõ: “…Kịp đến khi nước Phật Thệ (tức Champa) hỗn phép không tới chầu, quân nhà vua rầm rộ kéo sang đánh…”, ngoài ra bằng chứng thứ hai là sau khi khải hoàn vua Lý gửi thư cho vua Tống nói rằng “…Chiêm Thành đã lâu không tiến cống, tôi tự đem quân sang đánh…”[1].

Về diễn biến của cuộc hành quân này các sách đều chép như nhau, nhưng sách Việt Sử Lược là chép chi tiết hơn cả, theo đó: “…Mùa xuân, tháng 2, ngày Mậu Tuất (24 – 2) vua xuống chiếu thân chinh đến nước Chiêm Thành. Ngày Đinh Mùi (5 – 3) vua thề ở nơi Long Trì. Ngày Canh Dần (8 – 3) vua xuất quân. (Đúng là ngày Giáp Tuất- ND). Ngày Đinh Tỵ đến châu Nghệ An(15 – 3)…Ngày Canh Thân dừng quân ở cửa biển núi Nam Giới (nay là cửa Sót, Hà Tĩnh)…Ngày Ất Sửu (23 – 3) sai bọn Hoàng Tiệp trong hàng Đại Liêu Ban đánh cửa biển Nhật Lệ thắng lợi. Ngày Kỷ Tỵ (27 – 3) qua Đại Trường Sa. Ngày Canh Ngọ (28 -3) dừng quân ở cửa biển Tư Dung…

Ngày Bính Tý đóng quân ở Thị Lợi Bì Nại. Đại quân tiến lên trước đóng ở bờ sông Tu Mao thấy tướng Chiêm Thành là Bố Bì Dà La đang bày trận ở bờ sông. Quan quân (nhà vua- ND) xông ra đánh, chém Bố Bì Dà La, quân Chiêm chết vô số. Chúa Chiêm Thành là Đệ Củ, nghe quân bị thua bèn dắt vợ con ban đêm lẫn trốn. Đêm ấy, quan (nhà vua- ND) kéo rốc vào thành Phật Thệ, đến bến Đồng La, dân ở thành Phật Thệ xin hàng… Mùa hạ, tháng 4 Nguyên Soái Nguyễn Thường Kiệt, bắt được Đệ Củ ở biên giới Chân Lạp…”[2].

Cũng theo Việt Sử Lược, sau khi chiến thắng vua đãi yến tiệc, cho kiểm kê lại số nhà dân và tháng 5 thì lên đường về nước đem theo vua Rudravarman III. Khi khải hoàn trờ về vua Rudravarman III xin dâng ba châu Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh cho Đại Việt, vua Lý Thánh Tông tiếp nhận và tha cho vua Champa trở về.

Về ba châu này sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục(Cương Mục) chép: Địa Lý: đời Hán, thuộc quận Nhật Nam; đời Tống, là châu Địa Lý thuộc Chiêm Thành; nhà Lý đổi là Lâm Bình…Bấy giờ là đất phủ Quảng Ninh thuộc tỉnh Quảng Bình…;

….Ma Linh: đời Hán, thuộc quận Nhật Nam; đời Tống, là châu Ma Linh thuộc Chiêm Thành; nhà Lý đổi là Minh Linh; Bây giờ là đất đai huyện Minh Linh và Do Linh thuộc tỉnh Quảng Trị…

…Bố Chính: đời Hán là đất huyện Thọ Lãnh thuộc quận Nhật Nam; đời Tống là châu Bố Chính thuộc Chiêm Thành; nhà Lý vẫn để tên như thế; Bây giờ là đất ba huyện Bình Chính, Minh Chính và Bố Trạch thuộc tỉnh Quảng Bình…”[3].

Vùng đất này, hẹp và dốc, chủ yếu là vùng đổi, núi, tựa lưng vào dãy Trường Sơn. Từ Tây sang Đông theo thứ tự là vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng ở giữa, vùng cát ven biển ở rìa phía Đông. Từ Bắc xuống Nam có các con sông lớn chảy qua là sông Gianh, sông Nhật Lệ, sông Bến Hải, và ở cực Nam có sông Thạch Hãn.

Kể từ lúc đó, ba khu vực Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh (tức là Quảng Bình và phần Bắc Quảng Trị) chính thức thuộc về Champa, sách sử còn ghi nhận những nỗ lực đem quân lấy lại vùng đất này của Champa (1075). Năm đó, vua Lý Nhân Tông sai Lý Thướng Kiệt đi đánh Champa, nhưng không biết diễn biến thế nào, kết quả chỉ nói là không thắng được và Lý Thường Kiệt cho vẽ địa đồ ba châu Bồ Chính, Địa Lý sau đổi là Lâm Bình, Ma Linh sau đổi là Minh Linh và ra chiếu chiêu dụ dân đến đây sinh sống. Theo Phan Khoang, chiếu chiêu mộ dân này là một văn kiện quan trọng trong lịch sử nước ta; ấy là bước đầu của cuộc Nam tiến mà dân tộc ta theo đuổi trong 6, 7 thế kỷ sau.

Đến ngày hôm nay, chúng ta không có nhiều tài liệu để nói về công cuộc khẩn hoang ở Quảng Bình và Bắc Quảng Trị của cư dân Việt khi mới vào đây, ngoài gia phả riêng biệt của từng dòng họ, hay những tài liệu địa chí Quảng Bình…Theo những tài liệu này ngay sau chiếu chiêu mộ dân đến mở đất, khai phá vùng đất mới, nhiều người dân từ Bắc, đa số là người Nghệ An đi vào và bắt đầu khai khẩn vùng đất mới. Những người này thường cùng một dòng họ, rồi tụ tập thành một làng, trong sách Ô Châu Cận Lục, Dương Văn An khi liệt kê các làng ở Lâm Bình, Minh Linh có nói đến các làng Phan Xá, Ngô Xá…nhiều học giả nghiên cứu về Quảng Bình cho rằng các làng này có thể là do các dòng họ, Phan hay Ngô lập ra.

Nhưng ở châu Bồ Chính lại không có những làng mang tên họ như thế này, nhà nghiên cứu địa lý, lịch sử tỉnh Quảng Bình R.P. Cadiere đưa ra giả thuyết vào thời kỳ này di dân khi vào nam không ở châu Bồ Chính mà đi thẳng vào phía Nam sông Gianh để lập nghiệp, sau này vào thời nhà Lê thì vua Lê Thánh Tông mới cho dân đến Bồ Chính lập làng[4]. Giả thuyết được học giả người Pháp này đưa ra rất có cơ sở, vì theo nghiên cứu của tôi thứ nhất vùng đất phía Nam sông Gianh, tức là châu Lâm Bình và Minh Linh đất đai phì nhiêu hơn khu vực Bồ Chính ở phía Bắc, thứ hai, cũng trong một khu vực tỉnh Quảng Bình bản sắc, tiếng nói của hai vùng Bắc và Nam sông Gianh rất khác nhau, trong khi đó bản sắc và tiếng nói vùng Nam sông Gianh (thuộc địa phận Quảng Bình) lại có nhiều tương đồng với vùng Bắc Quảng Trị tức là châu Minh Linh thời Lý.

Như vậy, đến hết đời Lý lãnh thổ Đại Việt đã mở rộng thêm ba châu Địa Lý, Lâm Bình, Minh Linh nay là Quảng Bình và Bắc Quảng Trị, lấy Cửa Việt ngày nay làm ranh giới hai nước. Đây là cột mốc đầu tiên trong lộ trình Nam Tiến của dân tộc, Nam tiến thời kỳ này chỉ là một bước đệm, các vua Đại Việt lúc này không chủ trương lấy đất, mà chỉ là do vua Champa đổi lấy để trở về nước, nên đây là Nam tiến một cách thụ động của phía Đại Việt. Cuộc Nam tiến bước đầu này hoàn toàn là giai đoạn Tự phát.

  • Thời Trần (1225 – 1299).
Sang thời nhà Trần (1225 – 1400) mối quan hệ Đại Việt – Champa đầy biến động, lúc hòa thuận, lúc lại đầy sóng gió. Những biến động trên đều xoay quanh một sự kiện trung tâm là cuộc hôn nhân giữa vua Champa là Simhavarman III mà sử Việt gọi là Chế Mân và công chúa nhà Trần, Huyền Trân. Sự kiện này đưa đến việc Champa nhượng lại hai vùng đất mà sử Việt gọi là Châu Ô, Lý (nay là Nam Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, một phần Bắc Quảng Nam).


Đền thời có tượng công chúa Huyền Trân tại Huế

Trước khi đi vào vấn đề Đại Việt thu lấy hai vùng đất mới này, tôi xin khái lược về mối quan hệ hai nước thời Trần, đến trước cuộc hôn nhân lịch sử năm 1306. Từ khi Trần Thái Tông lên ngôi Champa có cho sứ giả sang hai lần, nhưng thỉnh thoảng vẫn không từ bỏ ý định lấy lại ba châu đã mất thời Lý, thường xuyên có những xung đột biên giới nhỏ giữa hai nước. Năm 1252 sau khi vua Thái Tông thân chinh đánh Champa, vùng biên giới mới tạm ổn một thời gian, hai nước lại giao hảo.

Sau đó cả hai nước phải cùng lúc đối mặt với thảm họa xâm lăng từ đế quốc Mông – Nguyên, trong cuộc chiến này hai quốc gia đã hợp tác hiệu quả cùng nhau chống lại kẻ thù chung, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Sau chiến tranh quan hệ hai nước trở nên tốt đẹp nhất, thường xuyên giao hảo. Vua Simhavarman III và Trần Nhân Tông, luôn cố vun đấp cho mối bang giao hòa hảo đời đời của hai nước. Kết quả là trong chuyến du hành đến Champa, nhận được sự tiếp đãi nồng hậu của Champa, Phật hoàng Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa.

Nhưng cả ông vua Champa và thái thượng hoàng Trần Nhân Tông đều không ngờ cuộc hôn nhân này lại nhận được một sự phản ứng mạnh mẻ của các quan đại thần, vốn là những nhà nho thủ cựu, họ so sánh việc này như là việc “Vương Chiêu Quân cống Hồ”, họ phản đối việc đưa công chúa “cành vàng lá ngọc” về làm dâu nước man rợ.

Trước sự phản đối của các quan lại triều Trần, vua Simhavarman III vì mưu cầu cái lợi ích cho quốc gia, nhầm nghĩa đến mối tình thâm hai nước hay vì một lý do gì khác? Đã chấp nhận nhượng lại cho Đại Việt hai vùng châu Ô, Lý, xem như đây là lễ vật cầu hôn công chúa. Đến lúc này, vua, quan nhà Trần mới thống nhất chấp nhận. Năm 1306, Công Chúa Huyền Trân lên đường đến về Champa.

Về sự kiện này thì đến hôm nay hậu duệ người Champa vẫn còn ca thán mãi, họ rất là hận vua Chế Mân đã đem giang sơn đổi lấy mỹ nữ. Còn về phần Việt Nam họ coi sự kiện công chúa về “làm dâu Chiêm quốc” có một ý nghĩa to lớn trong công cuộc Nam tiến, theo bước chân bà đã có hàng trăm, hàng ngàn người lên đường vào Nam, khai phá vùng đất mới.

Nhưng chỉ được một năm, thì vua Champa băng hà, theo phong tục công chúa phải lên giàn thiêu cùng chồng, vua Anh Tông cho người mượn tiếng sang chia buồn, dùng kế cướp công chúa Huyền Trân về nước (đó là chép theo sử cũ, còn xoay quanh sự kiện gần đây có rất nhiều ý kiến tranh cãi, phê bình). Kể từ đó mối quan hệ Việt – Champa liên tục tiếp nối bằng các cuộc xung đột, chiến tranh, mỗi đời vua Champa lên ngôi từ Chế Chí đến Chế Bồng Nga đều nuôi chí báo thù, lấy lại đất cũ, đặc biệt nhất chiến tranh nỗ ra ác liệt giữa hai nước vào thời Chế Bồng Nga, nhiều lần vua Champa đã tiến vào tận kinh thành Thăng Long, nhưng cuối cùng Chế Bồng Nga lại bị chết trận, từ đó sức lực của Champa dần yếu đi trước Đại Việt.

Trở lại vấn đề Nam tiến, sau khi dâng hai châu Ô, Lý cho Đại Việt, sách Toàn Thư chép:“Mùa xuân, tháng giêng, đổi hai châu Ô, lý thành châu Thuận và châu Hoá. Sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân hai châu đó.…trước đấy chúa Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu đó làm lễ vật dẫn cưới, nhưng người các thôn La Thuỷ, Tác Hồng, Đà Bồng không chịu theo. Vua (Anh Tông) sai Nhữ Hài đến tuyên dụ đức ý…chọn người trong bọn họ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất, miễn tô thuế 3 năm để vỗ về…”[5].

Nếu như theo ghi chép trên chúng ta biết rằng sau khi vua Champa dâng vùng đất này cho Đại Việt, thì vua nhà Trần đã cho Đoàn Nhữ Hài đến thiết lập hệ thống hành chánh, thuế mà, ruộng điền… tức là xác lập chủ quyền ở khu vực này. Đoạn văn trên ta còn biết thêm chi tiết thú vị về các làng La Thủy, Tác Hồng, Đà Bồng có thể là làng của cư dân bản địa (người Champa), một bộ phận họ vẫn còn ở lại và hòa nhập vào cộng đồng người Việt sau này, những tên làng trên là do người Việt phiên âm… hoặc các làng trên là làng của người Việt đã đến định cư ở đây trước đó.

Thuận châu lúc bấy giờ tương đương với khu vực Nam Quảng Trị từ Cửa Việt. Còn về Hóa châu thì cò có nhiều nghi vấn, phần lớn các nghiên cứu có đề cập đến sự kiện này đều nhận định chung rằng Hóa châu xưa tương đương với tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay, nhiều nhà nghiên cứu thường hiểu nhầm rằng dãy Bạch Mã hay đèo Hải Vân là biên giới chính thức của hai nước sau năm 1306. Theo tôi, nhận định trên không chính xác.

Trong Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời, học giả Đào Duy Anh khi viết về Lộ Thăng, Hoa (tức là vùng đất sau này Hồ Qúy Ly chiếm mà chúng ta hiểu nhầm là tỉnh Quảng Nam hiện tại) có đoạn: “…Lộ Thăng Hoa (với châu Thăng, Hoa) nói chung là tương đương với đất Quảng Nam, hai châu ấy nhà Hồ đặt sau khi chiếm đất Chiêm Động của Chiêm Thành…”, viết là như vậy nhưng sau khi nghiên cứu về địa điểm của huyện Lệ Giang thời Hồ, tác giả Đào Duy Anh lại viết: “…Vậy thì ở thời Lê miền Bắc sông Chợ Củi là thuộc thừa tuyên Thuận Hóa, mà thừa tuyên Quảng Nam tương đương với Lộ Thăng Hoa thì ở về phía Nam sông Chợ Củi…[6].

Xem thế thì thấy lãnh thổ Hóa Châu không chỉ tương đương với Thừa Thiên – Huế ngày nay. Ta thấy Đào Duy Anh nhận định lộ Thăng Hoa thời Hồ (tức là Chiêm Động của Champa) tương đương với đất Quảng Nam bây giờ, đất này được nhập vào lãnh thổ nước Đại Việt vào năm 1402, sau này sang thời Lê tức là thừa tuyên Quảng Nam. Nhưng sau đó, tác giả lại hoài nghi miền Bắc sông Chợ Củi (Thu Bồn) thuộc thừa tuyên Thuận Hóa, miền Nam sông Chợ Củi mới là thừa tuyên Quảng Nam thời Lê. Mà thừa tuyên Quảng Nam mãi đến năm 1402 mới thuộc về Đại Việt, tức là khu vực bắc sông Chợ Củi tương đương với Bắc tỉnh Quảng Nam ngày nay từ năm 1306 đã thuộc về Đại Việt, tức là thuộc Hóa châu, mà sang thời Lê cũng thuộc thừa tuyên Thuận Hóa chứ không phải thừa tuyên Quảng Nam.

Tôi cho rằng, đây không chỉ là nghi vấn mà học giả Đào Duy Anh đưa ra nữa, mà là một nhận định mới hoàn toàn chính xác, bằng chứng là tác giả Phan Khoang nhận định rằng: “…huyện Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên ngày nay chính là Thuận châu; phần còn lại của Thừa Thiên, các huyện Hòa Vang, các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bà thuộc Quảng Nam ngày nay chính là Hóa châu…”[7]. Lập luận này càng được cũng cố khi nghiên cứu về bản sắc và tiếng nói của người Quảng ở Bắc sông Thu Bồn và Nam sông Thu Bồn có nhiều khác nhau, trong khi đó, bản sắc và tiếng nói phần Quảng Nam ở Bắc sông Thu Bồn lại có nhiều điểm tương đồng với cư dân Thừa Thiên – Huế, khi nghiên cứu gia phả dòng họ Phan ở Đà Nẵng, Hồ Trung Tú cũng đưa ra các nhận định tương tự[8].

Như vậy, có thể khẳng định đến năm 1306, ranh giới Đại Việt và Champa không chỉ đến đèo Hải Vân mà còn đến tận sông Thu Bồn. Tức là sau năm 1306 lãnh thổ Đại Việt đã tiến xuống, mở rộng thêm không chỉ vùng đất Nam Quảng Trị từ Cửa Việt và tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay mà còn cả khu vực Đà Nẵng và các huyện Đại Lộc, Duy Xuyên, Điện Bàn, Hội An của Quảng Nam (từ Nam đèo Hải Vân đến Bắc sông Thu Bồn).

Địa hình Thuận châu cũng tương tự như địa hình châu Bồ Chính, Địa Lý, Minh Linh. Dãi đất chật, hẹp, tựa lưng vào dãy Trường Sơn, địa hình phân làm ba vùng: núi cao và đồi, trung du ở phía Tây, đồng bằng chính giữa và vùng ven biển ở phía Đông. Hóa châu cũng tựa lưng vào dãy Trường Sơn, chia làm ba miền địa hình từ Tây sang Đông, nhưng từ Thuận châu xuống Hóa Châu phần đất được phình rộng, tạo ra một vùng đồng bằng rộng hơn vùng Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh ở phía Bắc, Sông ngòi thường ngắn nhưng lại lớn về phía hạ lưu, con sông lớn nhất là sông Hương, với cửa biển quan trọng là cửa Thuận An và cửa Tư Hiền, phía cực Nam có con sông Thu Bồn. Về núi cao, dãy Bạch Mã là dãy núi nổi tiếng ở đây, đó là một nhánh ăn ra biển của dãy Trường Sơn, Bạch Mã ngăn cách Thừa Thiên – Huế và Đả Nẵng ngày nay qua đèo Hải Vân nổi tiếng.

Về phía Champa, họ đã đánh mất một địa bàn phòng thủ chiến lược của mình, đánh mất đi một phần của tiểu quốc Amaravati và hải cảng phong thủ chiến lược của khu vực này, đồng thời đánh mất luôn khu vực đồng bằng quanh con sông Hương. Trước là Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý, nay là châu Thuận, Hóa cả hai phần đất trên tương đương cương vực vương quốc Lâm Ấp ban xưa, nay thì đã mất vào Đại Việt.

Như vậy, cho đến lúc này dù lãnh thổ đã được mở rộng nhưng thực tế những phần đất này đều hoặc là do vua Champa cắt để cầu hòa, hoặc là để cầu hôn, nên vì thế người ta không thể kết tội cho Đại Việt có ý định xâm chiếm đất đai của Champa dược, do đó lúc này quá trình Nam tiến của Đại Việt chỉ là thụ động chứ không phải là chủ động, quá trình lưu dân vào khai khẩn, đất đai mới mở rộng chỉ là tự phát chứ chưa chuyển sang giai đoạn tự giác.
 

XK1959

Xe đạp
Biển số
OF-394024
Ngày cấp bằng
26/11/15
Số km
32
Động cơ
235,420 Mã lực
Tuổi
65
Nam tiến thời Hồ – Lê (1400 – 1527).

  • Thời Hồ (1400 – 1407).
Sau những năm chiến sự ác liệt, giữa hai nước Champa và Đại Việt, thực lực của cả hai quốc gia đều suy yếu. Ở phía Bắc, nhà Trần ngày càng rơi vào khủng hoảng trầm trọng, lợi dụng tình hình đó năm 1400, Hồ Qúy Lý cướp ngôi vua Trần và lập ra nhà Hồ, lấy quốc hiệu là Đại Ngu. Ở phía Nam, nước Champa sau khi Chế Bồng Nga bị tử nạn, mất đi một thủ lĩnh quân sự anh hùng, vương quốc nhanh chóng rơi vào suy yếu nhanh chóng.

Sau khi lên ngôi, sử liệu cho biết Hồ Qúy Ly có sai quân sang đánh Champa vào năm 1401, nhân lúc vua Champa là Simhavarman (sử Việt gọi là La Khải) mất, nhường ngôi lại cho con là Virabhadravarman (sử Việt gọi là Ba Đích Lai). Về sự kiện này sách Cương Mục chép như sau: “…Quý Ly nhân cơ hội ấy mới dùng Đỗ Mãn làm đô tướng thủy quân Trần Vấn làm chức phó, Trần Tùng làm Đô tướng bộ quân, Đỗ Nguyên Thác làm chức phó, quản lĩnh mười lăm vạn quân, tiến đến biên cảnh Chiêm Thành, Tùng nghe lời Đinh Đại Trung, dẫn đạo quân bộ đi ven theo chân núi, cách xa với đạo quân thủy,lúc ấy nước lũ đã xô đến, ba ngày tướng sĩ không có lương, phải nướng mai rùa, da thú để ăn bèn kéo quân về…”[9].Như vậy, xem như cuộc hành quân này thất bại. về số lượng quân tham gia sách Toàn Thư cho biết có khoảng 15 vạn quân tham gia trong trận này[10].

Nhưng quan trọng nhất vẩn là cuộc hành quân sau đó vào tháng 7 năm 1402. Trong trận này Hồ Hán Thương (ông vua kế vị Hồ Qúy Ly, lúc bấy giờ Hồ Qúy Ly là Thái Thượng Hoàng) cho Đỗ Mãn làm Đô tướng; Điện nội phán thủ Nguyễn Vị và An phủ sứ lộ Đông Đô Nguyễn Bằng Cử làm chiêu dụ sứ, đi đánh Champa. Về diễn biến, kết quả sự kiện này Toàn Thư chép:

“…Đại quân sắp tới đất Chiêm, Đinh Đại Trung cưỡi ngựa đi trước các quân, gặp tướng giặc Chế Tra Nan, hai bên giao chiến, đều bị chết. Chúa Chiêm Ba Đích Lại sợ, sai cậu là Bố Điền…dâng đất Chiêm Động để xin rút quân. Bố Điền tới, Quý Ly bắt ép phải sửa tờ biểu là dâng nộp cả động Cổ Lũy. Rồi chia đấy ấy thành bốn châu Thăng,Hoa, Tư, Nghĩa. Đặt An phủ sứ và An phủ phó sứ lộ Thăng Hoa để cai trịHán Thương điều An phủ sứ lộ Thuận Hóa Nguyễn Cảnh Chân làm An phủ sứ lộ Thăng Hoa,lấy Hiệu Chính hầu Chế Ma Nô Đà Nan làm Cổ Lũy huyện thượng hầu, trấn giữ châu Tư, Nghĩa, chiêu dụ, vỗ về dân chúng người Chiêm…[11].

Như vậy, đến đây lãnh thổ Đại Việt mở đến lộ Thăng Hoa, tức là Chiêm Động và Cổ Lũy. Nhà Hồ chia Chiêm Động thành hai châu Thăng và Hoa, tương đương với Nam Quảng Nam ngày nay. Cổ Lũy chia thành hai châu Tư, Nghĩa tương đương với phần đất Quảng Ngãi ngày nay. Nhà Hồ còn cho một người Việt là Nguyễn Cảnh Chân đứng đầu vùng đất mới này, còn cho Chế Ma Nô Đà Nan[12] một người Champa làm quan địa phương để vỗ về dân cư bản địa còn ở đây.

Về việc quản lý vùng đất mới này sử liệu chép: Quý Mùi, [1403], Mùa xuân, tháng 2, Hán Thương đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ…Người ở châu nào thì thích hai chữ tên châu ấy vào hai cánh tay để làm dấu hiệu. Đến năm sau đưa vợ con đi theo, giữa đường, bị bão chết đuối, dân phần nhiều ta oán. Hán Thương mộ dân nộp trâu để cấp cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa, người nộp được ban tước…[13].

Xem những gì sử liệu ghi lại ta thấy, ngay sau khi thu được vùng đất mới nhà Hồ đã cho dân đến khai khẩn vùng đất mới, nhưng dường như chi tiết về việc biên chế dân thành quân ngũ hay cho di dân thích cánh tay vào làm dấu hiệu cho thấy, cuộc di dân này là do triều đình tổ chức và nó mang tính cưỡng bức nhiều hơn là tự nguyện, khi đến đây những di dân này phải sống như những người tù nhân, bị quản lý theo biên chế quân sự, một cuộc di dân mà trước chưa có sau ũng chưa có. Nhưng cuộc di dân này thể hiện một tham vọng mở cõi, nỗ lực ổn định trấn thủ vùng đất mới này của triều đình nhà Hồ.

Bên cạnh đó, có nhiều cứ liệu cho chúng ta thấy rằng ở giai đoạn mới đầu này, cho đến trước khi Lê Thánh Tông đánh Champa năm 1471 thì đa số dân cư ở đây vẫn là cư dân bản địa. Bằng chứng là nhà Hồ không xua đuổi cư dân bản địa mà vẩn cho người Champa tự do muốn đi thì đi muốn ở thì ở, thậm chí những người ở lại còn được bổ làm quan. Hơn nữa, sự kiện những đoàn di dân đem theo vợ, con bị bão chết đuối gần hết và sau này không thấy sử liệu nào nói về các đợt di dân lớn nào nữa cho thấy đi dân người Việt vào đất này so với người Champa rất ít. Như vậy, có thể kết luận trong giai đoạn đầu lấy được phần đất mới ở lộ Thăng Hoa thì người champa ở lại đây là chính, người Việt thì “ở lẫn” với người Champa và dần dần theo phong tục của họ[14].

Nhưng lần mở cõi này lại gặp những biến cố khó lường trong khi đang thực hiện chính sách mở cõi của mình thì nhà Hồ bị nhà Minh bên Trung Quốc đem quân sang xâm lược, chung cuộc họ Hồ phải cáo chung, nước Việt bị nhà Minh đô hộ suốt 20 năm (1407 – 1427). Nhân đó Champa cho quân chiếm lậy vùng đất mà nhà Hồ đã lấy vào năm 1402, cho dù nhà Minh có ghi vùng đất này vào sổ bộ của mình nhưng trên thực tế không kiểm soát nó. Và từ năm 1407 đến 1471 vùng đất lộ Thăng Hoa này lại trở về với Champa.

Dẫu vậy, chúng ta cũng không thể không ghi nhận những nỗ lực mở rộng lãnh thổ về Nam và công lao của họ trong việc thực hiện bước đầu chủ động Nam tiến của nhà Hồ, công lao đưa những lưu dân đầu tiên (tuy không nhiều) vào vùng đất mới mở này. Chính từ đây, cuộc Nam tiến của dân tộc Việt đã chuyển sang một bước tiến lớn từ thụ động sang chủ động.

  • Thời Lê Sơ (1427 – 1527).
Sau một thời gian gần hai mươi năm bị quân Minh đô hộ, năm 1427 cuộc khởi nghĩa trường kỳ chống quân Minh xâm lược của nghĩa quân Lam Sơn và nhân dân Đại Việt do Lê Lợi lãnh đạo giành được thắng lợi, năm sau Lê Lợi lên ngôi, thụy sau này là Lê Thái Tổ, khai sinh nhà Lê Sơ, đặt tên nước là Đại Việt.

Lúc đầu, vào thời Lê Thái Tổ quan hệ hai nước Đại Việt và Champa có tốt đẹp, hai nước thường thông sứ. Nhưng từ thời Thái Tông, Nhân Tông trở đi hai nước thường xuyên có những xung đột, quan trọng nhất là năm 1446 khi Nhân Tông đem quân đánh Champa.

Về phía Champa, Virabhadravarman (Ba Đích Lai) băng năm 1441, Ma Ha Bì Cái lên thay, ông vua này có chính sách cướng rắn với Đại Việt. trong cuộc hành quân năm 1446 của Đại Việt ông bị bắt. Champa rơi vào những cuộc biến động liên tục lần lượt Ma Ha Qúy Lai, Ma Ha Qúy Do, Trà Duyệt, Trà Toàn lên làm vua Champa[15].

Dưới thời Lê Thánh Tông (Đại Việt) hai nước Đại Việt và Champa lại căng thẳng. Năm 1471, vua Đại Việt lấy lý do Champa không chịu cống và còn đưa sang quấy nhiễu miền biên giới hai nước, đính thân vua Lê Thánh Tông viết cuốn Bình Chiêm sách và thân chinh đem quân sang đánh Champa.

Về diễn biến cuộc chiến này sách Toàn ThưCương Mục chép tương đối giống nhau, nhưng tương đối dài, Trần Trọng Kim tóm tắt sự kiện này như sau: “…Năm canh-thìn (1470) là năm Hồng-đức nguyên-niên, vua nước Chiêm-thành là Trà Toàn muốn sinh sự với nước Nam. Một mặt thì cho người sang cầu viện-binh bên nhà Minh, một mặt thì đem quân sang đánh phá ở đất Hóa-châu. Vua Thánh-tông cho sứ sang Tàu kể chuyện Trà Toàn làm nhiễu, rồi ngài tự làm tướng, cử đại-binh hơn 20 vạn sang đánh Chiêm-thành; khi quân vào đến Thuận-hóa, Thánh-tông đóng quân lại để luyện-tập và sai người lẻn sang vẽ địa-đồ nước Chiêm-thành để biết cho rõ chỗ hiểm chỗ không rồi mới tiến binh lên đánh lấy cửa Thị-nại (cửa Bình-định). Trà Toàn đánh thua, rút quân về giữ kinh-thành Đồ-bàn. Quân An-Nam kéo đến vây đánh, phá được thành, bắt được Trà Toàn…”[16].

Cùng năm đó, sau khi thắng lợi về đến kinh thành, vua Thánh Tông thu lấy phần đất từ Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi (tức là vủng Chiêm Động và Cổ Lũy trước kia, sau năm 1402 là lộ Thăng Hoa thuộc nhà Hồ, 1407 bị Champa chiếm lại) về đến hết tỉnh Bình Định ngày nay nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Vủng đất còn lại ở phía Nam được vua Thánh Tông chia làm ba vùng: một vùng lãnh thổ còn lại của người Champa do một hàng tướng người Chăm là Bồ Trì Trì nắm giữ ở tại Panduranga (nay là Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận), một vùng là nước Hoa Anh do Hoa Anh vương đứng, tiểu quốc này nằm giữa vùng đất từ đèo Cù Mông đến đèo Cả tương đương với Phú Yên ngày nay (đây được xem là vùng đệm giữa Đại Việt ở phía Bắc và Champa ở phía Nam), và vùng thứ ba là nước Nam Bàn ở phía Tây nước Hoa Anh (nay là Bắc Tây Nguyên) do hai tiểu vương mà sử Việt gọi là Thủy Xá và Hỏa Xá đứng đầu[17].

Trở lại vấn đề nghiên cứu, chúng tôi quan tâm đến biên giới cực Nam của nước Đại Việt sau năm 1471. Về ranh giới này các tài liệu luôn không thống nhất, có hai ranh giới gây tranh luận là đèo Cù Mông (ranh giới Bình Định và Phú Yên ngày nay), đào Cả (ranh giới Phú Yên và Khánh Hòa ngày nay).

Tác giả Nguyễn Quang Thắng trích dẫn cuốn Dư Địa Chí đời Hồng Đức(dây là Dư Địa Chí của Nguyễn Trãi sau được Dương Bá Cung sưu tầm và bổ sung vào) như sau: “…Lê Thánh Tông đánh chiếm Chiêm Thành mở đất đến Thạch Bi Sơn…trở về Nam còn lại thuộc Chiêm Thành…[18]. SáchToàn ThưCương Mục lại không chép rõ ràng về ranh giới nước Đại Việt sau năm 1471.

Sau này Đại Nam Nhất Thống Chi khi viết về tỉnh Phú Yên có chép: “…Lê Thánh Tông đánh Chiêm Thành, chiếm lấy đất này đặt làm huyện Tuy Viễn, lấy núi Thạch Bi Sơn làm giới hạn, nhưng từ Cù Mông về Nam còn thuộc người Man, người Lào…”. Đại Nam Nhất Thống Chí tỉnh Khánh Hòa cũng xác nhận ranh giới nước ta thời đó là núi Thạch Bi[19].

Nhưng, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã tìm ra những cứ liệu bác bỏ luận điểm trên. Chúng tôi, cho rằng nếu như Thạch Bi Sơn là ranh giới hai nước Đại Việt và Champa sau năm 1471, thì đèo Cả hay dãy Đại Lãnh chính là biên giới hai nước lúc này. Đèo Cả hay núi Thạch Bi đều năm trên dãy Đại Lãnh, mà dãy núi này là ranh giới giữa Phú Yên và Khánh Hòa, xem thế thì thấy vào sau năm 1471 khi thành lập Thừa Tuyên Quảng Nam thì Phú Yên phải thuộc Thừa Tuyên Quảng Nam.

Sách Cương Mục ghi về sự kiện này như say: “…Nhà vua đem đất Chiêm Thành đặt làm Quảng Nam thừa tuyên, quản lãnh 3 phủ, 9 huyện, đặt ba ty: Đô ty, Thừa ty, và Hiến ty và đặt vệ quân Thanh Hoa gồm 5 sở…”[20]. Cũng theo Cương Mục 3 phủ đó là: Phủ Thăng Hoa, quản lĩnh ba huyện: Lê Giang, Hà Đông và Hi Giang. Phủ Tư Nghĩa, quản lĩnh ba huyện: Bình Sơn, Mộ Hoa và Nghĩa Giang; Phủ Hoài Nhân, quản lĩnh ba huyện: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Phủ Hoài Nhân là cực Nam của Thừa Tuyên Quảng Nam, trong khi huyện Tuy Viễn năm ở phía Đông Nam của Phủ Hoài Nhân (gần như là cực Nam của phủ), phủ Hoài Nhân sau này được Nguyễn Hoàng đổi lại là phủ Quy Nhơn (Bình Định) hơn nữa huyện Tuy Viễn rất nổi tiếng với di tích thành Đồ Bàn và Làng Tây Sơn, ngày nay các di tích này nằm trong nội phận tỉnh Bình Định tức là Bắc đèo Cù Mông. Vậy, phần phía Nam từ đèo Cù Mông đến đèo Cả (Phú Yên ngày nay) ở đâu trong thừa Tuyên Quảng Nam ta không thấy ghi chép, ngay cả trong Hồng Đức bản đồ ranh giới Đại Việt cũng chỉ đến đèo Cù Mông mà thôi[21].

Trong các cuốn Phủ Biên Tạp Lục, Phương Đình Dư Địa Chí, Non nước Phú Yên các tác giả Lê Qúy Đôn, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Đình Tư cũng xác nhận rằng biên giới của Đại Việt sau năm 1471 cũng chỉ đến đèo Cù Mông ngày nay chứ không đến tận đèo Cả hay núi Thạch Bi như truyền Thuyết. Xem thế thì thấy dường như các tư liệu nói rằng ranh giới của Đại Việt lúc này đến đèo Cả là nhầm hay các tác giả này dựa vào truyền thuyết vua Lê Thánh Tông cho khắc chữ lên núi Thạch Bi mà suy ra núi Thạch Bi là biên giới giữa hai nước lúc này chăng?

Nhưng xem ra đây cũng chỉ là truyền thuyết vì nếu vùng đất Phú Yên ngày nay như trên đã giải thích không được đưa vào bản đồ nước Đại Việt, không thuộc thừa tuyên Quảng Nam, ngay cả Đại Nam Nhất Thống Chí cũng nói vủng đất từ phía Nam đèo Cù Mông trở ra vẫn thuộc người Man. Sử cũng chép rằng ngày 1- 3 vua vào Chà Bàn, 2 – 3 vua rút về, vậy thì không thể có thời gian để vua vào đến đèo Cả, khắc chữ lên núi Thạch Bi được, có lấm thì vua chỉ cho quân vào lấy thanh thế, sau thì thành truyền thuyết như trên. Hơn nữa, nếu vùng đất Phú Yên bây giờ thuộc Đại Việt thì tại sao năm 1611 sau khi vào trấn thủ Thuận – Quảng, Nguyễn Hoàng lại phải đưa quân đánh vua Champa, lấy đất Phú Yên nữa để làm gì?

Có thể, vùng đất phía Nam đèo Cù Mông đến đèo Cả là vương quốc Hoa Anh như lịch sử đã ghi nhận, ở đây vẫn còn di tích thành Hồ. Do sau này vương quốc này bị suy yếu và nhập vào lãnh thổ Champa chăng? Vậy thì, tại sao lịch sử lại không để lại một chi tiết gì về đất nước này? Hoặc nếu không có nước Hoa Anh, thì vùng đất này thuộc về một tiểu quốc của Champa, cũng chưa rõ được? Nhưng, tóm lại sau năm 1471 Đại Việt đã lấy thêm vùng đất Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay nhập vào lãnh thổ của mình, đến bấy giờ biên giới cực Nam của Đại Việt chính là đèo Cù Mông.

Vùng đất mới này chạy dài từ phía Nam sông Thu Bồn đến đèo Cù Mông ngày nay là một vùng đất càng về Nam càng thu hẹp lại, vì phía Tây nó bị cản trở bởi Cao nguyên Trung phần (Tây Nguyên), cũng như những miền đất trước kia vùng đất này từ Tây sang Đông phân ra làm ba miền địa hình, núi cao và trung du, vùng đồng bằng duyên hải, vùng cát ven biển. Vùng đồng bằng ở đây tương đối phì nhiêu và có nhiêu cửa biển lớn. Ngoài sông Thu Bồn xuống phía Nam vùng đất này có các con sông như Trường Giang (Quảng Nam), Trà Bồng (Quảng Ngãi), sông Côn, sông Hà Thanh (Bình Định). Ở phía Nam vùng đất này còn có nhiều đầm hồ, vịnh biển, hải cảng như Trà Ô, Thị Nại, và nhiều hải đảo lớn nhỏ khác ở ngoài khơi, như Cù Lao Chàm, Lý Sơn…

Trên đã nói về địa lý, giờ xét đến sự khai khẩn vùng đất này. Vùng đất thừa tuyên Quảng Nam mới lập ra này đã nhanh chóng hấp dẫn những di dân xa xôi ở Hà Tĩnh, Nghệ An đổ ra. Từ sau năm 1471 những dòng người liên tục đều đặn đã vào Nam vì những khó khăn, đói kém ở phía Bắc. Những tài liệu ghi chép về những đợt di dân buổi đầu này không nhiều, nhưng nếu xem xét từ gia phả các dòng họ ở Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định chúng ta có thể nhận ra được những minh chứng cho thấy những dấu chân Việt vào đây khai hoang lập làng như thế nào.

Ngoài ra, trong những lưu dân đầu tiên vào đây còn có những tù nhân bị kết án lưu đầy. Sau khi lấy được vùng đất từ Thăng Hoa trở vào, 1474 vua Lê Thành Tông ra sắc chỉ rằng tù xử tôi lưu đầy thì xung về phủ Thăng Hoa, phủ Tư Nghĩa, phủ Hoài Nhân của thừa tuyên Quảng Nam và đưa vào biên chế quản lý hẳn hoi[22].

Khi vừa mới chiếm được vùng đất mới này, vua Thánh Tông phong cho một người Chiêm là Ba Thái làm Đồng Tri phủ, Đa Thủy làm Thiêm Tri phủ và Đổ Tử Quy làm Đồng Tri châu coi và quản Lý vủng đất Chiêm Động (của Champa trước kia), lại giao cho Lê Ỳ Đà làm Tri châu Cổ Lũy (của Champa trước kia). Vua còn dặn: “Nếu người Chiêm không theo, cho chém trước rồi sẽ tâu” . Xem thế thì giai đoạn đầu, công việc cai quản vùng đất mới rất khó khăn vì phần đông người Champa bấy giờ chưa phục.

Sau này vua Thánh Tông mới đem vùng đất mới đặt làm thừa tuyên Quảng Nam gồm ba phủ 9 huyện đã nói ở trên. Ở mỗi thừa tuyên đạt 3 ty: Đô ty có chức Tổng binh và Phó Tổng binh coi việc binh chính; Thừa Ty có chức Thừa chánh sứ và Thừa phó sứ coi việc hộ tịch; Hiến ty có Hiến sát sứ và Hiến sát phó sứ trông coi việc khám đoán, xét hỏi, kiểm soát… Ở dưới đạo là Phủ do Tri phủ dứng đầu, ở dưới là huyện có Tri huyện.

Cột mốc năm 1471, là một cột mốc quan trọng trong lộ trình Nam tiến của dân tộc Việt, sau lần này họ lấy lại được vùng đất lộ Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa (mà họ Hồ vốn trước đã lấy, nhưng sau lại bị người Champa chiếm lại) còn lấy thêm một vùng đất ở phía Nam đến tận đèo Cù Mông (Bình Định). Cuộc Nam tiến lần này của người Việt là quan trọng, vì nó là vĩnh viễn, những di dân được yên ổn làm ăn, không phải lo sợ phía Champa đánh phá như ở Thuận Hóa trước nữa; cuộc tiến xuống lần này còn quan trọng vì nó đã đem xuống vùng đất mới này những cư dân mà con cháu họ mà sau này chính là công dân chính thức của xứ Đàng Trong (sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận – Quảng) vả lại, chính đa số những người Việt tại đây sẽ là lực lượng chính trong đợt Nam tiến tiếp theo vào thời chúa Nguyễn sau này, đi xuống vùng đất còn lại của Champa và vùng Thủy Chân lạp.

Về phía Champa, đến đây vương quốc này không chỉ mất đi phần còn lại của tiểu quốc Amaravati, mà còn mất cả vùng Vijaya (Đồ Bàn). Đây là những vùng đất đai rộng và trù phú, nơi có những đền tháp thiêng liêng của dân tộc, nơi có những cung điện, đền đài từng chứng kiến biết bao nhiêu vàng son của dân tộc này, nay không còn nữa đó là một dấu ấn quan trọng trong lịch sử Champa, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Champa đánh giá sự kiện này chính là cột mốc đánh dấu sự suy tàn của vương quốc này và không lâu sau đó sẽ dẫn đến sự cáo chung vĩnh viễn của nó.
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Cháu hỏi khẽ một câu: thời đại cắt rừng cuốc bộ thì các cụ vua Hùng ngồi ở Phong châu quản lý cái vùng đất tận cửa sông Dương tử thế nào ạ?

Chuyển phát nhanh cái công văn khéo mất cmn mấy năm giời. :D
Các tộc Việt (bách Việt) có họ hàng với nhau thôi chứ có trung ương tập quyền đâu cụ. Phong Châu chỉ của Âu Việt thôi chứ có quản mấy anh kia đâu.
Âu Việt và Lạc Việt hòa với nhau và tồn tại nhờ ở xa, cánh còn lại bị xâm lược và đồng hóa hêt giờ chỉ còn dân tộc Choang rất giống Việt Nam ta nhưng cũng đang bị Hán hóa dần.
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Giải trí chút nhé
 

NQHU

Xe điện
Biển số
OF-389972
Ngày cấp bằng
1/11/15
Số km
3,912
Động cơ
270,664 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Thời xưa các cụ nhà mình đi chiếm đất cũng kinh phết. Thời Minh Mạng ôm được gần hết Đông Dương, dẹp hết người Chăm, Khơ me, Ai lao.
Không có giờ này Việt Nam có nhà nước Hồi giáo sát mít :D Sửu nhi khiêu khích như đợt vừa rồi, khéo vài thành phố sáng nhất biển Đông
 

tts1119

Xe buýt
Biển số
OF-105378
Ngày cấp bằng
10/7/11
Số km
647
Động cơ
399,194 Mã lực
Người Việt là nhóm Bách Việt (Yue) đầu tiên hay cuối cùng?


Ảnh : Trần Việt Bắc ( phỏng theo sử liệu )

Le Minh Khai

Người dịch: Hà Hữu Nga

Vài tháng trước một bạn đọc đề nghị tôi đáp lại một bài viết [1] có một luận điểm đã được nhấn đi nhấn lại nhiều lần, cho rằng người Việt là nhóm người cuối cùng của “Bách Việt” và họ đã thoát khỏi bị Hán hóa bằng cách di chuyển về phương nam và giữ vững độc lập của mình.

Tác giả của bài viết cho rằng người Việt luôn ý thức mình là Việt qua nhiều thế kỷ và họ duy trì được di sản văn hóa Bách Việt, mặc dù tác giả không hề giải thích rõ ràng cái gì tạo dựng nên di sản văn hóa đó.


Bách Việt- nguồn Ảnh

Tôi đã bắt đầu viết một bài trả lời [2] bằng cách chỉ ra rằng chúng ta không có bằng chứng về việc là bất cứ nhóm người nào mà người “Trung Quốc” dán nhãn Bách Việt/Yue trong thiên niên kỷ đầu tiên trước công nguyên cũng thực sự tự coi mình là “Việt/Yue” (có lẽ với một trường hợp ngoại lệ là nhóm tinh hoa Nam Việt).

Cái mà chúng ta có bằng chứng là trong nhiều thế kỷ từ cuối giai đoạn TCN đến khoảng 1000 năm SCN có những nhân vật tinh hoa Hán hóa (Triệu Đà*, Lý Bí**, Lâm Sĩ Hoằng [林士弘], Phùng Áng [馮盎]…v.v) đã sử dụng khái niệm Việt/Yue để gọi tên các chính thể mà họ thành lập.

Có phải điều đó có nghĩa là họ đặt tên vương quốc của mình theo tên nhóm người sống ở đó? Chúng ta không có bằng chứng về điều này. Có vẻ như họ chỉ đơn giản sử dụng một cái tên có tính văn chương gắn liền với vùng đó của thế giới.

Một trong những nguyên do tại sao cái tên Việt hình như không thuộc về một nhóm người hoặc một “ý thức”, một “di sản văn hóa” trong thiên niên kỷ đầu tiên SCN là ở chỗ chúng ta không có bằng chứng về một văn hóa mà cả những người bình dân và nhóm tinh hoa đều chia sẻ.

Từ cái mà các nhà nghiên cứu đã phát hiện về văn hóa Bách Việt/Yue, nó tương tự như cái thế giới mà tôi gọi là “những người săn đầu người Đông Sơn” [3] hơn là thế giới của Triệu Đà hoặc Lý Công Uẩn. Thế giới đó rõ ràng là đã biến mất.

Đây là vấn đề mà nhiều sử gia đã thừa nhận. Chẳng hạn, trong những năm 1960, sử gia Nguyễn Phương đã cho rằng Việt là Hán di cư đến vùng châu thổ sông Hồng vào thiên niên kỷ đầu SCN [4] và đã thế chỗ các cư dân sớm hơn ở đó. Đây không phải là ý tưởng gốc của ông. Thay vào đó là quan điểm cho rằng các nhà nghiên cứu Việt Nam đã bắt đầu nói về điều này ngay từ đầu thế kỷ XX khi lần đầu tiên họ bộc lộ về quan điểm chủng tộc.

Ý tưởng cho rằng có một số lớn di dân đã làm thay đổi cơ bản văn hóa châu thổ sông Hồng đã không được các bằng chứng sử học và khảo cổ học ủng hộ. Tuy nhiên, trong thực tế không cần phải có một dân số lớn mới làm thay đổi đáng kể văn hóa và ngôn ngữ.

Để hiểu được điều này, chúng ta cần suy nghĩ về hai bài viết mà tôi đã đề cập trong blog này: một bài viết về bài của Richard A. O’Conner [5], và bài khác viết về bài của John Phan [6]

Như tôi đã viết trước đây, John Phan cho rằng ngôn ngữ Việt Nam được tạo ra khi một số người nói phương ngữ Trung Quốc chuyển sang nói một ngôn ngữ địa phương (giống như người Normans ở Anh vậy) ở một nơi nào đó vào thế kỷ IX – X, còn Richard O’Conner thì cho rằng những người như người “Việt” hình thành thông qua sự tham gia vào nền nông nghiệp lúa nước. Đặc biệt ông còn cho rằng những người thuộc các tộc người khác nhau dần dần hình thành một “nhóm tộc người” riêng biệt khi họ bắt đầu theo cùng các loại nghi lễ và giao tiếp với các quan chức (khi sử dụng ngôn ngữ “mới” mà John Phan đã xác định) là những người quản lý nguồn nước, thu thuế, …v.v.

Điều mà tôi thấy là đây. Thay vì có một nhóm “Bách Việt” “sống sót”, thì điều có vẻ đã xảy ra là trong giai đoạn cuối đời nhà Đường, có các thành viên của nhóm tinh hoa thuộc khu vực mà ngày nay gọi là nam Trung Quốc và bắc Việt Nam bắt đầu tạo thành các quyển ảnh hưởng riêng của họ và bắt đầu tạo ra một ý thức địa phương cho bản thân họ (điều này trên thực tế đã xảy ra trên toàn bộ đế quốc Đường vào thời gian đó).

Họ không thực hiện điều đó bằng cách đồng nhất hóa với những người địa phương. Thực ra họ có ý định coi nhiều nhóm người xung quanh là “man di”. Thay vào đó, họ sử dụng một số thông tin tồn tại trong các văn liệu (chẳng hạn các ghi chép về nước Nam Việt của Triệu Đà) để tạo ra các tước vị cho các chính thể địa phương và để kết nối các lĩnh địa mới của họ với nguồn thông tin trong các văn bản cổ.

Trong một môi trường như vậy, nó tạo ra một ý thức mà những người như Lý Công Uẩn có thể đã đem đến từ các vùng của cái gọi là Phúc Kiến ngày nay và kết thúc sự thống trị trên một vương quốc thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Họ có thể làm được như vậy vì nhóm tinh hoa trên khắp vùng này đều có chung một văn hóa tinh hoa.

Ngày nay nhiều người có tham vọng phân biệt về phương diện tộc thuộc một số nhóm người sống trong thời kỳ đó. Có những người muốn coi Nùng Trí Cao là “Tày Thái”, trong khi đó lại có người cho Phùng Áng là “Hán”, …v.v.

Trong thực tế thì nhóm tinh hoa trên khắp vùng này đều có chung các tương đồng văn hóa với nhau hơn là với những người mà họ cai trị. Không có lý do gì cho bất cứ một chính thể nhỏ bé nào trong thời gian đó phải bị thống trị bởi những người đồng nhất về phương diện tộc thuộc, vì họ đã được thống nhất bởi một văn hóa tinh hoa, và có lẽ không phải là nhóm tinh hoa ở bất cứ nơi nào thuộc các vùng này cũng đều đồng nhất về phương diện tộc thuộc.

Nếu Lý Công Uẩn thực sự là người Phúc Kiến, thì có lẽ không phải là tất cả mọi người trong cung đình của ông đều giống ông về phương diện tộc thuộc. Cái đã thống nhất nhóm tinh hoa thống trị lại chính là họ có chung một văn hóa, và họ giao tiếp bằng một ngôn ngữ chung (rõ ràng là một ngôn ngữ thứ hai đối với một số người).

Và nếu John Phan đúng thì ngôn ngữ được nhóm tinh hoa vùng châu thổ sông Hồng sử dụng trong thời Lý Công Uẩn nắm quyền vẫn còn là một ngôn ngữ hoàn toàn mới. Hơn nữa, nếu ngôn ngữ này được hình thành khi những người nói một phương ngữ Trung Quốc “chuyển hướng” sang nói một ngôn ngữ địa phương và trong quá trình đó đã đem đến nhiều ngữ vựng mới thì có lẽ đã không có gì quá khó khăn đối với những người đã Hán hóa từ Phúc Kiến đến để học ngôn ngữ đó, khi nó có lẽ có nhiều từ chung với ngôn ngữ riêng của ông ta.

Cùng với thời gian, toàn bộ những điều đó đều thay đổi khi văn hóa tinh hoa này dần dần phổ biến đến người bình dân. Điều đó đã diễn ra như thế nào? Một phần thông qua các quá trình mà O’Connor đã đề cập. Bằng việc tuân thủ trật tự của giới tinh hoa trong việc cam kết với nghề nông làm lúa nước, bằng việc thực hành các lễ thức mà nhóm tinh hoa đã thiết lập, bằng việc lắng nghe các tích truyện về các thần linh địa phương mà nhóm tinh hoa tạo ra nhằm đưa các thần này (mà bản thân người địa phương cũng tin tưởng) vào hệ thống quyền uy của mình, và bằng việc giao tiếp với nhóm tinh hoa bằng ngôn ngữ mà nhóm tinh hoa sử dụng, những người bình dân dần dần thay đổi (tất nhiên quá trình đó không hoàn toàn là con đường một chiều, nhưng tôi lại cho rằng ảnh hướng của nhóm tinh hoa đối với các nhóm không phải tinh hoa là rất lớn – như các trường hợp đã xảy ra mọi nơi trên toàn thế giới.

Quá trình này diễn ra trong nhiều thế kỷ, và trong thực tế nó vẫn còn đang tiếp diễn. Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn những người đang tiếp tục trở thành người Việt.

Vì vậy điều mà tôi muốn nói là không phải người Việt là những “người cuối cùng của Bách Việt” , mà thay vào đó họ là những “người đầu tiên của Bách việt”, vì cái văn hóa và ngôn ngữ ngày nay được thừa nhận là “Việt” chỉ bắt đầu hình thành vào gần cuối thiên niên kỷ I SCN, và thông qua quá trình này mà một nhóm người bắt đầu tự coi mình là “Việt” (chứ không phải là được dán nhãn bởi người bên ngoài bằng cái tên đó, như trường hợp thiên niên kỷ I TCN Bách Việt được đề cập đến trong các nguồn sử liệu thời gian đó), và tự hình dung mình là một nhóm hậu duệ của “Bách Việt”.

Khi tạo ra văn hóa này, nhóm tinh hoa đã sử dụng nguồn thông tin được ghi lại về vùng đó của thế giới trong quá khứ (đó là nguồn của một số thông tin trong các văn bản như Lĩnh Nam Chích quái chẳng hạn) và việc sử dụng tên gọi “Việt”, mãi sau này mới biết, là một trong những mẩu thông tin quan trọng nhất của quá khứ mà họ đã khai thác.

Nhưng đó chính là một tên gọi mà họ đã phát hiện, chứ không phải là tên gọi mà họ đã được thừa hưởng. Vì những người mà “người Hán” coi là “Việt/Yue” thì lại không hề biết rằng họ là “Việt/Yue”. Chúng ta không hề biết họ tự coi mình là ai, đối với trường hợp những người săn đầu người Đông Sơn và toàn bộ những nhóm người khác nhau sống trên toàn bộ khu vực ngày nay được gọi là nam Trung Quốc – và di sản văn hóa của họ đã biến mất từ lâu trước khi Lý Công Uẩn xuất hiện trên chính trường.

Nguồn: The Last or First of the Hundred Việt/Yue?

leminhkhai.wordpress.com/2013/01/13/

Ghi chú của người dịch: *,** “…những nhân vật tinh hoa Hán hóa (Triệu Đà, Lý Bí)” Tôi không rõ ý của Le Minh Khai trong các trường hợp này? Mong anh ấy giải thích kỹ hơn; nếu có thể, thì cả trường hợp Lâm Sĩ Hoằng [林士弘], và Phùng Áng [馮盎]…v.v) nữa.

Tài liệu dẫn

1. Nguyễn Xuân Phước, Bách Việt Trong Lòng Đại Việt, Bài viết được đăng trên tranghttp://www.anviettoancau.net/anviettc/

2. Le Minh Khai, The Problem of the Term “Việt” In a National History, bài viết được công bố trên trang leminhkhai.wordpress.com/06Sep12

3. Le Minh Khai, Đông Sơn Headhunters, leminhkhai.wordpress.com/27Nov12

4. Le Minh Khai, Nguyễn Phương on the Origins of the Vietnamese Nation, Bài viết được công bố trên trang leminhkhai.wordpress.com/ 08Mar12

5. Richard A. O’Conner 1995. Agricultural Change and Ethnic Succession in Southeast Asian States: A Case for Regional Anthropology, Journal of Asian Studies54.4 (1995): 968-996.

6. John Phan 2010. Re-Imagining ‘Annam’: A New Analysis of Sino-Viet-Muong Linguistic Contact. Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010 [南方華裔研究雑志第四卷 Nam Phương Hoa duệ Nghiên cứu Tạp chí đệ tứ
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top